Năm 111 trước tây lịch, vua Vũ Đế nhà Hán bên Tầu chiếm lấy nước Nam Việt và cải tên là Giao Chỉ Bộ. Nước ta bị nước Tầu đô hộ bắc thuộc lần thứ nhất, kéo dài 151 năm, bởi nhà Tây Hán. Năm 40 sau tây lịch, hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị khởi binh, thắng Tô Định, xưng làm vua được ba năm.
Từ năm 43 Mã Viện thắng Trưng Vương, nước ta bị bắc thuộc lần thứ hai, kéo dài trên 500 năm, bởi nhà Đông Hán, qua các đời Tam Quốc, nhà Tấn, Nam Bắc Triều. Năm 544, Lý Bôn nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư về Tàu, rồi xưng đế, gọi là Lý Nam Đế, lập nên nhà Tiền Lý (544- 602).
Năm nhâm tuất (602), vua Văn Đế nhà Tùy bên Tầu sai tướng Lưu Phương đem 27 doanh quân sang đánh Nam Việt. Hậu Lý Nam Đế là Lý Phật Tử sợ thế không địch nổi, bèn xin về hàng. Nước ta bị bắc thuộc lần thứ ba, kéo dài 336 năm, bởi nhà Tùy, qua nhà Đường và đời Ngũ Quí.
Năm kỷ hợi, 939, sau khi đã giết Kiều Công Tiễn, rồi thắng Hoằng Tháo ở sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã chấm dứt được ách bắc thuộc, lập nên nhà Ngô, mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần,.. được tự chủ.
Từ năm 111 trước tây lịch, khi vua Vũ Đế nhà Hán chiếm lấy nước Nam Việt cho đến năm 939, khi Ngô Quyền đánh đuổi người Tầu về Bắc, đếm ra vừa đúng 1050 năm. Trong 1050 năm bị bắc thuộc, người Việt Nam ta đã nhiễm cái văn minh của Tầu rất mạnh, đặc biệt là về sự học vấn và về cách cai trị. Những học phái lớn, như Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, đã từ Tầu mà ảnh hưởng vào đời sống của người Việt Nam một cách sâu rộng. Ảnh hưởng này chỉ hiện rõ nét từ thời tự chủ (939-1528), tiếp tục qua thời Nam Bắc phân tranh (từ năm 1528 đến 1802) và thời Cận kim (từ năm 1802 đến 1945). Phật học độc tôn thời Đinh, Lê, Lý Trần. Tam giáo cực thịnh từ Lý, Trần. Nho học độc tôn từ Trần, Lê, Trịnh, Nguyễn. Ngày nay, nhận, hay không nhận, không còn người Việt Nam nào kỳ thị tam giáo đến từ nước Tầu nữa, mà ngược lại, ai cũng coi tam giáo như gắn liền với người Việt Nam và văn hoá Việt Nam.
Nhưng từ thế kỷ thứ XVI, văn minh Âu châu hùng mạnh, lan tràn khắp thế giới, một tôn giáo khác, từ Âu Châu, đạo Công Giáo, đã được rao truyền khắp năm châu và đã vào Việt Nam. Người Việt Nam, công giáo hay không, đều đặt nhiều câu hỏi. Mà hai câu hỏi đầu tiên sẽ là : Đạo Công Giáo dậy gì ? Đã vào Việt Nam thế nào ?
A. Đạo Công Giáo dậy gì ?
Thiên Chúa giáo gồm có 3 đạo, là Do Thái giáo, Gia Tô giáo và Hồi giáo. Gia tô giáo gồm có đạo Công Giáo, đạo Tin Lành và đạo Chính Thống. Trong các đạo Thiên Chúa và Gia Tô, thì Công Giáo là đạo vào Việt Nam sớm hơn cả và đã góp phần nhiều hơn cả trong việc xây dựng văn hóa xã hội cho Việt Nam.
Nói về lịch sử Đạo Công Giáo trên thế giới, Trần Trọng Kim đã rất xúc tích tóm tắt rằng : Nguyên khi xưa toàn xứ Âu-la-ba không có nhất định một tông-giáo nào cả. Mỗi dân-tộc thờ một vị thần riêng của mình. Thường hay lấy cái lực hoạt động của tạo-hóa mà tưởng-tượng ra các vị thần, rồi làm đền, làm đài, để thờ cúng. Như dân tộc Hi-lạp (Grec) và dân-tộc La-mã (Romain) thờ thần Giu-bi-te (Jupiter), thần A-bô-lông (Apollon) và các vị thần khác vậy. Duy có dân-tộc Do-thái (Juifs) ở đất Tiểu Á-tế-á, nay là đất Palestine đã được độc-lập, chỉ thờ một vị thần gọi là Jéhovah sinh-hóa vạn vật và người; cho nên người chỉ phải thờ một vị thần ấy mà thôi. Đến đời dân La-mã đã kiêm-tính được cả đất Tiểu Á-tế-á, đất bắc A-phi-lị-gia và đất tây-nam Âu-la-ba, dân Do-thái cũng thuộc về La-mã, mà đạo Do-thái bấy giờ cũng đã suy lắm rồi. Lúc ấy đức Gia-tô ra đời, nhân đạo Do-thái mà lập ra đạo mới (Đạo của ông Gia Tô lập ra cho nên ta thường gọi là đạo Gia Tô, lại vì đạo ấy chỉ thờ Thiên Chúa mà thôi, cho nên lại gọi là đạo Thiên Chúa. Có phái gọi là Cơ đốc bởi chữ Christ là bậc cứu thế), dạy người lấy sự yêu-mến và tôn-kính Thiên-chúa làm gốc, lấy bụng từ-bi nhân thứ, coi người như anh em ruột thịt làm cốt. Từ đó về sau các môn đồ đem đạo ấy đi truyền-bá các nơi. Ông Saint Pierre thì sang lập giáo đường ở tại Kinh-thành La-mã, ông Saint Paul thì đi truyền đạo ở khắp trong nước.
Lúc đầu đạo Thiên-chúa bị nhiều phen vua La-mã nghiêm-cấm, dùng cực hình mà giết hại các giáo-sĩ và những người theo đạo mới, nhưng dẫu nguy-nan thế nào mặc lòng, các môn đồ cứ một niềm đi truyền đạo khắp bốn phương. Mãi đến đầu đệ-tứ thế-kỷ (313) vua La-mã là Constantin mới cho giảng đạo Thiên-chúa ở mọi nơi trong nước. Từ bấy giờ trở đi đạo Thiên-chúa một ngày một thịnh, lập Giáo-hoàng để thống-nhất việc giáo, đặt Giám-mục để coi việc giáo ở các nơi, lại sai giáo-sĩ đi truyền đạo khắp trong thiên-hạ : hễ ở đâu có người là có giáo-sĩ đến dạy đạo. Bởi vậy cho nên chẳng bao lâu mà toàn Âu đều theo đạo Thiên-chúa cả.
Bên Á đông ta thì từ đời nhà Đường (618-907) sử chép có Cảnh giáo ( Cảnh giáo là một phái đạo Gia Tô của người chủ giáo tên là Nestorius lập ra từ đệ ngũ thế kỷ ở Đông La Mã, rồi truyền sang nước Ba Tư (Perse) và nước Tàu.), tức là một phái Gia-tô-giáo đã sang Tàu, nhưng vì bấy giờ đạo Phật đang thịnh, cho nên đạo Cảnh-giáo mất dần đi. Mãi đến đời nhà Nguyên, nhà Minh mới thật có giáo-sĩ sang giảng đạo Gia-tô ở nước Tàu. [1]
Sang thế kỷ XV, với việc Christophe COLOMB (1451-1506) khám phá ra Mỹ Châu ngày 12.10.1492, việc ông cắm lá cờ của vua Tây Ban Nha và cây thập giá Ðức Kitô trên thế giới mới tìm thấy này và việc ông đặt cho chúng những tên mới : Sal Vador, Santa Maria, Trinidad, (Ðấng Cứu Thế, Thánh Nữ Maria, Chúa Ba Ngôi) thì đạo Công Giáo đã mở một kỷ nguyên mới : truyền giáo trên khắp thế giới, từ Phi châu, qua Á Châu, đến Mỹ Châu và Úc Châu.
Công Giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVI. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, căn cứ vào tổ chức giáo hội, chia Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam làm 3 thời kỳ : 1- Thời kỳ Bảo Trợ, gọi nôm na là Thời kỳ Công Giáo vào Việt Nam (1533-1659) ; 2- Thời kỳ Tông Tòa, gọi nôm na là Thời kỳ Công Giáo Phát Triển ở Việt Nam (1659-1960) ; Và Thời Kỳ Chính Tòa, gọi nôm na là Thời Kỳ Công Giáo Trưởng Thành ở Việt Nam (từ 1960 đến ngày nay).
B. Đạo Công Giáo vào Việt Nam (1533-1659) thế nào ?
Thời kỳ Công Giáo Vào Việt Nam kéo dài từ 1533 đến 1659. Thời kỳ này được gọi là Bảo Trợ, vì Tòa Thánh Rôma đã trao quyền Bảo trợ Truyền Giáo, do sắc lệnh Romanus Pontifex ngày 28/01/1455, cho triều đình Bồ Đào Nha. Từ đó, nước này có trách nhiệm và quyền lợi lo « Bảo Trợ » mọi việc truyền giáo và tổ chức giáo hội tại các phần đất họ khám phá ra. Từ năm 1494, Bồ Đào Nha phải phân chia quyền Bảo Trợ này với Tây Ban Nha. Các nước Nhật, Trung Hoa, Việt Nam, Xiêm,… thuộc quyền Bảo trợ Bồ Đào Nha (padroado) ; Các nước Phi Luật Tân, Mễ Tây Cơ, Mỹ châu,.. thuộc quyền Bảo Trợ Tây Ban Nha (patronato).
Ở Việt Nam, thời kỳ Bảo Trợ bắt đầu từ năm 1533, vì đó là dấu tích lịch sử đầu tiên, ghi dấu Công Giáo vào Việt Nam. Kết thúc năm 1659, vì ngày 09/09/1659, Tông Tòa Rôma thiết lập hai giáo phận đầu tiên ở Việt Nam và trao cho hai giám mục, đại diện Tông Tòa, trực tiếp điều hành giáo hội địa phương, mà không qua trung gian hai nước bảo trợ Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha nữa.
Thời Kỳ Bảo Trợ trải dài trên hai giai đoạn lịch sử việt nam : giai đoạn Nam Bắc Triều Lê Mạc (1527-1592) và một phần giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh (1570-1786). Bốn sự kiện quan trọng đáng ghi nhớ về thời kỳ Bảo Trợ Truyền Giáo :
1. Thế kỷ XVI, Công giáo vào Việt Nam và thành lập bốn cộng đoàn đầu tiên. Trong thế kỷ XVI, lịch sử Việt Nam loạn lạc với những tranh chấp giữa nhà Mạc và nhà Lê (1527-1592). Bắc triều nhà Mạc, cũng như Nam triều nhà Lê đều mời đón người Âu châu vào buôn bán với mình. Làm tuyên úy cho các thương thuyền người Âu, các giáo sĩ theo thương gia người Âu bắt đầu đến và truyền giáo ở Việt Nam.
Năm 1533, Theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, vào tháng 3 năm Nguyên Hoà thứ I (1533), một người Âu Châu tên là Inêkhu đến truyền giáo ở làng Ninh Cường, huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ thuộc giáo phận Bùi Chu, tỉnh Nam Định ngày nay [2].
Địa điểm thứ hai đã được tiếp nhận Tin Mừng là Thanh Hóa, với việc tòng giáo của công tử Đỗ Hưng Viễn, con quan đại thần triều Lê trung hưng, vào khoảng những năm 1560-1570, dưới thời Lê Anh Tông (1556-1573), vị vua đã biên thơ xin đức cha Carneiro ở Áo Môn gởi thừa sai đến Việt Nam. Đến triều Lê Thế Tông(1573-1599), lên ngôi còn nhỏ tuổi, được chị là công chúa Chèm làm nhiếp chính. Bà đã sai sứ giả sang Áo Môn nhiều lần, xin đức cha Carneiro gửi thừa sai đến Việt Nam. Năm 1588-1589, đức cha gởi hai cha triều Alphonso de Costa và Juan Gonsalves đến Việt Nam. Năm 1590, cha Pedro Ordonez de Cevallos bị dạt bão vào Việt Nam, được đưa về kinh đô vua Lê ở An Trường (Thanh Hóa). Nhờ sụ giảng dậy của cha, bà chúa Chèm đã trở lại đạo và lãnh phép rửa tội cùng với nhiều nàng hầu và cung nữ ngày 22/05/1591. Bà lấy tên thánh là Maria, nên gọi là Mai Hoa. Bà lập một tu viện, lấy tên là dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, trong đó, ngày 26/06/1591, cha Ordonez đã dâng lễ và 51 nữ tu đầu tiên đã làm lễ khấn tạm. Nhiều người dân cũng đã trở lại đạo, sống thành làng Giatô, đông đến 400 nhân danh. Cuối năm 1591, Hoàng Thái Hậu, mẹ công chúa Mai Hoa, cũng đã trở lại đạo, trước khi chết.
Cũng trong thế kỷ XVI, địa điểm thứ ba đã được đón Tin Mừng là Quảng Nam - Thuận Hóa, với việc hai linh mục dòng Daminh là cha Luis de Fonseca và Grégoire de la Motte đến Quảng Nam năm 1580-1586, và sau đó, việc ba nhà truyền giáo khác, dòng Đa Minh, là cha Alfonso Jímenez, cha Diego và thầy trợ sĩ Juan Bautista Deza đến Cửa Hàn vào năm 1595 và đã khuyên được 2 tù nhân bị án tử hình ở Thuận Hóa theo đạo và an táng theo lễ nghi công giáo.
Địa điểm thứ bốn được đón tin mừng là Thăng Long. Theo lời mời của Mạc Mậu Hợp, một phái đoàn các cha dòng Phanxicõ, gồm 4 linh mục là D. Operosa, B. Ruiz, P. Ortis, Fr. Montila và 4 thầy trợ sĩ cập bến An Quảng (Quảng Yên), ngày 01.05.1583. Nhưng khi vừa rời bến để lên Thăng Long, thì tầu bị bão đánh dạt sang đảo Hải Nam. Hai năm sau, cha Ruiz, đã 61 tuổi, trở lại được Thăng Long, được vua tôi Nhà Mạc đối xử tử tế và được tự do giảng đạo, nhưng không có ai theo đạo. Ngài chỉ rửa tội được cho một em bé sắp chết.
2. Thế kỷ XVII, Công giáo hội nhập vào xã hội việt nam và thành lập nhiều cộng đoàn khác. Sang thế kỷ XVII, với phân tranh Trịnh Nguyễn (1570-1786), xã hội Việt Nam vẫn còn loạn lạc với bảy trận đánh Bắc Nam : 1627, 1630, 1635, 1648, 1655, 1661, và 1672. Chúa Trịnh cũng như chúa Nguyễn, ai cũng muốn tiếp xúc với người Âu Châu để võ trang cho mình.
Tiếp nối công việc truyền giáo mà các cha Đaminh và Phanxicô đã thực hiện trong thế kỷ XVI, sang thế kỷ XVII, các cha dòng Tên đã đến gieo vãi Tin Mừng rộng rãi hơn trên khắp các miền Việt Nam. Từ năm 1615 đến 1643 ở Đàng Trong và từ năm 1627 đến 1663 ở Đàng Ngoài, trên 30 thừa sai dòng Tên đã đến truyền giáo ở Việt Nam. Nhiều vị giảng đạo bằng tiếng việt. Và tầt cả đều thích ứng Tin Mừng vào phong tục việt nam. Đây là những cử chỉ hội nhập văn hoá đầu tiên. Dùng tiếng việt, để diễn đạt những khái niệm công giáo, rất mới đối với người Việt Nam. Dùng những phong tục Việt Nam, như sự hiếu thảo và nếp sống gia đình, để biểu lộ và sống đức tin công giáo, còn nhiều xa lạ với xã hội việt nam.
Nhờ vậy, hạt giống Tin Mừng đã được dễ dàng đón nhận hơn : Tháng 7 năm 1615 cha Buzomi đến giảng đạo tại Quảng Nam và gặt hái được nhiều thành công. Nguyên năm ấy cha rửa tội được 300 người. Bề trên sai thêm Cha Pina sang giúp. Năm 1621 Cha Pina mở khu vực truyền giáo mới tại Quảng Nam. Cha đã chinh phục được nhiều người thông thái trong giới quan lại và lập nhà thờ, rửa tội 50 người. Trong số những người thông thái có gia đình ông Giuse, gia đình cụ Phêrô, Manuelle, bà Minh Ðức Vương Thái Phi, quan cố vấn Paolô.
Nhiều cộng đoàn mới đã được thành lập. Ở Đàng trong, cha François Buzomi và các đồng bạn đã mang Tin Mừng đến 5 cộng đoàn : Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Thuận Hóa. Ở Đàng Ngoài, cha Đắc Lộ và đồng bạn đã mang tin mừng đến 7 cộng đoàn : Thanh Hóa, Nghệ An, Thăng long, Kẻ Bắc, Kẻ Đông, Kẻ Nam, Kẻ Tây.
3. Nhưng từ sự khác biệt văn hóa, thêm vào với những đố kỵ trong cuộc sống hằng ngày, những khó khăn, cấm cản và bách hại đã dần dà hiện rõ.
Tại Đàng Trong, Tháng 12/1625, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên, nghe lời dèm pha của người Hòa Lan và lời tố cáo bỏ bê tổ tiên và các tục lệ quốc gia, ra sắc chỉ cấm người Công giáo Việt Nam không được mang trên mình hoặc treo trong nhà thánh giá và các ảnh tượng. đến thời Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan, (1635-1648) sắc chỉ năm 1639 trục xuất tất cả các thừa sai. Năm 1644, Nhà Chúa ra một sắc lệnh cấm đạo rất nhặt. Thầy giảng Anrê Phú Yên tử đạo tại Quảng Nam. Thầy là chứng nhân đầu tiên của Đàng Trong.
Tại Đàng Ngoài, Dưới thời Trịnh Tráng (1627-1658), năm sắc chỉ cấm đạo đã được ban hành vào các năm : 1629, 1632, 1635, 1638 và 1643. Sang thời Trịnh Tạc (1658-1682) ba sắc chỉ vào 3 năm : 1658, 1663, 1669. Năm 1630, một giáo hữu tên thánh là Phanxicô, phu khiêng cáng ở triều đình, bị chém đầu vì tội chôn xác người chết. Ông là chứng nhân đức tin đầu tiên của Đàng Ngoài.
4. Công giáo đã khai sinh ra chữ quốc ngữ cho văn học việt nam. Để loan báo Tin Mừng, tất cả các linh mục dòng Tên đến Việt Nam, đều đã học tiếng Việt. Nhiều vị rất thông thạo. Cha Francois de Pina là người ngoại quốc thứ nhất rất thông thạo tiếng việt, người thứ nhất giảng mà không cần thông dịch viên. Cha Gaspar d’Amaral đã sáng tác từ điển Việt Bồ và cha Antonio Barbosa đã sáng tác từ điển Bồ Việt. Cả ba đều là người Bồ. Và cha Đắc Lộ đã sáng tác và cho in, năm 1651, hai tác phẩm quốc ngữ đầu tiên : cuốn « Tự điển việt bồ latinh » và cuốn giáo lý công giáo « Phép giảng tám ngày ».
LỜI KẾT
Vào Việt Nam năm 1533, các giáo sỹ công giáo đầu tiên đã gặp nhiều khó khăn để truyền giáo cho người việt nam, vì bất đồng ngôn ngữ, khác biệt văn hóa. Từ năm 1615, với các giáo sỹ Dòng Tên, một phương pháp truyền giáo mới, có đường hướng, dựa vào văn hóa, dùng tiếng việt để trình bày những khái niệm công giáo rất mới và dùng phong tục văn hóa việt để sống những lễ nghi công giáo rất lạ, đã thu hút được nhiều người việt nam theo đạo, khởi đầu từ thành phần xã hội cao và lan tỏa qua các thành phần xã hội bình dân.
Hai điều căn bản của giáo lý công giáo mà Trần Trọng Kim đã tóm tắt rất chính xác là : 1- Dạy người lấy sự yêu-mến và tôn-kính Thiên-chúa làm gốc, 2- Lấy bụng từ-bi nhân thứ, coi người như anh em ruột thịt làm cốt. Cả hai khái niệm trên, dẫu có khác biệt về nền tảng độc thần công giáo, nhưng không hoàn toàn xa lạ với văn hóa tam giáo ở Việt Nam, mà lại rất gần với lương tri con người về sự cần thiết của một Thiên Chủ trời đất và của một « Tứ hải giai huynh đệ ». Đó là lý do căn bản, khiến, dẫu có những ganh ghét và đố kỵ, những cấm cản và bách hại trong cuộc sống hằng ngày, vẫn có nhiều người Việt Nam muốn theo đạo.
Vào năm 1659, chưa được 50 năm truyền giáo của các cha Dòng Tên, Giáo Hội Việt Nam chưa có giáo phận biệt lập, chưa có giám mục nào, chưa có linh mục việt nam, nhưng có khoảng 100.000 tín hữu ; 20.000 trong Nam ; 80.000 ngoài Bắc [3] ; qui tụ chung quanh 340 nhà thờ : 75 ở Nghệ An, 183 ở Sơn Nam, 37 ở Hải Dương, 15 ở Kinh Bắc, 20 ở Thanh Hóa, và 10 ở Sơn Tây [4] . /.
Chú thích :
(1) Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Quyển II, Sống Mới, tr. 97-98.
Mười điều răn công giáo tóm gọn trong hai chương : "Ngươi Phải Yêu Mến Ðức Chúa, Thiên Chúa Của Ngươi hết Lòng, hết Linh Hồn và hết Trí Khôn Ngươi" ; "Ngươi Phải Yêu Thương người Thân Cận Như Chính Mình"
(http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/veritas/index.html)
(2). Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, q. XXXIII, tập II, tr.301, Viện Sử học, NXB Giáo dục 1998.
(3) Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên giám 2004, tr. 189.
(4) Bentô Thiện viết trong « Lịch sử nước Anam (năm 1659) rằng : “Nghệ an Xứ những nhà thánh thờ đức Chúa trời được bẩy mươi lăm nhà thánh. Sơn nam Xứ được một trăm tám mươi ba nhà thánh. Hải dương Xứ được ba mươi bẩy nhà thánh. Kinh bắc Xứ được mười lăm nhà thánh. Thanh hoá xứ được hai mươi nhà Thánh. Sơn tây xứ được mười nhà thánh”. Trích trong Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn : Đường mới, 1972, tr. 129.