* Suy tưởng về cổ ý:
Tôi cứ ám ảnh về câu chuyện mà Vũ Phương Đề thuật lại trong Công dư tiệp ký. Câu chuyện kể về nhà sư Huyền Minh trụ trì chùa Quang Minh (xã Hậu Bổng, huyện Gia Phúc), về già một đêm ông nằm mơ thấy Phật Di Đà giáng xuống điện thờ, triệu ông đến bảo rằng: “Nhà ngươi có công với Phật giáo, đến nay đã được nhiều năm. Tấm lòng từ bi của người đã thấu đến Thượng đế. Kiếp sau ngươi được giáng sinh xuống làm vong quốc Hoàng đế. Người nên nhớ lấy.”
Tỉnh dậy, ông gọi các đạo tràng bảo rằng: “Ta từ khi xuất gia quy y cửa Phật, vẫn tưởng tiền duyên rửa sạch, thiện quả viên thành, hậu thân được siêu linh vào nơi bảo tọa tòa sen. Không ngờ ngày sau luân hồi, đem bao năm công phu giới hạnh đổi lấy địa vị khó nhọc nhất ở trần gian. Có lẽ tiền sinh nghiệp chướng của ta chưa được rửa sạch mà phải chịu thế chăng?”
Sau Lễ bộ thị lang Nguyễn Tự Cường đi sứ Trung Quốc, vua Minh vời tới và nói với ông: “- Trẫm sinh ra, trên vai có viết mười chữ son đỏ rằng: “An Nam quốc Quang Minh tự sa Việt tì khâu”. Đó chính là 10 chữ mà nhà sư Huyền Minh trước khi mất, đã dặn các đạo trăng dùng son viết 10 chữ vào vai ông trước khi làm lễ hỏa táng.
Cái ám ảnh của tôi có lẽ là câu chuyện kỳ lạ về hậu thân của nhà sư Huyền Minh lại là một vị vua của nhà Minh. Cái ám ảnh hơn cả, là việc nhà sư Huyền Minh than rằng, nếu hậu thân làm vua thì tức là “đổi lấy địa vị khó nhọc nhất ở trần gian”. Đúng, ngôi vua là địa vị khó nhọc nhất, nhưng cũng là khát khao quyền lực lớn nhất của mỗi kiếp người nằm ẩn sâu trong tiềm thức khi con người đó hiện diện ở trần gian. Có lẽ một tham vọng đã được nhóm lên trong tiềm thức nhà sư Huyền Minh ngay từ ấu thời, nhưng rồi do hoàn cảnh hoặc do duyên phận mà hạt mầm đó phải nén lại và xoá mờ dấu vết. Trước khi mất, tham vọng đó lại trồi lên trong mơ.
Tác giả “Luận bàn về văn minh” đã nói rất thú vị về việc tránh đau khổ tìm đến niềm vui sướng và hạnh phúc của con người, để tránh những va đập và những cản trở không thể vượt qua của thế tục, có một con đường đạt đến nó là tu hành. Nhưng, theo tác giả thì niềm vui sướng này có thể đạt được, nhưng rất bằng phẳng đơn điệu và tẻ nhạt.
Tu hành là duyên nghiệp, nhưng cũng có thể nó được quyết định bởi hoàn cảnh đặc biệt, hoặc bởi sự xô đẩy hoặc thoái lui của con người khi nhận thấy những tham vọng, ước vọng của mình bị thế tục ngáng trở và đè bẹp – tức là một sự thừa nhận thất bại của ham muốn trong thế tục.
Tôi đọc đi đọc lại nhiều năm vào những thời kỳ khác nhau Đạo đức kinh của Lão Tử. Ngày đầu xuân, tôi chợt nhận ra rằng, đúng đó là cuốn sách dạy làm vua một nước – nhưng đó chính lại là cuốn sách chứa đầy tràn ham muốn tham vọng của con người - để đạt đến ham muốn và tham vọng, con người cần phải tạm thời xoá nó đi, tạm thời đè nó xuống. Lão Tử nhận ra cái gốc rễ sâu xa bản chất của con người, là ham muốn và tham vọng chế ngự vĩnh viễn họ. Cùng với sự vận hành của đời sống con người và sự vật luôn diễn ra trong sự nghịch lý, phi lý – Lão Tử đã mách bảo con người, rằng cái áp lực được tạo ta là từ ham muốn, tham vọng của mỗi con người. Con người không nên và không thể diệt trừ hoàn toàn ham muốn. Lão Tử đã dạy con người phải thuận theo lẽ tự nhiên ấy, tức là thuận theo cái tưởng như nghịch lý, phi lý để đạt đến ham muốn và tham vọng, cao vọng. Bởi cái đích đến của mọi ham muốn và tham vọng luôn luôn gặp những khó khăn trở ngại, đối mặt với những lực phản từ những ham muốn và tham vọng khác, luôn cùng tồn tại sát kề không rời, nó hằng mọc lên tủa tủa như nấm sau mưa trong ý thức và vô thức của con người.
Thực ra Khổng Tử cách quá xa Lão Tử. Khổng Tử quá tin vào thế tục và thế sự theo hướng giáo lý một chiều ép mình theo lễ, phảng phất màu của lãng mạn và lý tưởng – có chăng, đó chính là cái thế giới mang màu của ảo giác chất chứa tràn đầy khát vọng về con người và trật tự của xã hội loài người. Khổng Tử chưa kịp nhìn thấu bản chất của con người như Lão Tử đã phơi bày nó trước thanh thiên bạch nhật - mà chính cái bản chất đó lại quyết định sự vận hành của các xã hội loài người.
* Nhà thơ và thi ca
Con đường tìm tới niềm vui và hạnh phúc của con người qua mợi thời đại trong đời sống thế tục là bất khả giải. Tác giả “Luận bàn về văn minh” đã chỉ ra 3 con đường tìm tới niềm vui và hạnh phúc mà con người đã làm, nhưng chỉ dành cho một thiểu số rất nhỏ bé với những người có tư chất thiên phú đặc biệt, hoặc hoàn cảnh đặc trưng, hoặc dùng kích thích hoá chất từ bên ngoài. Nhìn chung, niềm vui này cũng chỉ diễn ra trong những thời khắc quá ngắn ngủi so với thời gian đẵng đẵng mà kiếp người phải trải qua trong đời sống trần gian. Những bất hạnh mặc nhiên cứ như những làn sóng thuỷ triều dềnh liên tiếp lên số phận của con người.
Nhà thơ và những người thuộc về nhóm sáng tạo, được thiên phú tư chất đặc biệt, anh ta tìm kiếm và cảm nghiệm hiện tại từ thế giới của sự vật và thế giới con người, rồi làm hiện hình một sáng tỏ cái cảm nghiệm mang rất nhiều yếu tố của trực giác qua tác phẩm sáng tạo của mình.
Tôi đồ rằng thi ca hiện ra từ thế giới ảo giác của nhà thơ. Thơ ca chính là thứ ký hiệu của thông điệp mà nhà thơ muốn gửi tới đồng loại trong khát khao kiếm tìm sự đồng cảm với thế giới ảo giác của mình. Do sẵn mang cái hạt mầm của thế giới ảo giác trong tư chất ngay từ ấu thời, nên nhà thơ không khỏi lận đận trong những bước chân nơi thế tục gập ghềnh khúc khuỷu và ngoắt ngoắt như những mê lộ, càng đi càng xa càng bị cuốn sâu vào những ngõ ngách của ma trận đồ, sự thất vọng càng tăng, khát vọng lại càng bùng cháy.
Cái ký hiệu để biểu đạt thế giới ảo giác của nhà thơ với công cụ chủ yếu là ngôn ngữ của đồng loại; nhưng cái ký hiệu của ý tưởng bằng nhịp điệu, âm điệu và hình tượng thông qua ngôn ngữ, thì chỉ có một số ít đồng loại tiếp nhận và hiểu chúng, còn lại số đông, hoặc hờ hững, hoặc không hiểu chúng. Do vậy, mới cần đến những người giải mã được những ký hiệu của ngôn ngữ đó, để truyền đạt nó đến số đông. Vậy nên, ngay sự tìm kiếm sự đồng cảm của nhà thơ với những thông điệp của mình là vô cùng khó khăn – từ sự khó khăn này làm dâng lên khát vọng đồng cảm thật lớn lao trước đồng loại.
Thi ca là sản vật thăng hoa của nhà thơ mang dấu vết đậm đặc của khát vọng, ước vọng mà con người không thực hiện được trong đời sống thế tục. Sản vật của nhà thơ, là những ký hiệu bằng ngôn ngữ từ bản thông điệp của khát vọng, ước vọng muốn truyền đạt tới đồng loại và khao khát tìm kiếm sự đồng cảm của đồng loại./.
Hà Đông, sáng mồng 6, tháng giêng, Canh Dần 2010