Lời cảm ơn
Chúng tôi chân thành tri ân: Nhà giáo Nhân dân, Giáo sư Lê Trí Viễn đã tận tình hướng dẫn, và các tác giả, dịch giả có tên trong tài liệu tham khảo đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách này. Nha Trang, ngày 10-12-2009. Trương Quang Cảm
LỜI NÓI ĐẦU
Trương Đăng Quế là danh thần triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, ngoài con người lịch sử làm quan 43 năm trong đó 20 năm giữ nhiều trọng trách lớn, ông còn là một nhà thơ. Đọc thơ Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản cho biết: “Đọc mãi mà chẳng biết mỏi mệt” (Bất giác lưu liên vong quyện dã). Miên Thẩm Tùng Thiện Vương xem thơ Trương Đăng Quế như những viên ngọc châu điểm dưới cổ ly long (ly long chi di châu).
CHƯƠNG I
ĐỜI NGƯỜI
1. Quê hương
Trương Đăng Quế người xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, Tỉnh Quảng Ngãi. Từ thị xã Quảng Ngãi đi theo đường quốc lộ số 1 ra mạn bắc, vừa qua bên kia đầu cầu Trà Khúc, chúng ta sẽ gặp một con đường từ Quán Cơm dẫn về phía đông. Đi độ 2000m, chúng ta gặp ngay núi Thiên Ấn. Đây là đệ nhất thắng cảnh của Quảng Ngãi. Núi cao 105m, trên đỉnh bằng phẳng rộng chừng mười mẫu, bốn mặt vuông phẳng giống như cái ấn, nên gọi là ấn trời (Thiên Ấn). Trên đỉnh núi là một ngôi chùa cổ. Bảng đề là “Thiên Ấn Tự”, do vua Lê Dụ Tông (1727) ban cho nay vẫn còn. Núi Thiên Ấn xưa có nhiều đá son dùng để mài thành mực viết và chấm bài chữ Hán. Ngày còn đi học Trương Đăng Quế thường đến đây chơi. Từ Thiên Ấn nhìn sang hữu ngạn sông Trà cách tỉnh lỵ 2km về phía nam, nơi ấy bốn phía núi thăng bằng, ở giữa một chóp núi nhỏ cao vút lên như ngọn bút vẽ lên trời nên gọi là Thiên Bút phê vân. Bên chân núi có một cái gò vuông gọi là Hòn Nghiên. Nơi đây khi xưa có nhiều cây móc, quả và lá có thể dùng làm mực đen. Các thầy địa lý nói đất Quảng Ngãi có hòn Ấn, hòn Nghiên, hòn Bút nên sinh ra nhiều nhân tài. Từ Thiên Ấn đi thêm 10 cây số nữa là đến một làng quê ven biển. Đó là làng Tịnh Khê còn có tên là Sơn Mỹ hay Mỹ Lai. Một tên làng mà cả thế giới đều biết với vụ thảm sát Mỹ Lai (Sơn Mỹ) 16 tháng 3 năm 1968. Đấy là quê hương Trương Đăng Quế.
Làng Tịnh Khê nằm lọt giữa hai cửa biển lớn: Cửa Sa Kỳ ở phía bắc và cửa Đại Cổ Lũy ở phía nam. Ở gần sát cửa Đại Cổ Lũy, con sông Trà Khúc lại rẽ một nhánh sông chảy dọc theo bờ biển ra hướng bắc hợp với các dòng sông khác đổ ra cửa Sa Kỳ. Nhánh sông này chảy ngang qua trước nhà Trương Đăng Quế. Từ nhà Trương Đăng Quế nhìn ra là con sông, tiếp đến là biển Đông. Hàng năm cứ vào tháng 2, dân ở đây có lễ cúng đất. Họ thường làm chiếc bè chuối chở đầy các vật phẩm cúng như: cua, gỏi, thịt, cá… cúng xong họ thả bè chuối trôi sông. Theo lời kể lại, lúc 5 tuổi Trương Đăng Quế thấy bè chuối trôi sát bờ liền cột lại. Đến đêm, phụ thân Trương Đăng Quế nằm chiêm bao thấy một ông già râu tóc bạc phơ đến khẩn nài nhờ nói giùm ông lớn thả cho đi. Đó là điềm báo trước sự thành đạt sau này của Trương Đăng Quế. Đêm đêm trên sông ghe thuyền qua lại người ta hát những câu hát dân gian trữ tình đằm thắm:
Em chèo theo anh đứt bộ quai chèo
Anh không mé lái nới lèo đợi em
Con sông và làn điệu dân gian đã nuôi dưỡng nên tâm hồn tiên sinh. Từ nhà ông nhìn sang hướng đông nam cách 4 km là thôn Cổ Lũy. Thôn Cổ Lũy nằm trên rẻo đất “trước biển sau sông” là một trong 12 thắng cảnh của Quảng Ngãi. Buổi chiều khi sương xuống, đứng từ xa trông Cổ Lũy giống như vùng khói lẻ loi mờ mờ ảo ảo nên được gọi là Cổ Lũy cô thôn. Bấy giờ thôn Cổ Lũy không khác nào bức họa cổ “Ngư thôn tịch chiếu” trong “Tiêu Tương bát cảnh” của Tống Địch bên Tàu.
Bên phía phải nhà của ông là ngọn núi Thiên Mã giống như đàn ngựa trời đang cất vó ra biển Đông. Cạnh núi Thiên Mã còn có các ngọn núi thấp thoai thoải gọi là Tranh - Gióng. Thuở xưa người dân ở đây mỗi khi đánh cá ngoài biển khơi nhìn vào đất liền hay hứng tình hát:
Ngó vô Tranh Gióng giao kề
Tiếng oan anh chịu em về tay ai
Dân làng Tịnh Khê còn cho rằng núi Thiên Mã gắn liền với sự thịnh suy của dòng họ Trương. Họ truyền lời sấm:
Chừng nào Thiên Mã qua sông
Thì làng Mỹ Lại hết công lại hầu
Cách mạng tháng Tám đã kết thúc chế độ phong kiến. Sự kiện này ngẫu nhiên trùng hợp với sự kiện đất bồi lấp đoạn sông dưới chân núi Thiên Mã. Phía sau nhà Trương Đăng Quế là những cánh đồng bát ngát, lúa khoai ngô đậu. Từ xưa làng Tịnh Khê đã nổi tiếng trồng cây huỳnh tinh, là loại cây sản xuất ra bột huỳnh tinh để nấu chè, làm bánh. Những đêm trăng thanh, nam nữ thường tụ tập giã gạo hoặc lột vỏ củ huỳnh tinh và cùng nhau hát hố.
Nam:
Tới đây trước tôi chào anh em mình cái đã
Sau tôi chào hai ngả kinh tân
Chào luôn tiếng nữa ngoài sân trong nhà
Chào rồi tôi hỏi thiệt bà chủ gia
Con chim đứng đó, chim nhà hay chim ai?
Chim nhà tôi xuống ná, ngừng tay
Hễ chim hàng xóm, dẫu đương bay tôi cũng bắn liền
Nữ:
Chim quan nó ở lồng vàng thanh vắng
Đố anh người phàm, sao dám bắn chim quan
Chính vùng đất có Thiên ấn Niêm hà, có Thiên Bút phê vân, có ngựa trời cất vó, có Cổ Lũy cô thôn và lại có các làn điệu dân ca phong phú đã hun đúc nên đời người, đời thơ Trương Đăng Quế.
2. Gia đình
Tổ tiên của dòng họ Trương gốc xã Phước Long, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, nam tiến từ thời Vĩnh Tộ thứ 5 (Lê Trần Tông 1619 - 1628) lập cư ở làng Mỹ Khê tây, huyện Bình Sơn (nay là Sơn Tịnh), tỉnh Quảng Ngãi. Từ thủy tổ Trương Đăng Nhứt đến tiên sinh vừa tròn bảy thế hệ. Trong thời gian xây dựng vùng đất mới, những người con ưu tú của dòng họ Trương như cai hiệp Huy Đức Tử Trương Đăng Hưng, Thiên Đức Bá Trương Đăng Huỳnh, Thị độc học sĩ Trung thuận đại phu Trương Đăng Giáo, Thái thường tự khanh Trương Đăng Lương, Quyên Đức Hầu Trương Đăng Chánh, Dũ Đức Hầu Trương Đăng Chấn đã phò tá chúa Nguyễn khai phá mở mang, xây dựng một “Giang sơn muôn đời ở phía nam dãy Hoành Sơn”. Suốt tám thế hệ ấy dòng họ đã nối tiếp nhau tồn nhân tích đức. Theo gia phả ghi trong vườn ông Trương Đăng Hưng có một cây đại thụ bị gió bão làm trốc gốc. Ông Hưng đã phát hiện một chum vàng dưới gốc cây ấy. Ông mang vào nhà chôn cất lại. Mười năm sau một người Tàu từ phương xa đến tìm kiếm của báu. Người ấy đưa chúc thư và nhờ ông cùng tìm giúp. Ông Hưng xem xong biết đúng là chủ của chum vàng ấy nên ông mời người khách Tàu về nhà mình và đào lên giao lại cả chum vàng. Người khách Tàu thấy số vàng vẫn còn y nguyên như trong chúc thư đã ghi. Quá khâm phục, người khách Tàu đề nghị tặng lại ông một nửa nhưng ông nhất quyết từ chối. Người khách Tàu phải than rằng: “Ông phước thọ này, tuy nghèo khó được nghìn vàng mà không đem dùng, nay tặng cũng không nhận, cái thạnh tình này, nghìn năm chỉ có một”; xong xuôi xin cáo biệt về nước. Ba năm sau, người Tàu này đã dẫn theo một thầy địa lý đến thăm ông và đề nghị tặng ông một huyệt mộ để báo ân. Tìm xong, thầy địa lý rất ưng ý và có câu rằng: “Giai thành thông thông, thế xuất hầu công” (Ngôi mộ này rất đẹp, đời đời có công hầu). Đó là ngôi mộ Lùm còn gọi là ngôi mộ báo ân, trước 1961 là một thắng cảnh - hiện tọa lạc tại Gò Ra, xã Trà Sơn, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Mộ ấy là cố tổ của Trương Đăng Quế. Cha của tiên sinh là Trương Đăng Phác tri phủ tỉnh Quảng Ngãi thời Tây Sơn. Mẹ là Đỗ Thị Thiết con quan Hoài Đức Hầu thời Tây Sơn, chú là Đô đốc Tú Đức Hầu Trương Đăng Đồ cùng vợ là Nguyễn Thị Dung nữ đô đốc, một trong Ngũ Phụng Thư thời Tây Sơn. Cả hai vợ chồng đều tự sát trong toán quân thất bại cuối cùng của nhà Tây Sơn.
Trương Đăng Quế được hun đúc ra từ một dòng họ có bề dày về “tu nhân tích đức”, có một quá trình nỗ lực kiến thiết xây dựng một vùng đất mới và có một tấm lòng trung quân ái quốc.
3. Bản thân:
Trương Đăng Quế tự là Diên Phương, hiệu là Đoan Trai, biệt hiệu là Quảng Khê, sinh ngày 1 tháng 11 âm lịch năm Quý Sửu 1793 tại làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Ông sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử Việt Nam đầy bão tố và biến động. Trước đấy, cuộc nội chiến xảy ra liên miên hết Lê - Mạc đến Trịnh - Nguyễn rồi Nguyễn - Tây Sơn. Vua Quang Trung mất 1792 kết thúc một thời đại vàng son. Từ đây triều Tây Sơn bắt đầu đi vào sự bế tắc suy vi. Quang Trung mất một năm thì Trương Đăng Quế ra đời (1793). Được 7 tuổi, ông chứng kiến cảnh Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, chứng kiến cảnh gia đình tang tóc. Cha là Trương Đăng Phác đang là tri phủ tỉnh Quảng Ngãi thời Tây Sơn phải ra trình diện chế độ mới. Vợ chồng chú thím ruột là Đô đốc Tú Đức Hầu Trương Đăng Đồ cùng vợ là Đô đốc Nguyễn Thị Dung cả hai đều tự sát để khỏi rơi vào tay Nguyễn Ánh.
Tám tuổi (1801) cha bị bệnh rồi mất. Đến 9 tuổi, tiên sinh gặp cảnh Nguyễn Ánh lên ngôi huy hoàng lấy niên hiệu là Gia Long. Trong những năm đầu của chế độ mới còn khắt khe phân biệt trong đối xử, cuộc sống gia đình gặp nhiều khó khăn. Tiên sinh là con thứ trong một gia đình đông anh em gồm bốn nam, bốn nữ. Những biến động của lịch sử gây nên những khó khăn và bất hạnh liên tiếp đến với gia đình. Nếu gia đình và bản thân ông không có ý chí thì chắc sẽ ngã quỵ ngay từ đó. Thế nhưng nhờ tình đùm bọc thương yêu của gia đình, ông đã quyết tâm tự học tập. Bấy giờ ngoài xã hội đã qua cái thời kỳ trả thù đẫm máu. Gia Long bắt đầu chiêu an dân chúng lập lại kỷ cương trật tự. Chính sách đối xử được nới rộng không còn khắt khe phân biệt như trước nữa. Vốn có một lý lịch nặng nề của chế độ cũ nhưng nhờ vào chính sách nới lỏng đãi ngộ không phân biệt của Gia Long, đặc biệt nhờ trí thông minh và ý chí quyết tâm cầu học, Trương Đăng Quế chọn cho mình con đường tiến thân bằng khoa cử.
Để kén chọn nhân tài ra làm quan, năm 1807 Gia Long cho mở khoa thi hương đầu tiên và sau đó cứ 6 năm mở một lần - Trương Đăng Quế đi thi hương khoa năm Kỷ Mão (1819). Trên đường đi thi từ Quảng Ngãi ra Huế qua đèo Hải Vân ông có ứng khẩu mấy câu:
Cử đầu sơ nhật thượng
Hồi thủ chúng sơn đê
(Ngẩng đầu mặt trời mới mọc
Quay đầu lại núi non đều thấp)
Và:
Xúc mục đông quan duy hữu hải
Hồi đầu nam vọng cánh vô sơn
(Biển Đông trước mặt trong leo lẻo
Núi dựa sau lưng bé tẻo teo...)
Trong Đại Nam chính biên liệt truyện tập 2, quyển 22, tờ 12b lại ghi:
Tịnh đối đông minh duy hữu thủy
Hồi khan nam nhạc cánh vô sơn
Nhiều người cho đó là khẩu khí, điềm báo trước tiên sinh sẽ thành đạt lớn. Kỳ thi ấy, ông đỗ Hương Tiến (Học vị cao nhất thời Gia Long) và trở thành khai khoa thủ sĩ của tỉnh Quảng Ngãi. Năm Minh Mạng nguyên niên (1820) chức là hành tẩu bộ lễ “Minh Mạng sai Nguyễn Thận chọn những người đỗ khoa Kỷ Mão (1819) học hành thuần cẩn để sung vào dạy các hoàng tử. Nguyễn Thận đã chọn ông và cử lên”. Năm 1821, ông giữ chức Hàn Lâm biên tu sung trực học đến 1823 sung Bạn độc. Năm 1826, thăng Hàn Lâm viện thị độc sung Tán Thiện Đường giữ chức trách dạy dỗ hoàng tử. Năm 1828 đổi sang bộ Lại sung chức Hành tẩu văn thư phòng rồi quản lý văn thư phòng. Tháng 10-1828, thăng Thượng Bảo Thiếu Khanh giữ quản cai phòng. Năm 1830, văn thư phòng đổi thành nội các, giữ chức Tả Thị Lang bộ Công. Tháng 6-1830, chủ khảo kỳ thi hạch giáo chức các tỉnh cử lên tại trường Quốc Tử Giám. Tháng 5-1831, ông giữ quyền lãnh quản lý bộ Công. Tháng 10-1831, quyền Tả Tham Tri bộ Hộ. Năm 1832, sung Độc quyển thi đình. Năm 1833, giữ Ấn Triện Đô Sát Viện rồi Toản tu trong ban soạn quốc sử kế tiếp thăng Thượng Thư bộ Binh kiêm Ấn Triện Đô sát viện. Tháng 12-1823, lãnh đánh dẹp tại Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng một cách chóng vánh được thăng thưởng một cấp. Năm 1835, sung cơ mật viện đại thần gia hàm Thái Tử Thiếu Bảo nhận chủ khảo kỳ thi hội. Năm 1836, kinh lược Nam Kỳ chỉ trong vòng 5 tháng mà ông đã lập được địa bạ, đinh bạ cho các vùng đất đang khai khẩn “làm lợi cho nước gấp 3 lần” (lời Tự Đức) - Công trình này về sau “Người Pháp thuộc địa cũng thán phục, nhất là địa bạ đến đầu thế kỷ XX, họ vẫn lấy đó làm căn cứ giải quyết các vụ tranh chấp ruộng đất”. Công việc đạt kết quả tốt, ông được thăng Hiệp biên Đại học sĩ lãnh thượng thư bộ Binh. Tháng 12-1836, kinh lược quân binh Thanh Hóa. Năm 1837, được cử quản lý Khâm Thiên Giám. Năm 1838, chủ khoa thi hội rồi độc quyển thi đình sau đó kiêm nhiệm Hiệp Lý điều khiển thủy quân. Cuối năm nhận trọng trách tuyển binh ngạch tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Ninh Bình. Năm 1839, tấn phong Tuy Thạnh Nam. Năm 1840, nhận di chiếu của vua Minh Mạng tôn vua Thiệu Trị. Năm 1841, thăng hàm Văn minh điện Đại học sĩ gia Thái bảo. Năm 1842, hộ giá Bắc tuần lao nhọc được phong Tuy Thạnh Tử. Năm 1844, kiêm thêm Ty Tào Chánh. Gặp năm thi hội ông được cử chủ khảo rồi kế tiếp độc quyển thi đình. Năm 1846, được Vua ban thẻ ngọc khắc chữ vàng “Cố mạng lương thần” tấn phong Tuy thanh bá - Có công trong việc tham mưu an định Trấn Tây (Campuchia) nên được khắc tên tuổi công nghiệp trong khẩu súng thần công Bảo Đại Định công Đệ Nhất Vị. Tháng 9-1847, nhân di chiếu của vua Thiệu Trị tôn vua Tự Đức. Ít lâu sau được thăng Cần Chánh Điện đại học sĩ tấn phong Tuy Thạnh Quận công. Năm 1850, được vua ban một khánh vàng khắc 4 chữ “Tam Triều Thạc Phụ”.
Đời làm quan của ông tất cả 43 năm thật hanh thông rực rỡ. “Mới lập nội các tiên sinh vào nội các, mới xây dựng viện cơ mật tiên sinh sung cơ mật, vừa mở tòa Kinh Diên, tiên sinh đến giảng tại Kinh Diên, mới định phủ phụ chánh, tiên sinh làm phụ chánh”. Trong 43 năm có 20 năm là ông giữ trọng trách lớn nhất. Mọi việc trong triều là do vua và ông quyết định. Thời gian sung trực học hay bạn độc cũng như giảng luận và chủ khảo các kỳ thi hội, độc quyển các kỳ thi đình, ông đã góp phần đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Sau 5 lần xin về hưu trí 1850, 1851, 1855, 1862, 1863, đến lần 6 tháng ba 1863 tuổi đã 70 ông mới được lui về vườn cũ, sống dưới mái nhà tranh vách đất được 2 năm rồi mất 1865. Vua ban hàm Thái sư, Thụy Văn Lương.
Thuở nhỏ, Trương Đăng Quế nổi tiếng học giỏi và thuộc Truyện Kiều vanh vách, vì thế mỗi khi có người đọc sai, cậu liền sửa ngay. Dân làng Tịnh Khê còn truyền bài vè uống rượu, trong đó có đoạn khuyên kẻ uống rượu say không nên đọc Kiều, vì đọc sai cậu sửa thì xấu hổ
Vè vẻ vè ve
Cái vè uống rượu
Rượu say đừng ré
Bé khuỵu chân xiêu
Đừng hát Truyện Kiều
Cậu phê thằng dốt
Ngay từ thời còn nhỏ, Trương Đăng Quế đã thích làm thơ. Chính người đã nói điều này “Thơ đối với tôi, lúc nhỏ không có thầy dạy, chỉ do ham thích mà làm”. Đến khi làm quan, được cử đi công tác khắp nơi trong nước. Vốn có tâm hồn nhạy cảm và yêu thơ nên đi đến đâu ông cũng để lại nhiều bài thơ. Ra công tác ngoài Hà Nội, ông sáng tác bài Hà Nội hoài cổ. Đến thăm Văn Miếu có bài Thu đinh yết Văn Miếu hữu cảm (Bài thơ ghi lại cảm xúc trong ngày đinh mùa thuyết Văn Miếu). Nhận mệnh lệnh đi công tác ở Thanh Hóa, ông có bài Khâm mạng kinh lược Thanh Hóa, đến Châu Lương Khánh (Thanh Hóa) để thăm có bài Sơ để Lương Khánh châu (Vừa mới đến châu Lương Khánh). Đi thuyền đến Kim Sơn (Thanh Hóa) viết bài Chu bạc Kim Sơn tân thứ (Ghé thuyền bến đò Kim Sơn). Trên đường đến Nghệ An, viết bài Nghệ An đồ trung kỷ kiến (ghi lại điều thấy giữa đường Nghệ An). Trên đường vào Nam công tác, ghé vào Nha Trang ông có bài Cù Huân vãn bạc (Chiều ghé bến Cù Huân). Thuyền đi ngang qua Quảng Ngãi, cảm xúc viết nên bài Thuyền quá Quảng Ngãi cố hương (Thuyền đi ngang qua quê cũ Quãng Ngãi). Vào đến Nam Kỳ có bài: Khâm mạng kinh lược Nam Kỳ lục tỉnh. Lên thành Phiên An (Gia Định) viết bài Đăng nguyên Phiên An thành hữu cảm (cảm xúc khi lên thành Phiên An cũ). Tại các nơi công tác, ông còn lưu tâm tới thăm các danh lam thắng tích. Thăm chùa Bửu Phong, một danh thắng của Biên Hòa, cảm xúc sáng tác bài Du Bảo Phong tự (Viếng chùa Bảo Phong). Đến thăm cảnh đẹp Hà Tiên, ông cảm xúc viết bài Hà Tiên. Thăm động Hồ Công, một thắng cảnh thuộc xã Thọ Vực, Vĩnh Lộc Thanh Hóa, ông đề bài thơ Đề Hồ Công động (Đề động Hồ Công). Đi qua núi Tam Điệp, ngẫu hứng viết bài Quá Tam Điệp sơn (qua núi Tam Điệp). Đến thăm núi Dục Thúy, một danh thắng thuộc tỉnh Ninh Bình, nơi đây nhiều danh sĩ đến thăm và đề thơ, tiên sinh cũng có đề một bài thơ Khâm mạng kinh lược Bắc Kỳ hà đê ư Ninh Bình đăng Dục Thúy sơn ngẫu đề (Nhận mệnh đi kinh lược vấn đề đê điều sông ngòi ở Bắc Kỳ, đến Ninh Bình lên thăm núi Dục Thúy ngẫu nhiên đề thơ). Ngoài con người của một ông quan đại thần ra, ở Trương Đăng Quế còn là con người có tâm hồn nhạy cảm. Và cũng chính nhờ tâm hồn như thế nên thơ đến với ông một cách tự nhiên. Điều này chính người cũng xác nhận: “Gặp việc gây hứng đối diện với cảnh vật mà thành bài ngâm vịnh”. Bên cạnh một tâm hồn nhạy cảm, Trương Đăng Quế còn có một kiến thức rất uyên bác. Đúng như Phan Thanh Giản đã nhận xét: “Không có sách nào là ngài không đọc, lại sở trường thơ ca” và Tùng Thiện Vương cũng nói: “Trương Đăng Quế được người đời khen tài nhớ, khác nào An Thế thuộc nằm lòng ba rương sách Hà Đông”. Đọc thơ ông, người đọc thấy ông thấu suốt các pho lịch sử nước ta, nước Tàu. Tiên sinh đọc các bộ tiểu thuyết cổ Trung Quốc và nhận xét từng nhân vật một. Đặc biệt bộ tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, cả tiền và hậu, người đều đọc. Điều lạ, một con người khuôn phép như ông lại thích đọc truyện Hồng Lâu Mộng. Ông viết:
Độc tiền hậu Hồng Lâu Mộng hữu cảm nhị thủ
Nhàn kiểm Hồng Lâu kí mộng du
Kim thoa thập nhị tập quần cư
Ngã lân Đại Ngọc si tình trọng
Dục bả tiền nhân khấu bích hư
Kỳ nhị:
Châu cung hợp thị hữu tiền duyên
Lịch tận cùng sầu mộng thủy viên
Thiên cổ hữu tình nhân thúy khán
Tối căng nghiêm xứ tối tương liên
Cảm xúc khi đọc tiểu thuyết tiền hậu Hồng Lâu Mộng hai bài
Lầu hồng nối mộng rỗi xem qua
Xiêm áo mười hai rực ánh thoa
Son phấn si tình ta tiếc bấy
Muốn đem nhân trước gợi châu lòa
(Trương Quang Gia dịch)
Bài hai:
Ngọc châu cung cấm hợp duyên xưa
Sâu thấm dường bao mộng mới vừa
Tình nặng ngàn thu người hẳn thấy
Xót nhau chốn ấy đớn đau chưa?
(Trương Quang Gia dịch)
Từ xưa đã có quan niệm đất thiêng sinh người tài (địa linh nhân kiệt). Cho nên nói đến Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, người ta không thể không nhắc đến quê hương Nghệ Tĩnh. Ảnh hưởng ấy khó xác minh nhưng lại là có thật. Sau Nghệ Tĩnh, Quảng Ngãi cũng được xem là đất thiêng sản sinh nhiều nhân tài. Người Quảng dẫu nghèo khó nhưng có chí nguyện vươn lên. Nhiều người đỗ đạt và làm quan rất lớn. Quê hương Quảng Ngãi nói chung và làng Tịnh Khê (còn có tên là Mỹ Lại) ở gần sông gần biển, phong cảnh hữu tình và khí hậu quanh năm ôn hòa nói riêng đã tác động quan trọng đến việc hình thành ở ông một con người thơ.
Bên cạnh nguồn quê hương, tiên sinh còn chịu tác động của nguồn ảnh hưởng gia đình. Một gia đình, nói như giáo sư sử học Yoshiharu Tsuboi (trong “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa” sđd) là: “làm quan suốt nhiều thế hệ và có bề dày tu nhân tích đức. Thời nào gia đình ông cũng có người làm lớn và hết lòng trung kiên với dân, với nước. Chính điều đó đã mở tâm hồn ông đi về phía tầng lớp dưới của nhân dân nhiều hơn là tầng lớp trên. Bản thân tuy làm quan to nhưng không lấy đó làm sung sướng, cứ nằn nì xin từ chức để về lại vườn xưa”. Cộng vào đó sức học rất uyên bác, cái gì cũng đọc và tâm hồn nhạy bén, dễ cảm xúc. Tất cả điều ấy đã làm nên một Trương Đăng Quế mà chúng ta có thể tìm thấy ở thơ của ông.
CHƯƠNG II
MẠCH THƠ MẶC VÂN
Trương Đăng Quế sinh ra và lớn lên trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là giai đoạn đầy biến động của lịch sử Việt Nam (đã nói ở chương I) nhưng cũng là giai đoạn văn học phát triển rực rỡ nhất. Trương Đăng Quế đã thừa hưởng được cái không khí phát triển rầm rộ ở cả bộ phận văn học chữ Hán lẫn bộ phận văn học chữ Nôm của giai đoạn này. Những khúc ngâm nổi tiếng được ra đời như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Ai tư vãn. Những truyện thơ nổi tiếng cũng được ra đời như Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều... các tác giả tài hoa nhất như: Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm...
Trương Đăng Quế rất phục tài và đánh giá rất cao thơ Hồ Xuân Hương. Trong bài tựa đề đầu tập thơ Diệu Liên thi tập (tập thơ của công chúa Mai Am), Trương Đăng Quế viết: “Trải xem nước Viêm Bang ta từ khi khai tịch đã mấy trăm nghìn năm, trong khoảng đó có những khuê tú làm thơ, hồi trước thì có Phạm Lam Anh, gần đây thì có Hồ Xuân Hương, có hai người ấy mà thôi”.
Trong tập thơ Học văn dư tập của mình, Trương Đăng Quế có làm bài thơ sau:
Hữu nhân tự Bắc thành lai bả, tợ danh viện Hồ Xuân Hương tống biệt thi sách thứ kỳ vận
Thuỳ hướng Giang Nam xướng Trúc Chi
Thu phong tưởng kiến liễu my thùy
Lục triều yên vũ hưu đa quản
Lưu tác đương niên nhất diễm từ.
Dịch:
Có người từ Bắc thành về mang theo bài thơ tống biệt của người đẹp Hồ Xuân Hương đòi họa vần.
Ai hướng Giang Nam vịnh Trúc Chi
Gió thu dường thấy rủ làn mi
Sáu triều mưa khói bàn đâu nữa.
Lời đẹp năm nào thuận bút ghi
Trong giai đoạn văn học từ nửa cuối thế kỷ thứ XVIII đến nửa đầu thế kỷ thứ XIX đã hình thành một trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học cùng một lúc nhiều nhà thơ đã đặt ra những vấn đề về quyền sống của con người trong xã hội phong kiến nhất là quyền sống hạnh phúc của người phụ nữ. Ở Truyện Kiều, Nguyễn Du đề cập đến tình yêu tự do, hạnh phúc lứa đôi và tố cáo những thế lực xã hội đầy bất công và thối nát đã vùi dập Kiều. Trong Chinh phụ ngâm khúc, Đặng Trần Côn đề cập đến nỗi ai oán bi thương của người phụ nữ có chồng ra đi chiến trận tham gia vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ở Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều đề cập đến nỗi đau khổ của người cung nữ bị bỏ rơi trong cung cấm. Hồ Xuân Hương thì lên tiếng tố cáo chế độ đa thê của cái kiếp làm vợ lẽ cũng như bóc trần cách đối xử dã man của xã hội phong kiến đối với người con gái mang tiếng chửa hoang.
“Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” nên không thể thoát ra khỏi thời đại và không thể không chịu ảnh hưởng gì của thời đại. Vì thế tiên sinh đã chịu ảnh hưởng khá sâu sắc trào lưu nhân đạo chủ nghĩa ấy. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả cũng viết các đề tài về phụ nữ như bài Thanh lâu oán (Hận lầu xanh), Khí phụ từ (Lời người vợ bị chồng bỏ).
Bên cạnh sự ảnh hưởng trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của giai đoạn hậu kỳ trung đại của các nhà thơ đi trước như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái... Trương Đăng Quế còn ảnh hưởng cái chung của các bạn thơ cùng thời trong tao đàn Mặc Vân.
1. Tao đàn Mặc Vân:
Trương Đăng Quế là thầy dạy các ông hoàng, bà chúa. Trong số đó có hai ông hoàng nổi tiếng nhất là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương. Ngày còn trẻ mỗi khi làm được bài thơ nào Tùng Thiện cũng đưa cho tiên sinh xem. Có một lần cùng đoàn hộ giá ra đến tỉnh Nghệ An, nhận thấy có miếu thờ An Dương Vương, Vương bèn ngẫu hứng hai câu thơ:
“Mã đầu hữu tặc thùy năng thức
Qui trảo vô cơ quốc dĩ không”
(Giặc đầu ngựa đó nào ai biết
Cung móng rùa đâu, nước đã tan)
“Trương Đăng Quế ngày ấy cũng đi chầu, sung chức Hộ giá đại thần, có phê sáu chữ “Tận đắc Đường nhơn tinh tủy” nghĩa là rút hết tinh tủy của người đời Đường. Đó là lời bình phẩm của thầy; lúc ấy trò mới 23 tuổi”. Tiên sinh và Tùng Thiện Vương rất tâm đầu ý hợp, chính tiên sinh cũng đã nói: “Riêng tôi với hoàng tử Tùng Thiện lại rất hợp ý nhau. Từ đó mỗi khi rảnh rỗi, tôi hay đến cùng Tùng Thiện bàn bạc thật kỹ lưỡng việc xưa nay, phê phán sự được mất, cả vấn đề thể tài và phong thú không có điều gì là không bàn xét một cách tinh vi thấu triệt”.
Khi Vương thành lập Mặc Vân thi xã còn gọi là Tùng Vân thi xã, Trương Đăng Quế là người nhiệt tình ủng hộ đầu tiên và trở thành hội viên. Ngày nay đọc các trước tác của ông, ta thấy ông thường nhắc đến tao đàn Mặc Vân thi xã. Trong tác phẩm Học văn dư tập, ông có hai bài thơ nói về tao đàn Mặc Vân thi xã:
Bài 1:
*Đề tặng Tùng Vân thi xã
Tùng Vân hội thượng liệt quần anh
Thùy chủ tao đàn xướng thử minh
Thiên hạ nhân tài quy đế nữ
Phong lưu giang hữu thuyết Tam Khanh
Dịch:
*Đề tặng thi xã Tùng Vân
Tài hoa gặp gỡ hội Tùng Vân
Ước hẹn tao đàn ý chủ nhân
Thi bá mười phương về nữ chúa
Tam Khanh phong nhã bến sông xuân
Bài 2:
Văn xã tập hữu vịnh liễu thi thượng cảm nhi toại phú
Hạnh tá trường điều thác thử thân
Cô tiêu biệt tự xuất phong trần
Sai thùy truyền ngữ Đào Bành Trạch
Tợ cộng tiên sinh hữu túc nhân
Dịch:
Nghe thi xã sưu tập các bài thơ vịnh liễu cảm xúc nên vần:
May mượn cành dài gởi chiếc thân
Rời xa gió bụi thích cô đơn
Xin ai nhắn hộ Đào Bành Trạch
Kết bạn thêm tôi chớ ngại ngần
Viết bài thơ cho tập thơ Diệu Liên tập của Mai Am, ông cũng nhắc đến thi xã như sau: “... Thương Sơn công cùng các đức ông dựng ra thi xã, cành kinh đóa lệ ai nấy xưng hùng, tướng vững thành dài, mở cờ gióng trống, mà tiếng tăm của ba bà chúa bèn vang dậy ở đất Giang Hữu. Tôi nghe thấy, cũng tự phụ là mình trước đây nhận xét không lầm... Đến khi tôi ngoài bảy chục, cởi ấn về vườn hai đức ông Thương Sơn - Vĩ Dã cùng các vị trong hội xã đặt tiệc tiễn đưa tôi ở Thủy Đình”.
Lúc Trương Đăng Quế về hưu “thơ văn tiễn tống không kém một nghìn bài. Người bấy giờ truyền đó là một việc vẻ vang lớn về thần tử nước Nam”.
Như vậy ta thấy, Trương Đăng Quế ngoài những giờ bận rộn của việc quan ra, ông còn sinh hoạt trong hội thi xã gọi là Tùng Vân thi xã hay Mặc Vân thi xã. Đây là một tổ chức được thành lập vào năm Tự Đức thứ 2 (1849) tại Ký Thưởng Viên, “một khu vườn do Tùng Thiện vương thiết lập bên bờ sông Lợi Nông (nay là sông An Cựu)”. Đứng đầu thi xã (chủ súy) là Tùng Thiện Vương - thi xã quy tụ nhiều danh sĩ nổi tiếng thời bấy giờ. “Vào chân thi xã thuần những bậc quí phái hoặc các hoàng thân quốc thích, hoặc các vị đại phu ở triều các bậc đại khoa, tất cả những người đã nổi danh vì tài lược, vì học thức như các ông: Hà Tôn Quyền, Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Đức Đạt, Vũ Đức Nhu, Nguyễn Văn Giai...”. “Các hoàng thân thì những ngài: Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Thọ Xuân Vương, Tương An Công, Phú Bình Công, Lạc Biên Công, Hàm Thuận Công, Hoằng Hóa Công, Cẩm Xuyên Công, Hòa Thạnh Công, Trấn Biên Công”. Theo Trần Thanh Mại - tác phẩm Tuy Lý Vương 1939 (dẫn theo Ưng Trình Bửu Dưỡng Sđd trang 104) thì “không ngày nào số văn nhân hội họp dưới nửa trăm người, Tùng Thiện Vương cũng như vị Mạnh Thượng Quân nho nhỏ”. Cũng theo Ưng Trình Bữu Dưỡng: những hội viên trong tao đàn thường tụ tập để ngâm vịnh và xướng họa. Trong Thương Sơn thi tập có kể một lần xướng họa như: “Đêm rằm tháng mười vừa đi dạo ngắm trăng vừa liên ngâm, người nọ chắp theo vận người kia song hẹn cùng nhau không dùng chữ nguyệt”.
Bà Mai Am xướng:
Mãn đình hành táo thủy không minh
Minh diệp sơ quân dạ khí thanh
Ánh giới sơn hà khai ngọc kỉnh
Hồng Phì đối lại:
Hàn kiêm sương lộ trạc kim kình
Tùng Thiện Vương xen vào một câu:
Sứ quân chính ức hoàng lâu yến
Hồng Phì đối lại:
Vũ khách chân lân Xích Bích hành
Bà Hà Oan Sô tiếp:
Hà tất trung thu chiêm bạch thố
Bà Chấp Khuông làm câu kết:
Kim tiêu dĩ thị tối tinh oanh
Trương Đăng Quế cũng đã họa thơ, vịnh thơ với những người trong thi xã. Vì thế thơ Trương Đăng Quế ngoài sự tiếp thu nối tiếp của các nhà thơ đi trước như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Phạm Thái, v.v... Thơ Trương Đăng Quế còn chịu ảnh hưởng của các bạn thơ đương thời nữa.
2. Quan điểm thơ:
Từ xa xưa ông cha ta chưa ý thức xây dựng một hệ thống quan điểm lý luận văn học. Thành thử chúng ta chưa có những người như Aristot, Horace, Boileau, Diderot, Lessing, Bielinsky. Nhưng rải rác chỗ này chỗ khác, nhất là trong các bài tựa ông cha ta cũng đã phát biểu quan điểm của mình về thơ văn. Từ giữa thế kỷ XVIII trở về trước các ý kiến còn rất ít, nhưng từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, bên cạnh việc văn học phát triển rực rỡ chưa từng thấy cả về số lượng lẫn chất lượng, quan điểm lý luận cũng gặt hái được rất nhiều. Lê Quý Đôn là người phát biểu tương đối có hệ thống. Sau ông còn có hàng loạt các tác giả như: Lê Hữu Trác, Nguyễn Quýnh, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, Nguyễn Du, Nguyễn Văn Siêu, Trương Đăng Quế, Cao Bá Quát, Nhữ Bá Sĩ, Phạm Phú Thứ, Miên Thẩm, Miên Trinh v.v...
Nhận định về quan điểm lý luận văn học nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế thế kỷ XIX, Giáo sư Nguyễn Lộc cũng có nhận xét:
“Lí luận văn học trong thời phong kiến ở nước ta thường có tính cách giáo điều, rập khuôn theo những quan điểm văn học ở Trung Quốc, không phản ảnh trung thực thành tựu của sáng tác, nhất là phần sáng tác văn học bằng chữ Nôm. Tuy vậy nếu tìm hiểu kỹ quan điểm văn học của các tác giả đương thời (tức nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX – Trương Quang Cảm) cũng có thể thấy được chừng nào sự chuyển biến trong quan điểm của họ”. Ta thấy quan điểm sáng tác thơ của giai đoạn này chịu ảnh hưởng quan điểm của KhổngTử, coi việc sáng tác là việc dùng cái sức dư sau khi đã làm xong mọi việc “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu dư lực tắc dĩ học văn” (Kẻ đệ tử khi vào thì thảo với cha mẹ, khi ra thì kính anh chị và người lớn tuổi, làm việc gì thì cũng phải cẩn thận và ăn nói chắc thiệt, thương tất cả mọi người, mà gần gũi với người nhân đức, làm xong những việc nói trên trước, nếu còn dư sức hãy học đến văn chương), (Luận ngữ - Học nhi).
Từ đó khi Lê Quý Đôn luận vì sao các văn nhân phần nhiều mắc phải bệnh kiêu căng, ông đã nói: “Họ ít học vấn, thiếu tu dưỡng, bởi vậy họ bị cái tính tự nhiên chi phối. Nếu hứng chí tâm hồn vẫn giữ được bình đạm, mỗi khi diễn tả và phát ra thì càng thêm ung dung. Bởi vậy thánh nhân nói rằng: “Hưng ư thi” (Học kinh thi để hưng khởi), lại nói rằng “Từ đạt nhi dĩ hĩ” (Lời văn cốt đạt ý thì thôi), cùng là: “Hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn” (Làm đã thừa sức rồi mới học văn).
Nguyễn Văn Siêu, người cùng với Cao Bá Quát được mệnh danh là “thần Siêu”,“thánh Quát” có nói: “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương, còn loại đáng thờ là chuyên chú ở con người” - Phu Tử xưa đã nói: Làm việc có sức thừa thì đem nó mà học văn chương...”. Học theo quan điểm của Khổng Tử, Trương Đăng Quế quan niệm văn chương như Lê Quý Đôn, Nguyễn Văn Siêu. Giải thích tên tác phẩm của mình, Trương Đăng Quế viết: “Lấy nhan đề là Học văn dư tập nhằm ý nghĩa là giữ cái sức dư sau khi hành động thời lo học văn vậy”.
Trong giai đoạn này, người ta cũng bàn nhiều đến việc sáng tác thơ. Thơ có phải chú trọng nhiều đến quy cách hay không? Cái gì là cái gốc của thơ và ảnh hưởng thơ Tàu ở mức độ nào thì mới hay? Trong lời bạt tập thơ của Thương Sơn Công, Cao Bá Quát có viết: “Thơ tuy có phải chú trọng về quy cách nhưng làm thơ thì phải gốc ở tính tình. Nếu việc làm nào cũng bắt chước cũ, câu nào cũng bắt chước cũ, câu nào cũng theo học người: đầu thôn tạm biệt đã hát câu “chén rượu dương quan” xóm cạnh qua chơi đã ngâm câu “tiếng gà điếm cỏ” nắn nót những lời biên tái lòe người là tuyệt diệu Gia Châu, chải chuốt các thể trong cung, tự phụ là văn nòi Thiếu Bá”.
Trong lời bạt tập thơ của Phan Lương Khê, tiên sinh Phạm Phú Thứ có viết: “Thơ vốn từ tính tình, ý tứ cốt qui về chỗ đôn hậu ôn hòa. Song nếu không đọc vỡ muôn cuốn sách, nhìn khắp tám cõi, thì không thể đạt tới chỗ sâu sắc”.
Nguyễn Văn Siêu cho rằng thơ phải xuất phải từ chỗ tự nhiên. Ông nói: “Lời càng khéo thì càng mất điều chân thực (chân), ý càng kỹ thì càng rơi xuống hư hao (sức)”. Cùng với các quan điểm ấy, Trương Đăng Quế cũng nói: “Đầu tiên hết phải tìm biết phép tắc vận dụng khi làm thơ nhưng chung quy không ra ngoài hai chữ tánh linh là yếu tính từ xưa của thơ cho nên dẹp hết các lời sáo hủ, chẳng dựa bên của người khác, ý đã đến thì ngòi bút theo đó mà diễn tả ra”. Và: “Thơ đối với tôi, lúc nhỏ không có thầy dạy chỉ do tôi ham thích mà làm, không phải bắt đầu, không phải tiếp nối, không có mẫu mực khuôn phép, gặp việc gây hứng, đối diện với cảnh vật mà thành bài ngâm vịnh, chỉ biết diễn tả tính tình không phải muốn mượn thơ làm cho mình nổi tiếng”.
3. Đề tài:
Sau bao năm chiến tranh liên miên: Chiến tranh Lê - Mạc (1527 - 1592), chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627 - 1672), rồi Tây Sơn - Nguyễn Ánh. Cuối cùng Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn lên ngôi vua 1802 mở ra một triều đại phong kiến cai trị thống nhất từ Bắc chí Nam. Trong khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ XIX tình hình xã hội có phần tương đối ổn định. Vì vậy ngoài thời gian làm việc ra, những lúc còn lại vua tôi và các quan lại cùng nhau xướng họa. Cho nên các đề tài thơ trong giai đoạn này ta thường thấy là:
3. 1 Đề tài tống tiễn:
Các bài thơ làm ra nhằm tiễn các người bạn lên đường đi nhận nhiệm sở mới. Đề tài này cũng không lạ lẫm gì. Từ thời Đường Tống bên Trung Quốc cũng đã có rồi. Một trong những bài thơ nổi tiếng của Lý Bạch thuộc đề tài này như: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng.
Ở nước ta trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê đề tài này tuy không nhiều nhưng rải rác đây đó cũng có, như bài Tống Phạm Công Sư Mạnh Bắc sứ (Tiễn Phạm Sư Mạnh đi sứ Trung Quốc) của Lê Quát. Đến nửa đầu thế kỷ XIX đề tài tống tiễn trở thành phổ biến. Hầu hết các nhà thơ đều có thơ thuộc đề tài này. Điều này có thể lý giải được, bởi lý do: Thời bình, bộ máy chính quyền nhà Nguyễn vừa được thiết lập nên cần bổ nhiệm nhân sự đi nơi này nơi khác. Nguyễn Du có các bài tống tiễn như: Tống Nhân, Tống Ngô Nhữ Sơn Công xuất trấn Nghệ An v.v...
Các nhà thơ trong nhóm Mặc Vân, vị nào cũng có thơ tống tiễn. Cao Bá Quát có bài Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lỵ Thường Tín, Kiêm trí Lê Hy Vĩnh Lão Khế. Miên Thẩm Tùng Thiện Vương có bài với Tống khách vãng Hà Nội, Tống Lương Tứ chi Quảng Nam, Tống Hình Bộ Thị Lang Phạm Bạch Hiên sung tán tương Gia Định quân vụ; Tống khách chi Quảng Nghĩa kiêm ký Phạm Kế Chi, Nguyệt dạ chiêu tử Mẫn Tập Hương Giang Châu thứ tống Hy Phần nam hoàn thiên táng tiên mộ nhị thủ, Hạn đồng dụng qui tự lai tự; Tống Nguyễn Lê Quang qui Hà Nội; Tống ca giả qui Hà Nội...
Phạm Phú Thứ có bài Tống Hồng Lô tự khanh Đỗ La Phong vãng Nam Kỳ chiêu thảo. Nguyễn Tư Giản có bài Tống Tỷ bộ Nguyễn Hy Phần dự cáo qui Khánh Hòa; Tống Nguyễn Hy Phần qui Bình Thuận v.v... Nguyễn Thông có bài Tống nhân chi Gia Định, Tống Định Tường Niết sứ Huỳnh Dưỡng Độn qui Kiên Giang biệt nghiệp. Căn cứ vào 100 bài thơ của Nguyễn Thông trong Tác phẩm Nguyễn Thông (Sở Văn hóa thông tin Long An xuất bản 1984) đề tài tống tiễn có tới 18 bài chiếm tỷ lệ 18%.
Thơ Trương Đăng Quế cũng nằm trong thông lệ ấy. Cùng với thơ Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, thơ ông có nhiều bài thuộc đề tài tống tiễn. Trong 244 bài thơ ở Học văn dư tập của Trương Đăng Quế, thơ với đề tài tống tiễn có đến 17 bài chiếm gần 7%.
3. 2 Đề tài ứng họa:
Cùng với đề tài tống tiễn, ứng họa cũng là đề tài phổ biến trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX. Các giai đoạn trước cũng có thơ ứng họa tuy không được nhiều. Chỉ những giai đoạn nào có thêm các tao đàn thì đề tài ứng họa được phồn thịnh hơn: thời Lê Thánh Tông (1442 - 1497) với tao đàn Nhị Thập Bát Tú, thời Tự Đức với tao đàn Mặc Vân. Đề tài ứng họa trong hai thời kỳ ấy rất phát triển.
Ứng họa có hai loại: loại các quan, các danh sĩ họa thơ với nhau gọi là họa thơ và loại thứ hai là họa thơ của vua gọi là ứng chế. Họa thơ cũng là một cái thú văn chương. Họa thơ nhằm để phục tài lẫn nhau và cùng biểu lộ sự tâm đầu ý hợp, hiểu nhau chia sẻ cho nhau. Cao Bá Quát họa thơ có các bài: Thanh Minh nhật cảm tác họa Trần Ngộ Hiên; Trần Ngộ Hiên nhục hữu sở thị, Tẩu bút họa chi; Phụng họa kinh doãn Nguyễn Công thất thập thọ; Họa tham tán đại thần hành dinh thưởng cúc thập vịnh; Nhị thập tam dạ khãn nguyệt, Họa Phan Hành Phủ. Nguyễn Thông có bài Phụng họa Nguyễn Phạm nhị hiền “Gia Định cố thành” ký chi tác v.v...
Trong cái chung ấy, thơ Trương Đăng Quế cũng có nhiều bài họa thơ như: Phụng họa Thương Sơn Công kiến hoài nhị thủ nguyên vận kiêm thị triệu phong quận công; Phụng họa chỉ thiện chủ nhân hạ dạ thư hoài kiến thị nguyên vận ứng giáo...
Tự Đức là một ông vua nổi tiếng hay chữ nhất của triều Nguyễn. Ông thường làm thơ và bảo các quan họa lại - Vì thế thời kỳ này đề tài ứng họa, họa thơ vua (ứng chế) cũng rất phong phú. Các tập thơ của các tác gia ra đời trong giai đoạn này đều có thơ họa ứng chế như Giá viên Thi văn tập của Phạm Phú Thứ, Lương khê thi tập của Phan Thanh Giản, Tốn Phú thi văn tập của Hà Tôn Quyền. Trong 244 bài thơ ở Học văn dư tập, có 17 bài thơ ứng chế chiếm gần 7%.
3. 3 Đề tài nhân vật lịch sử:
Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX, các tác gia hay đề cập các nhân vật lịch sử của nước Tàu và của nước ta. Điều đó cũng trở thành một xu hướng chung của thời bấy giờ. Nguyễn Du có các bài: Tỉ Can mộ, Tần Cối tượng, Lạn Tương Như cố lý; Hàm Đan tức sự; Hàn Tín giảng binh sứ v.v...
Tự Đức có cả một tập thơ Vịnh sử nước Việt (Ngự chế Việt sử tổng vịnh) 10 quyển in năm 1877. Cao Bá Quát có các bài Vịnh: Phù Đổng Thiên Vương, Vịnh Hưng Đạo Vương, Vịnh Chu An v.v... Tùng Thiện Vương có các bài: Mã Viện, Lý Quảng, Gia Cát Lượng, Phạm Tăng, Lý Tịnh, Đào Duy Từ. Trương Đăng Quế cũng có các bài: Độc Việt Sử ứng chế; Vịnh sử nhị thủ ứng chế; Hán cao tổ - Hán chiêu liệt đế; Hạng Vũ, Trương Lương; Giả nghị; Vịnh sử ứng chế: Gia Cát Lượng, Trương Tuần, Vũ Khiêm...
Có tổng cộng 35 bài viết về nhân vật lịch sử trong tổng số 244 bài của Học văn dư tập chiếm tỷ lệ 24%.