Về bài thơ này trong “Các tham luận tại hội thảo khoa học...” có ý kiến khác nhau. Một số tác giả cho rằng tiên sinh giả gởi bánh cho con của người láng giềng. Họ lý giải làm quan không thể nào nghèo đến mức như vậy và phu nhân cũng không có cái tính “năm dài buồn giận, rộng hẹp sinh tuổi hờn”. Một số tác giả khác thì cho rằng tiên sinh làm quan rất thanh liêm nên nghèo đến độ không có tiền gởi bánh cho con “mấy cái bánh là mấy giọt lệ”. Theo tôi, tiên sinh gởi bánh cho con, lúc còn đang đi học bởi hoàn cảnh bấy giờ như ông đã kể trong bài “Trường An du”
Thủy ngã xuất môn thì
Vị ngã cần học lực
Thê vị phùng kỳ y
Tỷ vị tặng kỳ thực
Dịch:
Buổi đầu rời tổ ấm
Cần học phải đi xa
Áo vợ lo may sắm
Cơm ăn chị ta cho
Hơn nữa nếu hiểu gởi bánh cho con cũng không hề giảm giá trị của phu nhân. Hai câu thơ dễ làm cho người ta hiểu nhầm là:
Nhữ mẫu đa sầu hận
Khoan thúc sinh oán trụy
(Mẹ năm dài buồn giận
Rộng hẹp sinh tủi hờn)
Thực ra câu thơ phải được hiểu như thế này mới đúng: Mẹ con có nhiều điều buồn hận; rộng (khoan) với người ta thì không đủ sức còn hẹp (thúc) với người ta thì không chịu được. Chính điều đó tiên sinh đã hiểu đúng vợ mình và cũng là nguyên nhân khiến ông cảm thấy khổ không yên long.
Khi tiễn cháu gọi bằng cậu về quê, tiên sinh đăm đăm nhìn theo cháu rồi chạnh lòng nghĩ đến thân cháu mồ côi mẹ, ngày ngày lủi thủi nơi mộ mới của em mình mà nghẹn ngào xúc động
Thu phong tạc dạ lãnh xâm y
Trù trượng lâm kỳ tống nhữ quy
Thiên lý khách hoài thương độc tự
Bách niên nhân sự thán đa vi
Cố viên tân trũng mai ngô muội
Cô quán tàn đăng mãn đế kỳ
Ký tạ thân tình hưu động vấn
Thương tâm vô ngữ đối tà huy
(Tống ngoại sanh Bùi Hữu Nghị hoàn lương)
Dịch:
Heo may thấm áo lạnh đêm qua
Ngõ ngặt buồn đưa cháu lại nhà
Nghìn dặm lữ hành thương chiếc bóng
Trăm năm cuộc thế khổ chia xa
Vườn quê mộ mới em hiu quạnh
Quán trọ đèn khuya ngợp gấm hoa
Gởi tạ tình thân thôi chớ hỏi
Nghẹn lời dạ úa ánh dương tà
Bài thơ thể hiện tình cảm của cậu đối với cháu. Trong việc biểu hiện tình cảm, tác giả còn thổ lộ tâm trạng mình cho cháu nghe nữa. Nói về chuyện đời, tiên sinh than “Trăm năm chuyện đời mình cứ than hoài, nó trái với ý mình” (Bách niên nhân sự thán đa vi). Nói về mình, tiên sinh thổ lộ cho cháu biết cảnh cậu sống ở đây (tức chốn kinh đô) chẳng khác gì cảnh cô quán (Cô quán tàn đăng mãn đế kỳ). Kết thúc bài thơ, tác giả gởi lời từ tạ với người thân tình và dặn cháu thôi đừng có hỏi về cậu nữa vì lòng thương của cậu đã bày ra đấy rồi, cậu không nói được gì nữa
Ký tạ thân tình hưu động vấn
Thương tâm vô ngữ đối tà huy
Trương Đăng Trinh là cháu gọi tiên sinh bằng chú ruột, được tiên sinh mang theo dạy dỗ. Tiên sinh quý cháu như con đẻ. Đăng Trinh trúng cử nhân năm 1841 và tiến sĩ đồng xuất thân khoa Nhâm Dần 1842 là người khai khoa thủ sĩ thi hội và thi đình cho tỉnh Quảng Ngãi. Tiên sinh mừng cho cháu, cho gia đình dòng họ và cho đất nước có thêm nhân tài. Tiên sinh đặt niềm tin ở đứa cháu có phẩm hạnh và tài năng này. Nhưng không may, Đăng Trinh vừa được bổ vào Viện Hàn Lâm có mấy tháng thì bị bịnh mất 1843, hưởng dương 32 tuổi. Từng dòng thơ khóc cháu là những chuỗi huyết lệ. Tiếng thơ khóc cháu thật cảm động. Nó vượt ra ngoài giới hạn chú khóc cháu thường tình, mà là tiếng khóc cho một nhân tài, khóc cho số kiếp tài hoa sớm nở tối tàn. Tiên sinh cũng biết bậc quân tử “bất oán thiên bất vưu nhân” (không trách trời không giận người) thế nhưng nỗi đau đến độ xé lòng, tiên sinh phải buộc miệng kêu: “Trời xanh ơi! tại sao?”
Vũ kỷ nhất trường đỗng
Ức nhữ hữu sanh thì
Đường thương bạch phát thân
Tất hạ hoàng khẩu nhi
Xả thử lai kinh trung
Duy dư thác thị y
Nam Bắc phong sương khổ
Kỷ tải trường tương tùy
Cần độc lệ tố nghiệp
Nga khoảnh vị tam ly
Khứ xuân nam cung tiệp
Sảo khả ủy tâm kỳ
Thiếu niên nhập Hàn Lâm
Thư hương đạt đế tri
Thẩn thị cầu dã nghệ
Tùng chánh sơ ưu vi
Ngã lão nhữ phương tráng
Hội dương canh thiết thi
Khởi liệu tam thập linh
Sở vọng thúc dĩ vi
Hảo vật bất nại cửu
Xuân hoa dung dị nuy
Du du thương giả thiên
Phước thiện hồ ngô khi
Cố hương cách thiên lí
Quan sơn viễn uy di
Tuyền đài lộ bất minh
Nhữ khứ tương an quy
Thân lão tử hựu ấu
Khổ huống phân nan chi
Niệm cập tồi tâm can
Sảng nhiên hữu dư bi
(Khốc huynh tử Hàn Lâm Tu Soạn Đăng Trinh)
Dịch:
Vỗ ghế lòng xót xa
Nhớ cháu lúc sinh thời
Tóc bạc mẹ cùng cha
Dưới gót con thơ dại
Bỏ hết ra kinh đô
Nương tựa mỗi mình chú
Nam Bắc bao gian khổ
Theo chí trải nhiều năm
Chăm đọc nối nghiệp tổ
Một khắc cũng không lìa
Xuân rồi tiến sĩ đỗ
Biết sợ lòng ước mong
Thiếu niên vào Hàn Lâm
Tài năng vua biết đến
Đã theo nghiệp thơ văn
Tùng khánh là rất tốt
Ta già cháu trai trẻ
Chính là lúc đua tài
Ôi! ba mươi tuổi lẻ
Ước mong lòng đơn sơ
Vật tốt khó bền sao
Hoa xuân dễ khô héo
Thăm thẳm trời xanh cao
Lừa dối ta - Phúc thiện
Cố hương ngàn vạn lý
Quan quan xa biết bao
Tuyền đài đường mờ mịt
Cháu đi về làm sao!
Cha mẹ già con nhỏ
Đau khổ biết nhường nào
Nghĩ đến lòng chua xót
Trời xanh ơi! tại sao?
(Huỳnh Châu dịch)
Trong văn học Việt Nam, ta thấy đã có thơ chồng khóc vợ, vợ khóc chồng, bạn khóc bạn, nhiều bài nổi tiếng như: Ai tư vãn của Ngọc Hân công chúa; Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Riêng thơ khóc cháu thì rất hiếm. Cho nên chúng ta có thể coi đây là một đóng góp của tiên sinh vào thơ ca Việt Nam về đề tài khóc cháu. Ở Trung Quốc thời nhà Đường có bài văn khóc cháu của Hàn Dũ rất nổi tiếng. Trương tiên sinh cách Hàn Dũ đến hơn mười thế kỷ. Hai con người ở hai thời đại khác nhau nhưng lại giống nhau ở niềm đau mất cháu. Hàn Dũ khóc cháu như sau: “Ô hô! Ta lúc nhỏ mồ côi, lớn lên nương tựa anh ruột chị dâu. Giữa đời anh mất, ta và ngươi đều bé, cùng chị đưa anh táng ở Hà Dương. Rồi cùng ngươi kiếm sống ở Giang Nam, linh đinh cô khổ, chưa một ngày rời nhau. Ta có ba anh đều bất hạnh mất sớm. Thừa tiếp tổ tiên, cháu chỉ có ngươi, con chỉ có ta, hai đời một thân, hình đơn ảnh chiếc. Chị dâu ta thường hay vỗ ngươi chỉ ta mà rằng: “Hai đời họ Hàn chỉ có bấy nhiêu thôi”. Lúc đó ngươi còn nhỏ chẳng nhớ được gì. Ta đã biết chút ít, nhưng cũng chưa rõ được điều ấy bi đát đến mực nào! Ta mười chín tuổi đến kinh thành, bốn năm sau về thăm ngươi. Lại bốn năm nữa ta về Hà Dương thăm phần mộ gặp ngươi đưa chị dâu ta về táng. Hai năm sau ta giúp Đỗng thừa tướng ở Biện Châu, ngươi đến thăm ta chỉ một năm, rồi xin về. Năm sau thừa tướng mất, ta rời Biện Châu ngươi chẳng lại (... ). Than ôi! Ai bảo được rằng ngươi rời ta rồi mất. Thời trẻ ta và chỉ tạm xa nhau, nghĩ rồi sẽ ở với nhau mãi mãi. Ta rời ngươi để theo cơm áo ở kinh sư, dầu chức cao bỗng hậu vẫn muốn có ngươi bên cạnh. Năm rồi ta gởi thư nhờ Mạnh Đông Dã trao ngươi, cho biết ta bốn mươi mà mắt đã lờ mờ, tóc ngã màu sương, răng lay động, nghĩ đến cha anh mạnh khỏe mà mất sớm, ta đã suy thì làm sao lâu bền được? Ta không đến ngươi không lại, nếu lỡ có chết làm sao bảo bọc cho nhau! Ai ngờ bé lại mất, lớn mà còn, mạnh thì chết non, bệnh mà sống trời ơi! Có tin được không? hay là mộng hay là lời báo sai? Tin hay ngờ? Anh ta thạnh đức mà còn yểu để mất sở tự, chú minh mẫn mà không nhờ được ơn phước? Trẻ mạnh mà chết yểu, già thêm suy mà còn đây tin được sao? (...). Than ôi! ngươi bệnh ta không biết giờ, ngươi chết ta không biết ngày. Sống chẳng hay cùng ở nuôi nhau, chết chẳng hay vỗ ngươi mà thương tiếc chẳng liệm áo quan, chẳng đến mồ mả, ta phụ thần minh chăng, để khiến ngươi yểu mệnh? Chẳng hiếu chẳng lành? Không nuôi ngươi khi sống? Giữ ngươi khi mất? Một ở chân trời, một ở góc biển? Lúc sống không hình theo bóng lúc chết chẳng theo mộng, ta làm gì đây, ta oán ai đây, hỡi trời xanh? (Trích tế thập nhị lang văn trong cổ văn quan chỉ).
Trong tình huynh đệ, đề tài bình thường không có gì khác ngoài lòng biết ơn, thương nhớ và khóc chị, khóc anh, khóc em, khóc cháu nhưng cách biểu lộ tình cảm của tác giả thật phong phú và đa dạng, không bài nào giống bài nào. Mỗi bài biểu hiện một cách riêng biệt nhưng chung qui lại vẫn là tình cảm chân thành quí mến anh, chị, em, cháu của tác giả.
4. Tình bằng hữu
Tình bằng hữu là thứ tình cảm tối trọng được xếp thứ năm trong ngũ luân. Trong đời sống ai ai lại không có bạn. Bạn bè có đủ mọi thứ: bạn học, bạn láng giềng, bạn qua đường v.v... Nói chung bạn bè thì nhiều nhưng bạn tâm giao rất ít. Cho nên vấn đề “trạch hữu” (chọn bạn) là rất quan trọng. Người xưa quan niệm: chơi với bạn tốt như vào nhà có cỏ chi cỏ lan thơm, lây mà không biết, chơi với bạn xấu như vào hàng cá dính mùi tanh mà không hay (Dữ thiện nhân cư, như nhập chi lan chi thất; dữ bất thiện nhân cư, như nhập bào ngư chi tứ). Đối với tiên sinh cũng vậy. Tình bằng hữu là rất quí. Ông coi trọng tình nghĩa bằng hữu nhưng không phải vì thế mà đụng ai ông cũng kết giao. Những kẻ lòng dạ xấu xa đầu môi chót lưỡi xu nịnh tiên sinh dứt khoát không kết thân. Tác giả cho rằng mùi thơm, mùi thối không thể cùng hợp với nhau, lòng mỗi người mỗi khác:
Hương xú bất tương đầu
Nhân các kỳ hữu tâm
(Di tỷ)
Rồi tiên sinh đi đến kết luận làm sao có thể kết chung với nhau được: Ninh năng quần dữ du (Di tỷ).
Trong bài Tạp hứng (bài sáu) một mặt ông vừa phê phán kiểu kết thân cẩu thả một mặt ông bày tỏ quan điểm của mình:
Cố giả trọng tri giao
Kim giả hà thảo thảo
Ngô phi hiếu du nhân
Khai khẩu triết đạo hảo
Dịch:
Người xưa coi trọng tri giao
Mà nay cẩu thả làm sao thế này
Ta không dua nịnh kết bầy
Cứ khen tốt tốt hay hay vừa lòng
(Huỳnh Châu dịch)
Bạn bè người nào hiểu được ông thì ông quí mến vô cùng. Trong bài Ký hữu tiên sinh tâm sự với bạn rất chân tình: ông cho mình tính vụng về nên khó hợp người, duy chỉ có bạn là hiểu thôi. Từ giã làng xóm ra kinh đô ở, coi kinh đô là nhà, sống không có hàng xóm, bạn là thân thiết, làm việc gì bạn cũng biết và lòng bạn không bao giờ ghét mình. Xa nhau lâu, lòng cũng không thay đổi, cầm quyền giàu sang không phải là điều muốn của hai chúng ta. Vì thế lúc nào tác giả cũng nghĩ về người bạn đó:
Tính chuyết quả sở hợp
Độc dữ quân tương tri
Tự tùng quan thú lai
Từ hương gia kinh sư
Khách cư vô tri lân
Đông triếp khởi quân tư
Nhân sinh quý an thích
Câu thúc đồ nhỉ vi
Ngô sự cẩu đắc nhàn
Phi y tứ sở chi
Lương phong phác diện lai
Vi vũ hạ phi phí
Vọng vọng hành hướng quân
Triều thoái quy lai trì
Bần tiện ủy lao bãi
Triều tọa điều thê nhi
Ngã tâm bi sở tồn
Lâm lộ cửu trù trì
Tri quân tình bất yếm
Cửu viễn vô biến di
Tích nhân luận giao đạo
Thùy giới tại sổ ty
Quyền quý phi ngã ngẫu
Tư quân diệc hữu thì
Dịch:
Tính vụng khó hợp người
Chỉ mình anh biết thôi
Làm quan từ buổi ấy
Nơi kinh đô xa xôi
Đất khách không bè bạn
Nghĩ là nhớ anh thôi
Ở đời quý sở thích
Thân ta trói buộc rồi
Việc quan sao nhàn được
Khó muốn là đi thôi!
Gió mát phất qua mặt
Mưa nhỏ rơi bồi hồi
Đăm đăm về hướng anh
Khi bãi chầu, sắp tối
Người nghèo mừng xong việc
Cùng vợ con đùa vui
Ngần ngại bước trên đường
Lòng cứ buồn không nguôi
Biết anh không chán ta
Dù cách lâu không đổi
Người xưa bàn giao tiếp
Chú trọng điều này thôi
Quyền quý đâu hợp ta
Nghĩ đến anh lâu rồi
( Huỳnh Châu dịch)
Tiên sinh quý bạn đến mức, ban đêm trời tối vẫn đi đến nhà bạn ở tận trong thôn xóm để thăm. Đi được nửa đường gặp lúc mưa lớn, trời tối ông đành phải trở về trong nỗi buồn ray rứt:
Thao thao vũ vi dĩ
Nhậm ý hướng tiến hành
Trung tâm hữu sở tàng
Liêu dĩ cầu hữu sanh
Cố nhân phương yểm môn
Cao ngọa sầu không minh
Đê hồi cù lộ trắc
Giáo ngã nan vi tình
Minh sắc mạc nhiên lai
Sương phong thê tứ linh
Vi vi yên thụ ngoại
Kỷ cá hôn tinh minh
Cô hoài ám dị thương
Lâm vọng nan cửu đình
Quy lai khế diêm hạ
Tức ý tư tự ninh
(Mạo vũ phỏng hữu nhân thôn cư trung đồ nhật mộ trướng nhiên nhi phản)
Dịch:
Mưa rơi rơi chưa dứt
Ta muốn đi về trước
Lòng có điều ray rứt
Ghé bạn thăm cho được
Cửa bạn đóng kín chặt
Nằm cao buồn sướt mướt
Đường mấp mô trúc trắc
Niềm thương đành chùn bước
Màn đêm buông ào ạt
Sương gió giăng lướt thướt
Khói cây xa mờ nhạt
Sao vài ngôi điểm xuyết
Xót xa niềm cô tức
Ngó mông khôn chầu chực
Về dưới mái nghỉ ngơi
Muốn đi chờ khi khác
Bạn hẹn đến chơi với ông nhưng lại không đến. Ông chờ đợi bạn trong khắc khoải ngẩn ngơ. Ông hết nhìn ra đầu cầu đến nhìn lên bầu trời rồi lại nhìn chồng sách vở
Tạc dạ tín hữu ước
Như hà kim bất lai?
Kiều đầu nhân quá tận
Thiên tuế điểu phi hồi
Thư quyển không tương hướng
Môn phi bán tự khai
Trì trù minh nguyệt dạ
Ngọc lậu nhược vi thôi
(Vọng hữu nhân bất chí)
Dịch:
Tin hẹn đến đêm qua
Mà nay sao chẳng lại?
Đầu cầu người dần xa
Khắp ngả chim về mãi
Sách vở nhìn thờ ơ
Cửa then cài lỡ nửa
Ánh trăng đêm ngẩn ngơ
Thời khắc buông uể oải
(Trông bạn chẳng đến)
Có những đêm mưa, tiên sinh nhớ bạn đến mức không sao chợp mắt được, phải ngồi dậy mắt cứ trông ra ngoài trời, tai nghe từng hồi trống cầm canh điểm
Thiên địa phong vũ hợp
Không đình tứ vọng diêu
Cô đăng nhập dạ hàn
Canh cổ thanh liêu liêu
Tàn nguyệt tự đông sanh
Hồ ba trướng vi triều
Tư quân bất khả kiến
Độc tọa tâm hồn diêu
(Phong vũ dạ hoài cố nhân)
Dịch:
Gió mưa ngợp đất trời
Sân vắng mắt xa vời
Đèn soi đêm hiu hắt
Trống canh điểm chơi vơi
Đằng đông trăng tàn trôi
Hồ sóng triều lên khơi
Nhớ ông nào gặp mặt
Ngồi không lòng bồi hồi
Đưa tiễn bạn đi ra Bắc, ông tưởng tượng ra cảnh bạn đi lủi thủi một mình trên đường dài thăm thẳm, không có ai bầu bạn, lòng ông bỗng trào lên nỗi băn khoăn lo lắng
Ước ngã đồng chu khứ
Nhi kim quân lục hành
Trình đồ thùy dữ bạn
Bạt thiệp thả cô chinh
Tứ dữ sơn vân hợp
Sầu tùy hải nguyệt sanh
Kinh thành tương hội xứ
Câu thi khách trung tình
(Tống hữu nhân chi Bắc thành đính dĩ kinh đô tương hội)
Dịch:
Ông hẹn ta trẫy thuyền
Nay đơn chiếc chinh yên
Trải đường dài ai bạn
Vượt núi sông tự chuyên
Tơ tưởng hợp mây ngàn
Ưu phiền theo trăng biển
Trường An mong gặp lại
Niềm lữ thứ triền miên
Khi bạn ông là Quảng Ninh Công con trai thứ ba mươi của vua Minh Mạng tên là Miên Bí cũng là người hay thơ, có chân trong Mặc Vân thi xã không may qua đời, tiên sinh đau đớn khóc bạn thật thê lương. Lời thơ cho thấy tiên sinh còn lại một mình sống tiếp nối những ngày tháng đơn côi trong đầm đìa nước mắt
Truất truất kim chi tú
Đình đình ngọc thụ tư
Hồ thiên giao đoản mệnh
Dữ thế cảnh trường từ
Cô nữ niên phương ấu
Từ thân lão cánh bi
Ta tai thân hậu sự
Đọa lệ hữu di bi
(Khốc Quảng Ninh Công)
Dịch:
Cành vàng tươi tốt biết bao nhiêu
Cây ngọc mười phân dáng mỹ miều
Về với số trời mau cát bụi
Rời xa cuộc thế sớm cô liêu
Gái thơ bé bỏng đau côi cút
Cha mẹ già nua tuổi hắt hiu
Buồn ngẫm mình ta ngày tiếp nối
Lệ đầm bia mới xót trăm chiều
Hai câu kết của bài thơ là hai câu thơ hay nhất: Ta tai thân hậu sự - Đọa lệ hữu di bi (Thương ôi, việc sau khi cái thân của bạn mất rồi, rơi lệ chỉ còn sót lại cái bia thôi). Cái đau xót của ông là bạn chết rồi thì thân xác của bạn cũng biến theo mất, nhìn lại chỗ bạn nằm duy chỉ còn thấy tấm bia mà thôi. Từ tình thương và nỗi đau xót, tác giả vươn tới triết lý nhân sinh. Cuộc nhân sinh là như thế. Khi còn sống con người còn tất cả, đến lúc mất con người mất hết tất cả. Ý thơ của ông có phần nào cũng giống câu thơ của Nguyễn Gia Thiều “Trăm năm một đám cỏ khâu xanh rì” (Cung oán ngâm khúc).
Chúng ta đã biết tiên sinh làm quan to ở triều đình nên bạn bè rất đông. Ngoài các danh sĩ trong Mặc Vân thi xã thường cùng tiên sinh hội ẩm, xướng họa thơ văn còn có nhiều danh sĩ khác tới lui công tác chuyện trò. Tình cảm ấy được tác giả biểu hiện qua các lần tao ngộ, chia tay... Người đọc có thể tìm thấy ở ông một tình bạn chân thành, giản dị, không kiểu cách khách sáo. Đặc biệt ông coi trọng tình bạn cốt ở tấm lòng hiểu biết và quý mến nhau.
5. Tình bác ái:
Tiếp nối trào lưu nhân văn chủ nghĩa giữa thế kỷ XVIII của các nhà thơ Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương, ông cũng quan tâm đến số phận người phụ nữ. Ông thương xót cho số phận của cô gái ở chốn thanh lâu. Vốn là một cô gái xinh đẹp mỹ miều lại phải đem thân cho thiên hạ mua cười, nhưng rồi tuổi xuân qua đi, cái già xồng xộc tới. Thân phận bị bỏ rơi long đong. Nàng vừa thương cho nỗi mình vừa oán trách cho số kiếp. Ở đây ta bắt gặp tính nhân văn của Nguyễn Du đã chảy sang Trương Đăng Quế. Trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du viết:
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp
Liều tuổi xuân mua nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Chồng con đâu tá biết là cậy ai?
Với tấm lòng thương cảm sâu xa, Trương Đăng Quế cũng viết:
THANH LÂU OÁN
Dương hoa chánh hảo khan
Đào hoa diệc phục tiên
Nhân sinh kỷ thời hảo
Nhan sắc khí trí lão
Đại chung đồ nhiên
Trường An thiếu niên du đãng tử
Vãng lai du hí Trường An lí
Vi nhan tác thái đa khả lân
Đắc ý đồng tâm hướng thùy thị?
Triêu du tử mạch vãn lai qui
Dục ngữ trì trù khước liễm mi
Sách tánh lâm đăng chiếu minh kính
Tư căng nhan sắc vị thường suy
Vân hoàn vãn tựu tân cung dạng
Giá dữ xuân phong bất đa nhượng
Quân khan thập bội mỹ ư hoa
Thùy nhẫn xuân hoa tiếu tương hướng
Dịch:
HẬN LẦU XANH
Hoa dương óng ả lạ nhường
Hồng đào tươi tắn dễ thường không yêu
Ngày xanh phỏng được bao nhiêu
Má hồng thoáng chốc tiêu điều già nua
Trò đời lắm nỗi gió mưa
Tình người quen thói đong đưa qua đường
Có chàng trẻ tuổi lang thang
Tới lui đào mận Trường An ngày ngày
Đầu mày cuối mắt đắm say
Tâm đầu ý hợp hỏi rày mong ai
Sáng chiều ngõ tía rong chơi
Thẹn thuồng muốn nói, nghẹn lời cau mi
Đèn khuya gương rọi tâm tư
Ngùi thương nhan sắc vẫn như dạo nào
Tóc mây vấn gọn buổi đầu
Chi nhường gió sớm dạt dào tình xuân
Hơn hoa sắc sảo bội phần
Nhìn hoa ai nỡ lần khân bông đùa?
Ông còn mượn lời người vợ bị chồng bỏ để nói lên nỗi bất công của tất cả những người phụ nữ sống trong xã hội cũ. Lúc còn xuân thì cùng nhau thề nguyền yêu đương hết mực một bước không rời. Về sau nhan sắc của người phụ nữ dễ mau tàn phai trước, người chồng thay lòng đổi dạ ngoảnh mặt làm ngơ. Số phận của người phụ nữ bị bỏ rơi. Đó là điều bất công mà ông đã lên tiếng cảnh báo, bênh vực, đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho họ
Tích thiếp thiếu niên thì
Dữ quân vi tương tri
Thệ thủ đồng bách niên
Tương hoan vô biệt ly
Kim triêu nhan sắc suy
Quân hành đa khả nghi
Dục ngôn bất khả đắc
Tương kiến chung vô kỳ
Quân như sơn thượng tùng
Độc lập cố bất di
Thiếp như thủy trung chu
Phiêu bạt vô khả y
Trầm tư mỗi nhật dạ
Thử tình đương cáo thùy
Khai môn dục tiền khứ
Bất tri hà sở chi
Tương cách kỷ lý hử
Tương đối như thiên nhi
Quân lượng chấp cao tiết
Tiện thiếp phù hà vi
(Khí phụ từ)
Dịch:
Xưa thiếp còn bé bỏng
Vầy lứa đôi cùng chàng
Thề mãi hình theo bóng
Chung vui chẳng lìa tan
Nhan sắc sớm suy vong
Lang quân dạ trái ngang
Nói ra dường ngập ngọng
Hẹn đâu thêm bẽ bàng
Chàng là tùng trên non
Bền chân như thạch bàn
Giữa dòng thiếp thuyền con
Đời phiêu bạt lang thang
Ngày đêm lòng héo hon
Hỏi cùng ai thở than
Muốn bước ra ngoài song
Biết chốn nào rẽ sang?
Đường xa bao nhiêu phỏng
Mà cách nhau dặm ngàn
Chàng quyết giữ tiết trong
Thiếp làm sao hở chàng?
Thấy một cô gái bên dòng sông xuân đêm qua trong cảnh mưa rơi cứ đi dọc ven bờ với dáng hình thu nhỏ, ông không ngăn được cảm xúc:
Tạc dạ vũ thủy hạ
Xuân giang vi lãng sanh
Thiếp tâm sở hữu cảm
Diên ngạn tự vi hành
(Xuân giang khúc)
Dịch:
Đêm qua có mưa nhỏ
Lòng sông sóng gợn mờ
Lòng em xao xuyến bấy
Ven sông bước bước hờ
(Bài ca sông xuân - Lê Kỉnh dịch)
Năm 1836 Minh Mạng thứ 17, ông được cử đi dẹp cuộc nổi dậy Lê Duy Hiển ở vùng thượng du Thanh Hóa. Các cuộc nổi dậy này là do các quan muốn cát cứ chống lại nhà Nguyễn. Qua bài Kỷ hành, ông kể lại sự việc này một cách chân thật và khiêm tốn
Tuế diễu phụng Bắc hành
Sóc phong chiến hàn lật
Tráng chí khinh trường đồ
Nhung can đại hoa bút
Thư sanh vị tri binh
Tằng bị Tư Mã trật
Trù hoạch tuân miếu mô
Tôn Ngô vô dị thuật
Tướng sĩ cổ dũng tiến
Man phỉ tận bôn dật
Tiễu bình công hanh thành
Bài thị dụ đắc thất
Dịch:
Cuối năm phụng mạng đi ra Bắc
Gió bấc heo may lạnh buốt xương
Hùng tâm tráng khí mà lên đường
Giáp binh tạm thay cho bút nghiên
Đọc sách nên chưa biết việc binh
Mà lại làm quan trật Tư Mã
Làm theo kế hoạch của triều đình
Tôn Ngô cũng không thuật gì lạ
Khích lệ tướng sĩ anh dũng tiến
Man phỉ hoảng kinh bỏ chạy hết
May mắn bình định được hoàn thành
Cáo thị hiểu dụ chuyện được mất
(Huỳnh Châu dịch)
Quân giặc bỏ chạy vào núi, tiên sinh không cho truy giết mà chủ trương:
Viên khai tam diện nhân
Từ từ gia vũ tuất
Hành chi tuần nhật gian
Kinh tán thứ đệ xuất
Dịch:
Mở ra ba mặt đức nhân
Vỗ về an ủi nhân dân chốn này
Trong vòng chỉ có mười ngày
Những kẻ chạy trốn ra ngay đầu hàng
(Huỳnh Châu dịch)
Kết quả:
Nghịch đảng nhất triêu tất
Sở chí bất tham tàn
(Đảng nghịch một sớm rã tan
Không cần làm việc tham tàn bất nhân)
Ở đây tiên sinh đã dùng chiến lược, chiến thuật tài tình lấy “mưu phạt tâm công” làm chính, theo kiểu Nguyễn Trãi. Và ông đã tiếp nối quan điểm của Nguyễn Trãi là:
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn để nhân dân nghỉ sức
Chẳng những mưu kế kỳ diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
(Đại Cáo Bình Ngô)
Qua đó ta thấy tấm lòng nhân đức thương quí dân của ông. Một mặt ông vừa giúp vua bình định xã tắc một mặt ông vừa giúp dân, vỗ về an ủi họ. Đó là nội dung tiến bộ của tư tưởng “hạ trạch dân” của ông.
6. Nỗi niềm tâm sự
Ngày xưa Trâu Dương có nói: “Nữ vô mỹ ác nhập cung kiến đố. Sĩ vô hiền bất tiếu nhập triều kiến tật” (Con gái không cứ đẹp xấu đã vào cung là có sự ghen tuông. Kẻ sĩ giỏi hay không đã vào triều là có sự ghen ghét). Huống chi tiên sinh vào triều, công danh lại lên đến tột đỉnh thì càng có nhiều người ghen ghét hơn. Mọi sự đố kỵ dèm pha luôn luôn rình rập bên mình. Nếu ông không khéo cẩn thận thì cũng dễ mất chức và tù tội. Nguyễn Công Trứ cũng bị dèm pha mà cả đời long đong lận đận khi lên khi xuống. Nguyễn Công Trứ phải ngán ngẫm cho sự đời:
Nghe như chọc ruột tai làm điếc
Giận đã căm gan miệng mỉm cười
Và ông còn nguyện: “Kiếp sau xin chớ làm người”. Trương Đăng Quế đã bao lần thoát khỏi sự tranh chấp, dèm pha. Trong hai lần phụng mệnh di chiếu để tôn tân quân, Lần một, ông phụng mệnh di chiếu của vua Minh Mạng để tôn vua Thiệu Trị. Đó là lần suôn sẻ. Riêng lần hai, phụng mệnh di chiếu của vua Thiệu Trị, ông cùng với các triều thần tôn Tự Đức lên ngôi vua mới thật gay go. Các sách lịch sử gọi đây là “một biến cố cung đình”. Theo di chiếu ông đã mạnh dạn gạt Hồng Bảo con trưởng để Hồng Nhậm (Tự Đức) lên nối ngôi. Hồng Bảo uất ức “nói với mọi người rằng ông ta đã bị cướp ngôi, ông cũng vui lòng vì chính em trai ông được lên ngôi chứ không phải là ai khác. Ông chỉ muốn làm vua dù chỉ một ngày để moi gan ông Quế”.
Một việc khác, theo Đại Nam chính biên liệt truyện thuật lại năm 1849: “Nhà của công chúa An Mỹ bị mất cắp. Quân cảnh vệ ở kinh thành tố cáo Nguyễn Tân thành viên nội các là đồng lõa và đồng thời tố cáo Lê Mậu Hanh thuộc đội thị vệ đã để bọn trộm trốn thoát dù biết rõ chúng là tội phạm. Bộ Hình báo chuyện ấy lên đức vua bằng lời lẽ không rõ ràng. Quế cho rằng cần cách chức Tân và Mậu Hanh và giao cho nhà cầm quyền tra xét. Quỹ tố cáo sự can thiệp của Quế vào vụ này vượt quá quyền hạn của phụ chánh đại thần. Nhưng Tự Đức bảo vệ Quế trước sự tố cáo của Bùi Quỹ”.
Trên đây là hai trong hằng trăm vụ việc mà tiên sinh phải đối phó. Sau vụ Bùi Quỹ ông đệ đơn xin thôi chức phụ chính đại thần với lời lẽ: “Các quan ngự sử tố cáo chúng thần lạm quyền, các tỉnh thần nghi ngờ chúng thần trấn áp, các cộng sự ở triều khuyên chúng thần không nên giữ cương vị này quá lâu và sẽ trách chúng thần tham quyền cố vị”
Tự Đức lên ngôi được hai năm, ông bắt đầu xin về hưu. Lần1 (1850) vua Tự Đức phê trẫm muốn dùng cận thần, khanh hãy ở lại. Lần 2 (1855) vua Tự Đức phê không người thay thế. Lần 3 (1860), lần 4 (1862), Tự Đức cũng không cho. Lần 5 (1863) vua Tự Đức lại không ưng thuận và phán “Khanh tuổi già mà trí tuệ còn giỏi... Cái kiến thức mạnh mẽ tinh tường ấy, bọn hậu tiến không thể kịp được”. Lần thứ 6, tháng ba Quí Hợi 1863 tiên sinh 71 tuổi lại xin thì mới được về hưu.
Sống trong hoàn cảnh như vậy, ông luôn luôn làm việc cẩn trọng và cố giữ mình “Khi tại chức, phong thái của tiên sinh lúc nào cũng có vẻ nghiêm trang ung dung nhàn nhã, sắc mặt, giọng nói chẳng hề xao xuyến từ việc to tát khó khăn cho đến việc vướng vít tỉ mỉ đều giải quyết ra lẽ”. Ông cũng không tham quyền cố vị, không tham muốn công danh phú quí:
Phú quí bất túc mô
Chấp tiên hà sở cầu
(Tạp hứng 3)
Dịch:
Phú quí không làm ta thích
Hà tất phải cầu làm kẻ cầm roi
Từ năm 57 tuổi ông đã chán ngán cảnh quan trường và nhất quyết xin về hưu để vui thú điền viên. Nhiều lần xin mà không được chấp thuận, ông đâm ra bực bội:
Thù ân vị liễu thời
Nhật mộ tăng sầu tịch
(Giang hồ hoài cựu du)
Dịch:
Báo ân đến bao giờ mới hết
Trời chiều tăng thêm buồn
Ông chán cuộc đời làm quan nhưng lại phải làm nên điều đó đối với ông là cái hận:
Khởi vi thăng đấu lụy
Lưu hận thử thân danh
(Xuân nhật thư hòai)
Dịch:
Đẩu thăng phiền lụy há theo
Chuốc sầu gây hận đến điều thân danh
Sống trong cảnh nghi kỵ, dòm ngó, ông vẫn giữ một mực với lối sống:
Ngô phi hảo du nhân
Khai khẩu triếp đạo hảo
(Tạp hứng 6)
Dịch:
Ta chẳng phải kẻ xu nịnh
Mở miệng ra là cái gì cũng tốt
Vì chán ngán công danh và cũng không theo bè phái nên càng ngày tiên sinh càng cảm thấy cô đơn bất lực
Nhân bất hiền dữ bỉ
Xuất môn tranh sở đầu
Tê tê nhất chích thân
Mưu chi vị hữu trù
(Tạp hứng 3)
Dịch:
Người hiền ở với kẻ dữ
Ra cửa là tranh nhau
Ta một mình vò võ
Mưu chước được gì đâu
(Huỳnh Châu dịch)
Trong bài Giang hồ hoài cựu du sau khi chiêm ngưỡng cảnh đẹp thiên nhiên, ông liên hệ đến cuộc đời làm quan của mình và than
Cố ngã du hoạn trung
Phong trần thượng vi khách
(Ngó lại cuộc đời làm quan của ta vẫn hãy còn là khách phong trần). Nhiều khi muốn quên đi tất cả ông đã dùng đến rượu. Ông tự động viên mình uống, uống cho thật say để khỏi phải tỉnh
Hữu tửu, hữu tửu
Châm chi, chước chi
Chúng nhân giai túy
Ngã tỉnh hà vi?
(Hữu tửu)
Dịch:
Có rượu, có rượu
Rót đi, uống đi
Mọi người say cả
Ta tỉnh làm gì?
(Trần văn Thận dịch)
Nhưng rượu không phải là lối thoát duy nhất để giải thoát khỏi buồn phiền, tiên sinh tìm đến mộng tưởng. Nếu ngày xưa Lý Bạch đã xem đời là một giấc mộng lớn và nói:
Xử thế nhược đại mộng
Hồ vi lao kỳ sinh
Thì nay Trương Đăng Quế với tâm trạng chán chường cho số phận phù sinh và trò đời biến dịch đã dành cho tâm hồn mình những phút bay về Bồng Lai tiên cảnh đầy tưởng tượng
Tích mộng du tiên đô
Cao níp Bồng Lai đảo
Thượng hữu chúng tiên nữ
Minh mâu tín mỹ giảo
Trung y giáng tiêu nhân
Dữ ngã tối thân hảo
Thượng khủng cách tiên trần
Dư tình mạc năng đạo
Dịch:
Xưa mộng chơi cõi tiên
Cao xa trên đảo Bồng Lai
Trên đó có nhiều tiên nữ
Mắt sáng vẻ đẹp rực rỡ
Trong đám quần áo đó có người mặc áo đỏ
Với ta là rất thân
Thường lo tiên và trần xa cách
Mối tình này làm sao nói được
(Trần Văn Thận dịch)