Nguyễn Ước nhuận sắc và chú thích
1.Ngẫm xem từ trước tới giờ,
Việc đời thực biến như cờ thất tinh [1].
Kim năng ngữ, kiếm dục tình [2],
Ngán cho thế sự nhân tình bấy nhiêu!
*
Ngày xưa ở quận Trần Lưu,
Có nhà họ Thái ra chiều hiếm hoi.
Vợ chồng tuổi ngoại sáu mươi,
Khói hương [3] duy được một người con trai.
Gọi tên là Thái Bá Giai,
10.Vẫn cho khuya sớm dồi mài sử kinh [4].
Nếp nhà vốn sẵn thông minh,
Giai còn nhỏ đã nức danh thần đồng [5].
Văn chương lừng lẫy khắp vùng,
Ðọc trơn bảy thước, thuộc lòng năm xe [6].
Thầy đồ gặp bạn thường khoe:
“Nó rồi ông Cống, ông Nghè [7] nay mai.
Tài hoa nó đã hơn người,
Công danh nó hẳn gấp mười lũ ta.
Hậu sinh khả úy lắm mà,
20.Ta như quạ tuổi, nó là phượng non [8]”.
Ðời tươi như những khuyên son [9],
Thái ông hy vọng cho con nên người,
Trước là tỏ mặt với đời,
Sau là vui hưởng phúc trời [10] cũng hay.
Thái bà canh cửi luôn tay,
Cơm ăn hôm sớm áo may lạnh nồng.
Ðàn bà làm tướng bên trong,
Khuyên con Tử Mẫu [11], thờ chồng Mạnh Quang [12].
Ðã tần tảo, lại tao khang [13],
30.Dưỡng sinh nghĩa cả đá vàng [14] duyên cao.
Ðêm ngày nắng xế bờ ao,
Mưa khuya vườn chuối ra vào tóc sương.
Thái Sinh [15] mỗi buổi tan trường,
Thường về qua xóm Hiền Lương cạnh làng.
Nhà ai trúc vách rèm lan [16],
Thường nghe văng vẳng tiếng đàn bay ra.
Tiếng đâu thắm ngọc tươi hoa.
Tiếng đâu nắng xế, trăng tà, mưa khuya.
Tiếng đâu chấp nối chia lìa,
40.Ngựa lên ải quạnh [17] chim về rừng xa.
Tiếng đâu, ôi! Tiếng Tì bà [18],
Dừng chân Chung tử [19] để mà vấn vương.
Thẩn thờ sớm nắng chiều sương,
Ðàn ai trêu khách qua đường mãi đây.
Ðàn không là rượu mà say,
Ðàn không cay đắng mà cay đắng lòng.
Nhà ai? Quạnh vắng vô cùng,
Thắm gieo hiên giếng, vàng phong ngõ lười.
Tiếng oanh nhại tiếng ai cười,
50.Bóng dương [20] bắt chước bóng người phất phơ.
Một mình năm ngẩn mười ngơ,
Thái Sinh ngâm mấy vần thơ cảm hoài [21].
Ðêm đêm trong tiếng học bài,
Dường như có lẫn một vài tiếng tơ.
*
Mặt đường thưa nhặt lá ngô [22],
Bãi nằm xe cát đò đưa lạnh chèo.
Khắp trời gió lộng vi veo [23],
Sương mai dưới núi, sương chiều trên sông.
Thái Sinh thắc mắc bên lòng,
60.Chờ mong nhưng biết chờ mong những gì?
Mơ màng như ở như đi,
Như vương kén [24] lại, như lìa tổ ra.
Như gần thôi lại như xa,
Xót trăng đầu tháng thương hoa cuối mùa.
Bỗng không ai đợi mà chờ,
Ai tin mà tưởng, ai ngờ mà oan?
Chiều thu thơ thẩn bóng vàng,
Có ai xuôi bước cho chàng đi qua.
Nhà ai bặt tiếng Tì bà,
70.Trong vườn thấp thoáng bóng hoa: bóng người.
Bóng người? Không, bóng hoa tươi,
Bóng hoa? Không, cả bóng người bóng hoa.
Liễu điều [25] thua vẻ thướt tha,
Ðây là đâu? Phải đây là Ðào Nguyên [26]?
Cõi trần mà có người tiên,
Nõn nà như huệ, dịu hiền như lan.
Thái Sinh dừng bước bên đàng,
Hồn say đắm quá tình càng đắm say.
Ðàn kia âu hẳn tay này,
80.Sớm chiều trong gió bay đầy tiếng tơ.
Ngàn thu sóng vỗ vào bờ,
Ngàn thu tài tử [27] vẫn chờ giai nhân,
Trong vườn người đẹp bâng khuâng,
Nhẹ vin cành thắm tay ngần ngại tay,
Gió chiều thổi cánh hoa bay,
Gió chiều nhắn gởi với ngày thu sơ [28]?
Thốt như linh cảm bấy giờ,
Giai nhân đưa mắt qua bờ dậu thưa.
Giật mình: Ồ! Lạ lùng chưa!
90.Người nào đứng đó ngẩn ngơ nhìn mình?
Người nào có vẻ thư sinh [29],
Mà đường đột thế ra tình bướm ong?
Quay đi người đẹp lạnh lùng,
Gót son nhẹ bước vào trong buồng điều [30].
Hoa thu rơi rụng thêm nhiều,
Gió chiều hiu hắt, nắng chiều héo hon.
Thái Sinh như kẻ mất hồn,
Nắng tô mãi bóng u buồn dài ra.
Ngẩn ngơ quên trở lại nhà,
100.Bỗng đâu một tiếng cười xòa bên tai.
“Anh này đứng đợi chờ ai?
Hay là định đứng học bài ở đây?”
Thái Sinh đỏ mặt tía mày,
Ngoảnh đầu nhìn lại mới hay bạn mình.
“Ði đâu về đó? Lưu Sinh!”
Lưu cười một tiếng hữu tình mà thưa:
“Huynh ơi! Ðệ thật không ngờ
Từ bao mặt trắng [31] vương mơ má hồng [32]!”
Hai người so bước thong dong,
110.Thái rằng: “Xin thú nỗi lòng cùng anh.
Từ ngày qua mái nhà tranh,
Tiếng tơ người đẹp vô tình bay ra.
Ý lòng nghe vướng tình hoa,
Nhớ nhung không biết có là tương tư?
Ðêm trường rối cả cơn mơ,
Rút con chỉ thắm thả thơ lá điều [33].
Mỹ nhân vũ mộ vân triêu [34],
Biết đâu hàn sĩ [35] sớm chiều lại qua.
Vừa rồi tỏ mặt Hằng Nga [36],
120.Mây vương tóc liễu son pha má đào.
Mi dài mắt sáng như sao,
Huynh ơi! Ðệ ngỡ lạc vào Thiên Thai [37].
Song giai nhân chẳng đoái hoài,
Hửng hờ nàng rảo gót hài [38] vào trong.
Cửa ngoài thắm rụng vàng phong,
Biết sao mà ngỏ nỗi lòng bấy lâu?
Từ nay sách ủ [39] đèn sầu,
Một thân lẵng đẵng [40] qua cầu nhớ thương.”
Lưu Sinh nghe nói tỏ tường:
130.“Anh xông vào chốn tình trường [41] làm chi?
Ðã mang một tiếng nam nhi [42],
Trông lên còn lắm, bước đi còn nhiều.
Hay gì bướm ghẹo ong trêu,
Có như Kim Trọng Thúy Kiều ngày xưa.
Trâm thề quạt ước [43] đong đưa,
Mười lăm năm lận [44] se tơ không thành.
Ví chăng cấu kết với tình,
Sao anh không liệu về trình song thân.
Hai nhà tính chuyện hôn nhân,
140.Ðể cho chỉ Tấn, tơ Tần [45] se chung.
May ra nên vợ nên chồng.
Áo xanh [46] rực rỡ, má hồng đảm đang.
Sáng trăng trải chiếu hai hàng,
Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ.
Can gì thương nhớ bâng quơ,
Ðắng cay cho gặp hửng hờ mà chơi.”
Thái Sinh nghe chửa dứt lời,
Vội vàng bái tạ rằng: “Tôi không ngờ
Mấy lời anh dạy vừa giờ,
150.Thực như bó đuốc soi bờ sao khuya.
Làm cho tôi tỉnh giấc mê,
Làm cho tôi thấy đường đi phải đường.
Mực đen đèn sáng tỏ tường,
Một lời anh đáng làm gương muôn đời.”
Chữ rằng: “Chọn bạn mà chơi”,
Bóng tà đã tắt hai người chia tay.
Ðộ trường [47] mỏi cánh chim bay,
Ðò ngang chuyến cuối tiễn ngày sang đêm.
*
Nhà lan ngõ trúc êm đềm,
160.Ðôi song [48] đựng nguyệt bốn thềm đọng hoa [49].
Giai nhân trong ngọc trắng ngà,
Vốn dòng họ Triệu, tên là Ngũ Nương,
Từ lâu kính vỏ cao đường [50],
Hai thân [51] nửa mái tóc sương chầu trời.
Tủi mình là gái mồ côi,
Ngả ba đường cái đầy lời bướm ong.
Vậy nên khoá chặt khuê phòng,
Ðem thân liễu yếu vun trồng hoa tươi.
Lụa đào chưa lọt tay ai [52],
170.Mùa hoa bán cất cho người mua buôn.
Bụi hồng chẳng ở chân son [53],
Xuân xanh tuổi mới trăng tròn gương nga [54].
Anh Mai, chị Cúc, em Trà,
Ðầy vườn hồng hạnh, một nhà chi lan.
Phụ thân truyền lại ngón đàn,
Cho con từ buổi từ quan [55] trở về.
Lời trung [56] vua chẳng thèm nghe,
Cái thanh cao ép một bề thì thôi.
Về nhà dạy trẻ đàn chơi,
180.Vinh hoa với đám mây trôi khác gì?
Hạc vàng [57] đôi chiếc bay đi [58],
Nghìn thu trần thế có về nữa đâu.
Bỗng nhiên trời thảm đất sầu,
Khăn tang hai dải trên đầu Ngũ Nương.
Của nhà này chút lửa hương [59],
Bốn dây tơ héo [60], một vườn hoa tươi.
Ngũ Nương chẳng chút biếng lười,
Hoa đầy sớm sớm, đàn vơi chiều chiều.
Gái tơ yên phận nhà nghèo,
Nghĩ chi lá thắm chỉ điều [61] vẩn vơ.
*
Nào hay vì mấy đường tơ,
Xui nên chắp nối giấc mơ một người.
Có không, duyên nợ [62] bởi trời,
Thái Sinh ngay buổi được lời bạn khuyên.
Vội về trình với thông huyên [63],
Xin cho mình được kết duyên cùng người.
Rằng con đã lớn khôn rồi,
Chăm nghiên bút [64] để biếng lười thần hôn [65].
Công cha nghĩa mẹ tày non,
Một con lỗi đạo làm con sao đành?
Xin cho được kết duyên lành,
200.Ðể cho bên hiếu bên tình vẹn đôi.
Hai thân nghe nói mỉm cười,
Rồi ra ta sẽ mượn người dò la.
Ví bằng là gái nết na,
Nhà nghèo thì chọn dâu gia [66] nhà nghèo.
Ðể yên cha mẹ liệu chiều,
Con còn trẻ, cố mà theo học hành,
Chớ đam [67] vào một chữ tình,
Mà hư mà phụ công trình mẹ cha.
*
Hết mùa lá rụng thu qua,
210.Vườn mai bừng nở năm ba cánh gầy
Khắp trời vẫn một màu mây,
Gió trôi heo hút mưa bay lạnh lùng.
Ai mà gối chiếc đêm đông,
Người ta lấy vợ lấy chồng ngổn ngang.
Vấn danh nạp thái [68] huy hoàng,
Trong thôn đón rể, ngoài làng đưa dâu.
Liền liền như gió mưa mau,
Trai lành gái tốt đua nhau đá vàng.
Mặt sông băng giá chưa tan,
220.Thái Sinh đã cưới được nàng Ngũ Nương.
Ðộng phòng tỏ sáp [69] thêm hương,
Mắt xanh tài tử, má hường giai nhân.
Duyên tế ngộ, nghĩa Châu Trần [70],
Giữa mùa đông có mùa xuân chen vào.
Chuyên tay hợp cẩn [71] rượu đào,
Trong thiên hạ dám men nào đọ [72] say?
Lung linh cuối mắt đầu mày,
Có tay trắng ngọc chờ tay trắng ngà.
Nồng nàn e ấp thiết tha,
230.Nửa như bạn mới, nửa là người xưa.
Sinh rằng; “Từ buổi vương tơ,
Lương duyên [73] nào có ai ngờ đến nay,
Kiếp xưa tu hẳn đã dày,
Mới xui chim phượng về cây ngô đồng [74].
Giờ đây nên vợ nên chồng,
Trăm năm thật đã thoả lòng khát khao.”
Ngũ Nương e ấp cúi đầu,
Mặt hoa da phấn ửng màu chu sa [75]:
“Dám thưa thân phận đàn bà,
240.Mười hai bến nước [76] có là lênh đênh.
Ðược rày hương lửa ba sinh [77],
Se duyên quân tử [78] gửi tình tri âm [79].
Trước là phụng dưỡng song thân,
Sau là sửa túi nâng khăn hầu chàng.
Mong sao trọn nghĩa đá vàng,
Lấy chồng thì gánh giang san nhà chồng.
Thiếp tôi vụng dại má hồng,
Dám xin quân tử lấy lòng mà thương.”
Sinh rằng: “Hoa đuốc phòng hương,
250.Em ơi nói chuyện đường trường ấy chi?
Chén này em hãy cạn đi,
Bóng dương xin hướng hoa quì đêm nay.”
Thưa rằng: “Giai lão [80] từ đây,
Phải chi tình nghĩa một ngày hay sao.
Vì chàng thương đến má đào,
Xin cho giải tỏ thấp cao đôi lời.
Khuyên chàng đừng lấy làm chơi,
Chăm bên tình ái bỏ lười văn chương.
Vẻ gì một chút phấn hương [81],
260.Gắng đi cho hết con đường năm xe [82].
Nữa mai gió lạnh hoa hòe [83],
Lấy đâu vốn liếng trảy về kinh đô?
Tài trai sự nghiệp là to,
Có đâu coi nặng chuyến đò thê nhi!
Ðã lòng vâng chữ vu qui,
Phấn son thiếp dám tiếc gì phấn son?”
Sinh rằng: “Biển cạn non mòn [84],
Những lời em nói xin chôn vào lòng.
Trăm năm kết một dải đồng [85],
270.Ðắm say duyên mới mặn nồng tình xuân.”
Ngẫm xem lời nói tân nhân [86],
Kính yêu giờ lại bội phần kính yêu.
Mùi trinh bạch, nét yêu kiều,
Thái Sinh chẳng dám ra chiều lả lơi.
Ngũ Nương nâng nhẹ chén mời,
Phô răng thạch lựu, hé môi anh đào [87].
Tóc mây cánh phượng bồng cao,
Còn giai nhân đến thế nào nữa không?
Sinh rằng: “Non nước hằng mong,
280.Cho nghe đôi tiếng tơ đồng được chăng?”
“ Ðã lời dạy đến xin vâng,
Chỉ e tài mọn phu quân chê cười.”
Bồ đào tửu, dạ quang bôi [88],
Tiếng tì bà chẳng giục người lên yên.
Một đàn năm ngón tay tiên,
Một đàn chim mộng triền miên bay về.
Ðàn như tỉnh, đàn như mê,
Ðàn se vợi vợi, đàn về đăm đăm.
Tri âm đàn gọi tri âm,
290.Ðàn ngời ánh ngọc, đàn ngâm giọng vàng.
Phải đây là khúc hợp hoan [89]?
Một bàn tay bốn dây đàn nở hoa.
Ngổn ngang nhưng vẫn khoan hoà,
Người nghe lẳng lặng để mà đắm say.
Khôn ngăn ý đẹp tràn đầy,
Thái Sinh nắm lấy bàn tay đương đàn:
“Như em tài sắc song toàn,
Anh thề sẽ đúc nhà vàng đón em.”
Ngẩn ngơ bốn mắt trao nhìn,
300.Ðôi môi hé nụ cười duyên não nùng!
Bên ngoài mưa gió mùa đông,
Lò hương đã nguội sáp hồng thì vơi.
Màn the đôi cánh buông rồi,
Chăn hương gối phấn một trời phấn hương.
Mắt ngà [90] men rượu yêu đương,
Thái Sinh dần rõ Ngũ Nương nõn nà.
Tóc nhung viền suốt thân ngà,
Nhụy hồng e ấp tình hoa đầu mùa.
Rùng mình như nếm mơ chua,
310.Cái tê tái muốn vỡ bờ hợp hoan.
Nóng sôi ý phượng tình loan [91],
Hỡi ơi! Bó thắt đôi làn cánh tay.
Thèm mà nín, khát mà say,
Xốn xang nhựa mạnh tuôn đầy búp tơ.
Mày cao đôi má chín nhừ,
Tân nhân ứa lệ hoen mờ mắt xanh.
Thoắt mà đêm đã tàn canh,
Sáng bong bóng cá qua mành mưa bay.
Nhành hoa tươi ngại ánh ngày,
320.Tiếng gà ướt rượt giọng đầy nước mưa.
*
Chàng đọc sách, thiếp se tơ,
Ðêm đêm trăng sáng làm thơ đầu giường.
Nhà thanh [92] đắp đổi bữa thường,
Quản chi sớm nắng chiều sương phai nhoà.
Tròn nội trợ, vẹn tề gia,
Ra đường vội vội, về nhà chăm chăm.
Trồng dâu để đợi chăn tằm,
Dậy từ tối đất, đi nằm lặn sao.
Ông bà gương sáng thềm cao,
330.Ðứng ngồi phụng dưỡng, ra vào thần hôn.
Cùng chồng duyên sắt tình son,
Vợ hiền dâu thảo tiếng đồn gần xa.
Tháng ngày đầm ấm bay qua,
Sánh đôi loan phượng đã tà hai trăng [93].
Tháng giêng vừa tiết đầu xuân,
Xanh um lá mạ trắng ngần hoa cam.
Mưa xuân rắc bụi quanh làng,
Bà già sắm sửa hành trang đi chùa.
Ông già vào núi đề thơ,
340.Trai tơ đình đám, gái tơ hội hè.
Trường An [94] nẩy quế đan trì [95],
Nhà vua xuống chiếu mở kỳ ân khoa [96].
Truyền rằng sĩ tử [97] gần xa,
Thu đèn sách lại để mà tiến kinh.
Thi hương, thi hội, thi đình [98],
Thơm danh kim bảng [99], thoả tình vũ môn [100].
Một ngày nghe tỏ chiếu son [101],
Thái ông vội vã giục con đăng trình [102].
Ngậm ngùi một nỗi Thái Sinh,
350.Thiếu niên ai chẳng nặng tình thê nhi?
Má đào không thuốc mà mê,
Lửa hương hai tháng bỏ đi sao đành.
Ngũ Nương hay rõ sự tình,
Nửa đêm vấn lại tóc xanh khuyên chồng:
“Làm trai ở chí tang bồng [103],
Ðền ơn cha mẹ, phụ công [104] học hành.
Bây giờ gặp bước khoa danh [105],
Trời cho cơ hội đầu xanh bảng vàng.
Nhờ chồng thiếp cũng vẻ vang,
360.Võng anh đi trước, võng nàng theo sau.
Cớ chi đắm mận say đào,
Trượng phu giam mãi thân vào buồng hương.
Hãy xin kíp kíp lên đường,
Tài chàng ắt hẳn không nhường một ai.
Ví như chàng chẳng chịu lời,
Tội này thiếp gánh trọn đời sao xong!”
Thái Sinh ý chẳng đẹp lòng,
Ðưa tay gỡ rối lại vòng tóc xanh.
Ngũ Nương châu lệ hai hàng,
370.Vai non thổn thức ướt tràn cánh tay:
“Ngũ Nương ơi! Rõ đắng cay!
Thuốc bùa chi để chồng mày say mê?
Ðể chồng quấn quít buồng khuê [106],
Ðể cho thiên hạ kẻ chê người cười.
Tàn đi nhan sắc cho rồi,
Vướng chân chồng sống ở đời làm chi?
Mai này thiên hạ vinh qui [107],
Biển [108] cờ rợp ngõ, ngựa xe đầy đường.
Ông Nghè toàn những người dưng [109],
380.Học trò Ðức Khổng [110] còn đương ngủ ngày.
Tưởng rằng cá nước rồng mây [111],
Ngờ đâu thiếp đến nỗi này hỡi ơi!”
Thái Sinh nghe bấy nhiêu lời,
Mười phần mới quyết cả mười phần đi:
“Thôi đừng than khóc làm chi,
Rồi xem anh sẽ vinh qui như người.
Ngặt vì đường sá xa xôi,
Tiền lưng gạo bị cậy ai bây giờ?
Nhà ta thanh bạch từ xưa,
390.Rách lành đắp đổi muối dưa lần hồi.
Lấy đâu bạc nén tiền rời,
Vậy nên anh mới chịu ngồi bó tay.”
Ngũ Nương nhỏ nhẹ thưa ngay:
“Ý anh đã quyết việc này em lo.
Của riêng còn mảnh vườn hoa,
Xin đem đoạn mại [112] ắt là phải xong.
Xin anh đừng lấy làm lòng,
Của chung: của vợ của chồng, của ai?
Mong sao chàng được thành tài,
400.Mẹ cha em hẳn ngậm cười cõi tiên [113].”
Thái Sinh cảm nghĩa [114] vợ hiền,
Cầm tay chàng mới thốt nên một lời:
“Chứng minh có đất có trời,
Cho anh đỗ để đền bồi cùng em.
Chuyến này đầu bảng khôi nguyên [115],
Giàu sang bõ lúc nghèo hèn có nhau”.
Thưa rằng: “Nghĩa trọng [116] tình sâu,
Vợ chồng ai dám mong đâu đền bồi.
Mai kia thật có như lời,
410.Phúc nhà vả cũng phúc trời cho anh.
Ðền ơn đôi đức sinh thành [117],
Mười năm đèn sách công trình biết bao.
Phấn vua tô đến má đào,
Thơm lây được có phần nào là may.”
Vừng hồng vừa rạng ngày mai,
Ngũ Nương trình lại với hai ông bà.
Xin cho mình được về nhà,
Ðể lo liệu bán vườn hoa cho chồng.
Ông bà nghe nói mủi lòng,
420. Rằng: “Con hiếu thảo thật không ai bì.
Ðầu xanh nào nghiệp duyên [118] gì
Ai xui con lấy làm chi chồng nghèo?”
Thưa rằng: “Cha mẹ quá yêu,
Lòng con sợ hãi bao nhiêu cho vừa.
Lẻ loi chút phận trẻ thơ,
Trăm thương ngàn mến cũng nhờ mẹ cha.
Vả chăng của cũng của nhà,
Ra gì một mảnh vườn hoa tồi tàn.
Con về vườn tược thành hoang,
430. Cỏ không chăm được sao bằng bán đi.
Thêm vào lộ phí một ly,
Cho chồng con kịp khoa thi mai ngày.”
Ông rằng: “Thực có là may,
Ý con hợp với lòng thầy đang lo.”
Thưa rằng: “Thầy mẹ ưng cho,
Con xin về gấp để thu xếp dần.”
Bà rằng: “Phúc đức vô ngần,
Dâu tôi thực đã mười phần đảm đang.
Thôi con tùy tiện mà làm,
440. Sao cho ổn thoả mọi đàng thì thôi.
Mẹ cha giờ đã già rồi,
Lòng con hiếu thảo ắt trời đền công.”
Ba ngày thu xếp vừa xong,
Ngũ Nương sắm sửa cho chồng đi thi,
Tiểu đồng một đứa thuê đi,
Áo tơ đủ bộ, ngựa kỳ [119] một đôi.
Bút nghiên lều chiếu hẳn hoi,
Bạc thoi chẳng thiếu, tiền rời có dư.
Quá quan [120] xin đủ giấy tờ,
450. Chọn ngày tháng tốt đợi giờ lên yên.
Nàng còn sửa lễ gia tiên [121],
Cầu cho chàng được bình yên dọc đường.
Lại làm một lễ tứ phương [122],
Cầu cho chàng được vào trường hanh thông.
Cho chàng tên chiếm bảng rồng,
Xem hoa chạy ngựa thoả lòng nam nhi [123].
*
Ðến giờ lên ngựa phân ly,
Cả nhà tiễn Thái Sinh đi bàng hoàng.
Ông bà khuyên nhủ bảo ban,
460. Ðưa con ba bốn đặm đàng mới lui.
Thái Sinh lòng trẻ bồi hồi,
Cầm tay vợ chẳng nỡ rời mà than:
“Từ đây cách trở quan san [124],
Còn đâu người ngọc trăng vàng đêm đêm.
Buồn đơn bóng chiếc mình em,
Mẹ cha tóc bạc càng thêm chạnh lòng.”
Ngũ Nương chua xót não nùng,
Gượng lau nước mắt cho chồng yên tâm:
“Thưa rằng vàng đá [125] một thân,
470. Em xin thề có quỉ thần [126] hai vai.
Thần hôn chẳng dám đơn sai,
Buồng trong há để dặm ngoài băn khoăn.
Thiếp tôi rau tảo rau tần,
Màn the chẳng để gió xuân lọt vào.
Chàng đi dặm ngút đèo cao,
Thân ngàn vàng phải giữ sao cho toàn [127].
Mong chàng hai chữ bình an,
Chúc chàng bốn chữ bảng vàng đầu xanh [128].
Cha già, mẹ yếu, vợ lành,
480. Chàng ơi chóng chóng khoa danh mà về.
Xin đừng ong bướm si mê,
Kẻo mà bóng liễu bên đê nó dài [129].
Kinh đô cát bụi mù trời,
Người đi chớ để lạc loài vó câu [130].”
Nhìn nhau rồi lại nhìn nhau,
Gió bay tà áo loạn màu thiên thanh.
Khôn ngăn vó ngựa lâm hành [131],
Dù muôn tơ liễu buông mành lê thê.
Người đi không bỏ người về,
490. Thương ơi! Gỗ đá biệt ly cũng buồn.
Nữa là hai vợ chồng son,
Mới hai tháng chẳn chung giường hợp hoan.
Bỗng mà rẽ phượng chia loan,
Buồng sâu vò võ dặm ngàn lẻ loi.
Rừng thưa bóng ngựa khuất rồi,
Từ nay hẳn có hai người nhớ nhau.
*
Tớ thầy dong ruỗi vó câu,
Hai bên dặm khách một màu xuân tươi.
Núi xa nổi bật da trời,
500. Sông gần uốn khúc nằm phơi lụa vàng.
Gieo thoi cánh én bên ngàn,
Nương dâu thấp thoáng đôi nàng gái tơ.
Ðoản trường đình [132] dựng mau thưa,
Liễu nương cành yến như chờ tay vin.
Hoa rơi nước chảy theo miền,
Buồn chăng hỡi kẻ ngang thuyền với hoa.
Ngày đi đêm nghỉ dần dà,
Sương mai lác đác nắng tà chênh vênh.
Ngậm ngùi lòng kẻ thư sinh,
510. Nhớ cha nhớ mẹ nhớ tình gối chăn.
Vắt ngang mây trắng non tần,
Ngẩn ngơ đầu ngựa mấy lần ải quan.
Cỏ bồng như tóc chàng Phan [133],
Canh khuya quán trọ trăng vàng lẻ loi.
Ðâu còn lược kép giường đôi,
Ðâu còn cánh cánh tay người vợ ngoan?
Và đâu còn nữa tiếng đàn,
Vì đâu con phượng con hoàng [134] xa nhau?
Sáu mươi ngày đã bao lâu,
520. Sáu mươi ngày đã vơi đâu ái tình?
Vì đâu cho bóng lạc hình,
Cái khoa danh khéo cột mình lắm thay!
Thiều quang [135] chầm chậm vơi đầy,
Ngày thâu như tháng, ngày chày như năm.
Tiếng đàn để vắng tri âm,
Buồng hương để lạnh chiếu nằm cho ai.
Áo hoa chẳng nỡ sân Lai [136],
Cửa thưa đậm bóng hai người tóc sương.
Một lòng chín nhớ mười thương,
530. Cầu cao gió đón dặm trường mưa theo.
Vợ son [137] con một nhà nghèo,
Ra đi ai chẳng ít nhiều xót xa.
Mai rồi chạy ngựa xem hoa,
Phấn vua lộc nước [138] ấy là duyên may.
Bằng không tên chiếm bảng ngoài [139],
Uổng công học vấn thẹn đời bút nghiên.
Mười năm tốn sách hao đèn,
Mỉa mai chúng bạn ưu phiền vợ con.
Nghĩ càng bối rối lòng đơn [140],
540. Một thầy một tớ lối sờn [141] tịch liêu [142].
Này đây quán chợ về chiều,
Trại nghiêng dáng khói, thành xiêu bóng cờ.
Này đây bến đợi sông chờ,
Lao đao trong gió mấy bờ hoa lau.
Này đây truông [143] dặm đèo cao,
O o vượn khóc, rào rào chim bay.
Này đây quán nước lòng mây,
Ông già hái thuốc rượu say quên về.
Này đây tửu điếm bên đê,
550. Ðôi con ngựa ốm dong xe chở hàng.
Này đây rải rác xóm làng,
Tiếng nhanh dệt lụa, giọng vàng ru con.
Này đây phường phố bán buôn,
Cát bu vó ngựa, bụi dồn bánh xe.
Hết thành thị đến thôn quê,
Cứ cho đầu ngựa quay về Tràng An.
Tớ thầy vò võ chinh an [144],
Kể chi những nỗi gian nan dọc đường.
*
Thương tình nàng Triệu Ngũ Nương,
560. Giận không phá được cánh rừng trước kia.
Cánh rừng đã mọc phân ly,
Cánh rừng che mắt người đi của nàng.
Gió xuân như gió khổ hàn [145],
Chao ôi! Lá liễu cũng vàng tiết thu.
Gió bay đầu tóc rối bù,
Nắng phai bóng đá vọng phu nhạc dồn.
Quay về dạ vẫn bâng khuâng,
Quay về hồn vẫn theo gần dặm xa.
Phòng hương đêm ấy trăng tà,
570. Nàng còn thao thức để mà nhớ nhung.
Rõ ràng chăn vải gối bông,
Màn the chiếu cói nhưng chồng đã xa.
Nhụy hồng khắc khoải lòng hoa,
Bỗng dưng ai cánh tay mà lẻ loi!
Mộng về bươm bướm bay đôi,
Mộng đi bươm bướm bay rồi còn đâu!
Há xui chàng mịch phong hầu [146],
Tài trai ai thoát khỏi cầu công danh [147].
Nhớ thương cho mấy cũng đành,
580. Nặng ai khoa giáp [148] nhẹ mình phu thê.
Cơm gạo hẩm, củi phên che,
Chuyện xưa còn đó riêng gì mình ta?
Phương chi còn mẹ còn cha,
Con chưa danh phận lòng già khó nguôi.
Giờ đây chàng đã vắng rồi,
Dám chăng thương nhớ để lười thần hôn.
Một mình chiều sớm ban hôm,
Ra tay gánh vác giang sơn nhà chồng.
Khi ấp lạnh, khi quạt nồng,
590. Một thân hiếu thảo vui lòng hai thân.
Thắt lưng buộc bụng chuyên cần,
Trưa còn trèo núi, sáng ăn cơm đèn [149].
Hạt mưa bao quản phận hèn,
Lòng son [150] chẳng bận chê khen miệng đời.
Lời oanh [151] nhẹ nét xuân tươi,
Rách lành xiêm áo, ngọt bùi cơm canh.
Chong đèn dệt lụa cho nhanh,
Một con thoi suốt ba canh đi về.
Kể từ một biệt [152] trên đê,
600. Bốn bề hàng xóm thôi nghe tiếng đàn.
Tri âm đã vắng tai chàng,
Nhện giăng dây đứt, bụi hàng phím long.
Gái trinh chỉ biết một chồng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai!
Ðiểm trang cho lắm cũng hoài,
Tổ cho ong bướm ngõ ngoài vo ve.
Liễu bồ [153] nhớ dập [154] thương che,
Cỏ thơm đã rụng hoa lê trắng ngần.
Hỡi ơi! Kẻ Việt người Tần [155],
610. Trông ra chỉ thấy mấy lần non xanh.
Về chiều mây trắng bay nhanh,
Chuông chùa triêu mộ, trống thành thu không [156].
Từ lâu giam cấm nỗi lòng,
Ðêm nay cho thiếp nhớ chồng một phen.
Lâm râm dế cỏ sân thềm,
Bóng trăng xanh biếc, hoa đèn đỏ tươi.
Nhớ xưa này ghế chàng ngồi,
Chàng vê bút thỏ [157], thiếp mài nghiên trăng.
Rồng bay phượng múa [158] nào bằng,
620. Tiếng ngâm cao điệu [159], mạch văn xuôi dòng.
Tay gầy khép mở cánh song,
Lược trôi hai suối, gương lồng một tranh.
Cung đàn tiếng trọc tiếng thanh,
Dây văn dây vũ điều bình điệu cao.
Ðêm nay lại nhớ đêm nào,
Chồng tôi xa vắng gió vào chi đây?
Ðêm nào để đến đêm nay,
Nằm vơi trăng xế nhớ đầy gối nghiêng.
Nét xuân còn để y nguyên,
630. Buồng xuân còn thoảng hương nguyền thanh tân [160].
Gái xuân đem lại mùa xuân,
Nõn như hai cánh tay rần thì thôi.
Ðêm nay mộng cả hai người,
Ngổn ngang hình ngọc, lả lơi ý vàng.
Ðêm giờ tình thiếp ngổn ngang,
Cửa thiên thai ngỡ như chàng đã xa.
Tương tư cho hết canh gà,
Nằm gan [161] lại sợ việc nhà ai coi,
Rào thương lấp nhớ cho rồi,
640. Cha già mẹ yếu dám rời đạo con.
Nhớ chi xuân hết hay còn,
Ngày hao gió tỉa đêm mòn mưa pha.
*
Thái Sinh dong ruổi đường xa,
Vời trông [162] trước mắt đã là Tràng An.
Tưng bừng phố dọc đường ngang,
Cung son rực rỡ, điện vàng nguy nga.
Chật đường sĩ tử gần xa,
Mưa xuân đã héo hoa trà mới tươi.
Tớ thầy tìm chốn nghỉ ngơi,
650. Sáng sau chải chuốt ra chơi phố phường.
Kinh đô gái đẹp dị thường [163],
Hoa thua màu thắm, liễu nhường vẻ thanh [164].
Vàng đeo ngọc giắt đầy mình,
Lụa điều sắc sáng, gấm xanh da trời.
Khi không cũng đắm được người,
Mắt đưa gươm bén, miệng cười dao cau.
Thái Sinh dạo gót hồi lâu,
Không ai cắt cứa mà đau đớn lòng.
Phồn hoa trăm tía nghìn hồng,
660. Phút giây quên kẻ phòng không đợi chờ.
Guồng đời rối rít lòng tơ,
Nước men tráng lệ phai mờ thủy chung.
Thi hương, thi hội vừa xong,
Thái Sinh thực đã thỏa lòng nam nhi.
Tên treo đầu bảng hai kỳ,
Tiếng tăm nổi dậy bốn bề đất kinh [165].
Tuần sau nhập điện [166] thi đình,
Tài cao học rộng phúc lành duyên may.
Dầy thêm chữ tốt văn hay,
670. Chín lần lên chấm năm mây [167] xuống bài.
Truyền loa kéo bảng cửa ngoài,
Trạng nguyên [168] là Thái Bá Giai ấp Trần.
Bỗng mà rực rỡ phong vân [169],
Thái Sinh còn ngỡ mình nằm chiêm bao.
Vua ban dạ yến [170] lầu cao,
Mũ hoa dải tía, áo bào đai xanh.
Trường An mưa thuận gió lành,
Vua cho chạy ngựa Cấm Thành [171] xem hoa.
Ngẫm mình rạng vẻ tân khoa [172],
680. Cao vời lộc nước, sáng lòa ơn vua.
Khi xưa áo vải anh đồ [173],
Ngựa hoa áo gấm bây giờ quan sang.
Trong triều khuyết chức Thị lang [174],
Vua liền xuống chiếu lúc chàng tại kinh [175].
Thang mây [176] đều bước công danh,
Mảng vui thành thị, nhẹ tình gia hương [177].
Ðua đòi kiểu cách quan trường [178],
Chọn nơi luồn cúi tìm đường giao du.
Mâm đào lý [179], chén tạc thù [180],
690. Ðăng sơn buổi sớm, dạ du canh trường [181].
Bén mùi liễu ngõ hoa tường [182],
Hà Mô lăng hạ [183], Tầm Dương giang đầu [184].
Chưa giàu sang đã sang giàu,
Tuyệt nhiên quan Trạng hết sầu hết thương.
Nhớ gì hai mái tóc sương,
Tào khang [185] một chút phấn hương quê mùa.
Những ai ngày tưởng đêm mơ,
Lên lầu tựa cửa đợi chờ những ai?
Lòng người chóng đã đơn sai [186],