Tháng này nhà tôi có “được” ba giấy mời: Giấy mời ăn cưới con của người bạn cùng học ở Phổ Thông, Giấy mời ăn giổ người cha của ông bạn đồng nghiệp của chồng, Giấy mời đầy năm của con cháu ngoại của thằng cháu họ bên mẹ.
Về hưu, lương thấp, một lần lên lương tám lần lên giá; khó khăn vẫn hoàn khó khăn. Ông cha ta đã khẳng định “Người nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo” Tôi chạnh nhớ tới bài thơ của ông Quách Tạo-em ruột nhà thơ Quách Tấn trong thời “Bao cấp”.
Nghèo
Hưu bỗng tăng hai giá vọt mười
Cân bằng cái sống bở hơi tai
Chất tươi còn được canh rau muống
Lượng đạm mong vào nhúm tép moi
Thuốc đắt mong đừng đau ốm vặt
Quê xa dành chỉ mộng về thôi...
Và giờ đây, thời của công nghệ thông tin, kỹ thuật số; giá cả tăng đến chóng mặt, nếu như tháng nào nhà tôi cũng “đặng” từng ấy giấy mời thì vui sao nổi! Tôi ngao ngán nhìn lại ba bì thư, bỗng trong đầu lóe lên điều hay hay từ trong nội dung của mỗi giấy mời ấy. Chà! Dân tộc Việt Nam mình tuy vẫn còn nghèo về vật chất nhưng thật giàu về ngôn ngữ. Dân ta thông minh không chê vào đâu được! Các bạn thử xem, chỉ có việc nói về “Ăn” mà có đến “1.001” cách diễn đạt. Người Việt Nam đã sử dụng uyển chuyển Văn hóa từ ẩm thực để phản ảnh toàn cảnh của xã hội.
Ví dụ:
- Để chỉ về thời kỳ Cổ đại, ta thường dùng cụm từ “Ăn lông ở lổ” “Ăn bờ ở bụi”
- Có những người lười biếng, muốn ăn mà không muốn làm, “Ăn thì đi trước, lội nước đi sau”, Bọn địa chủ, cường hào, tư sản thì “Ngồi mát Ăn bát vàng”, “Ăn trắng mặc trơn, ăn trên ngồi tróc, suốt ngày chỉ có ‘Ăn nhậu, ăn chơi”, “Ăn tục, nói phét”
- Khốn nạn thay những kẻ bất lương chuyên: Ăn cướp, ăn trộm, ăn cắp, ăn chặn, ăn chẹt, ăn giựt,
- Không có tiền thì “Ăn chịu”, “Ăn chực”, “ăn quỵt”, “Ăn giang”
- Con người sống không ngăn nắp, bạ đâu để đó, không lâu bền thì “Ăn xổi ở thì”
- Chỉ về loại người cố chấp, luôn nghĩ cách trả thù “ăn miếng trả miếng” tìm phe phái “ăn cánh” với nhau
- Chơi với kẻ tham phải coi chừng họ tìm cách để “Ăn trọn gói”, “Đốn mía cả cụm”
- Đối với nghề mại dâm chỉ có “Bán trôn nuôi miệng”, “ăn sương”, “ăn đêm”, “ăn nằm”
- Bọn côn đồ, mặt dữ dằn, nhìn thấy chúng cứ ngỡ như sắp “Ăn sống, nuốt tươi”, “nuốt chửng, nuốt trộng” người ta.
- Cậy quyền, cậy thế “Cả vú lấp miệng em”
- Làm việc phải có điều kiện “Có thực mới vực được đạo”
- Trong kinh doanh cần phải liều “Được ăn cả, ngã về không”
- Người không thể vượt lên chính mình, đành “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm/Cầm bằng làm mướn, mướn không công”,
- Còn trẻ phải lo học hành mới có tương lai, nếu không sau này chỉ đi “Ăn mày” và “Ăn xin” mà sống.
- Nếu không cần dùng đũa thì “Ăn bốc”.
-Đồ vật lâu ngày hư hỏng là do bị “ăn mòn”, “Ăn luồng, “Ăn rỗng”
- Chỉ về những người hay nói leo các cụ thường cho là do “ăn cơm hớt” (tức là cơm trên cùng trong nồi, chưa xới cho ai)
- Cuộc sống còn nhiều khó khăn “liệu cơm gắp mắm” “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm” phải “Ăn chắc mặc bền”
- Con gái hay “ăn vặc”
- Người dau dạ dày nên “Ăn chậm nhai kỹ”
- Thời kỳ hoạt động bí mật Đảng ta phải “Nếm mật, nằm gai”
- Tương quan lẫn nhau “Cá ăn kiến, kiến ăn cá”, “ăn nhịp”
- Làm mà không có kế hoạch trước thì kết quả “Có mà ăn cám”, “Cóc được ăn”
- Trong chăn nuôi, trồng trọt bị trộm hoài ta nên giải quyết: Thà ăn non còn hơn mất già
- Công dụng tuyệt vời: “Ăn ráo củ kiệu” Tất cả những gì từ cây kiệu đều dùng được; củ làm dưa món, rể, lá muối dưa; không bỏ thứ nào cả)
- Phải lao động mới có ăn “ Tay làm hàm nhai tay quai miệng trễ”
- Đạo lý làm người “Ở có đức mặc sức mà ăn” Ăn chay niệm Phật
- Chỉ về sự tế nhị “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại mừng nửa lo”, còn người hay dối trá thì “Ăn có nói không”
- Đề cập đến vấn đề gia đình
Nến vợ chồng chung thủy với nhau phải “Ăn đời ở kiếp”, chứ đừng thay lòng đổi dạ:
“Chàng ơi phụ thiếp làm chi/Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng”
- Khi thuận vợ, thuận chồng mà “Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon”
- Lễ nghĩa thời phong kiến “Miếng trầu là đầu câu chuyện” Mời bác “xơi thuốc, xơi trầu”
- Muốn lập gia đình “Ăn hỏi” trước,
- Trả đủa lẫn nhau cho biết mặt “Ông ăn chả, bà ăn nem”
- Người vợ, hoặc chồng say mê kẻ khác một cách cuồng tín mất cả lý trí: “Ăn phải bùa mê”, ăn phải ngải.
- Vào các ngày lễ lớn thì tổ chức “ăn mừng”, ăn tiệc, ăn sinh nhật, ăn thôi nôi, ăn giỗ, Ăn cổ: Có câu thơ vui
“Bực mình mà chảng nói ra/Muốn đi “ăn cổ” chả mà nào mời
Không mời thì mặc không mời/ Đã trót mặc áo không mời cũng đi”
- Lấy nhau không những “Lấy vợ xem tông/lấy chồng xem giống” mà ta còn phải xem hình dáng của người phụ nữ thế nào. Nếu “Những người thắt đáy lưng ong/ Vừa khéo chìu chồng lại khéo nuôi con/ Những người béo trục béo tròn/ Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày”
- Phân biệt tính cách nam nữ “Nam “thực như hổ”, nữ “thực như miêu”
- Người cố chấp, hay cay cú không muốn ai hơn mình “Trâu buộc ghét trâu ăn”;
- Sống ở đời phải biết “Nhường cơm, sẻ áo” đừng cậy mạnh mà “Ăn hiếp” người lành
phải biết chia sẻ nếu không thì “Ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân,
- Bất lực không thể lấy lại được của phải tính đến trò “Ăn vạ”
- Sự tri ân với người đi trước “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
- Phải biết quí trọng sức lao động của người nông dân “Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
- Nói về lòng trung thành “Ăn cây nào, rào cây ấy” Đừng vô ơn bội nghĩa: Ăn cháo đái bát”
- Tình cảm giữa người và vật “Bóng bóng bang bang lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta/ chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”
- Lao động là vinh quang “Có làm mới có ăn”, công việc khó khăn “Đâu có dễ ăn”
- Người có ý thức thì “Ăn trông nồi, ngồi trong hướng”,
- Hậu quả cha làm con chịu “Cha ăn mặn, con khát nước”,
- Khi giận dỗi, thách thức và tự trọng “Ăn có mời làm có khiến”
- Người lịch sự “ăn mặc tử tế”
- Tham gia công tác xã hội không có lương: Ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng
- Sòng phẳng “Tiền trao, cháo múc”
Thời công nghệ thông tin, kỹ thuật số từ ngữ càng dồi dào
Để chỉ bọn tham nhũng: “Ăn hối lô”, “ăn bẩn” “Ăn đậm”
Công việc nhiều, ít thời gian đã có “mì ăn liền”, Có đồ “Ăn nhanh”