Tôi có ông anh ruột là đại úy quân đội. Năm đó vì đời lính không nuôi nổi một vợ bốn con nên anh đành xin phục vụ viên. Về quê, dưới đáy ba lô rủng rẻn hơn 10 triệu đồng tiền chính sách, anh đem gởi tín dụng phường 2 Bạc Liêu để lấy lãi hàng tháng nuôi con. Thế rồi tín dụng bể, chủ nhiệm ở tù, không còn ai chịu trách nhiệm cái khoản tiền của anh. Nghe ai hở là anh nổi cáo lên rồi chưỡi đỏng: "Mẹ, nó làm tiêu cái sản nghiệp 20 năm cầm súng của tao rồi." Buồn đời, anh dắt vợ con ra mép biển Bạc Liêu hoang vu và lãng mạn, nhưng đó chính là cái vùng đất mặn tới cỡ trừ mắm, cóc đước...thuộc hệ sinh thái ngập nước thì không còn cây gì có thể sống nổi. Thế nên nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình anh là vào vạt rừng chồi bắt ba khía đem bán, nuôi thân.
Một bận tôi vào thăm, nhìn anh tôi cứ cay cay sóng mũi. Bao nhiêu phong độ mất hết. Trước mắt tôi là một con người đen cháy, khô như que củi, râu tóc tua tủa sùm sụp như đảng cướp rừng xanh. Gia cảnh thật tệ, nhà cửa trống hoác, gió lùa từ trước tới sau. Hai đứa nhỏ bỏ học, hai thằng lớn thì theo anh đêm đêm đi bắt ba khía. Còn vợ anh ở nhà muối ba khía và đưa ra chợ bán. Chị làm mắm ba khía rất ngon. Nghe nói có tiếng ở chợ Bạc Liêu. Chị làm cơm đãi em chồng toàn là đặc sản của gia đình chị: Ba khía chiên mỡ hành, ba khía luộc, mắm ba khía...Tôi khóai nhất là món mắm ba khía, ăn vào cứ thấy ở đầu lưởi có vị beo béo, mặn mặn, bùi bùi...gợi cảm lạ thường. Trong các loại đặc sản của miền Nam bộ mắm ba khía không sang trọng như mắm lòng cá lóc xứ U Minh, mắm cua gạch son mà mấy tay" khách trú" đem chưng cách thủy với thịt bầm, hột vịt...Nhưng hương vị của nó đặm đà, đã ăn rồi thì khó quên lắm. Nhắc mới nhớ, hồi cố vấn Võ Văn Kiệt lúc còn là Thủ Tướng Chính phủ một lần về chợ và chỉ đạo Đại hội Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu, trong bửa cơm ông muốn có món mắm ba khía. Đã thế, ông còn cho người mua mang về tận Sài Gòn. Mắm ba khía là món mắm bình dân, thuở tôi còn nhỏ, gia cảnh rất ngèo, nhà tôi bao giờ cũng có một hủ mắm ba khía dùng để ăn cơm thay thế cho các món ăn khác khi con "nước kém" hoặc mưa già, nước trên đồng lểnh lõang, không bắt tôm cá được. Nhớ những buổi trưa đi làm đồng về, bụng đói rung, bới một tô cơm nguội, bỏ vào đấy con ba khía cái, rồi xé ba khía và bóc cơm ăn bằng tay... vậy mà ngon như chưa bao giờ được ăn, ngon như thế. Những năm lớn khôn đi xa, có một chút danh vị với đời, thường được ngồi trước những bữa tiệc cao lương mỹ vị, vậy mà rồi chỉ nhớ hoài món ăn thời tấm mẳn. Món mắm ba khía mà nông dân thường chế biến là xé ra chộn với tỏi, ớt, dấm đường. Mai ba khía đầy gạch son, cho cơm vào chộn ăn béo ngậy. Có lẽ món mắm ba khía cũng giống như các loại mắm đồng, ăn ngon nhất là vào mùa cấy, ăn chung với bí rợ hầm dừa. Mắm ba khía có tự lúc nào chắc chẳng ai còn nhớ. Tôi trộm nghĩ: Khi người Hoa từ Hà Tiên, người Việt từ miệt Tiền Giang - Bạc Liêu khai khẩn họ đã tiếp nhận văn hóa ẩm thực (mắm) của người Khơme Nam bộ rồi sáng tạo ra một loại mắm từ ba khía-đặc sản của địa phương, của biển.
Rạch Giá, Cà Mau, Bạc Liêu xưa có những cánh rừng ngập mặn-ven biển bạt ngàn vốn là vương quốc của loài ba khía. Nếu Ba Khía vùng Cà Mau, Bạc Liêu, Rạch Giá nổi tiếng khắp Nam Kỳ lục tỉnh thì ba khia Rạch Góc, Tân Ân, quê hương của Phan Ngọc Hiển khởi nghĩa Hòn Khoai, lại nổi tiếng khắp vùng Cà Mau, Bạc Liêu, Rạch Giá. Vào thập niên 1980 trở về trước, giá của ba khía Rạch Góc mắc gần gấp đôi ba khía vùng khác và bán về Sài Gòn chạy như tôm tươi. Ba khía Rạch Góc thịt dày chắc và gạch son cứng mai. Trong khi ba khía của Bạc Liêu, Rạch Giá chỉ có "Gạch dá" (nửa đen nửa đỏ). Nhưng người già ở Rạch Góc, rành về ba khía nói rằng sở dĩ bà khía Rạch Góc ngon là vì đất Rạch Góc là đất phù sa không có pha cát. Rừng Rạch Góc lại có loài mấm đen và trái của nó làm thức ăn cho ba khía có rất nhiều đạm ...Xưa người ta nhận ra ba khía Rạch Róc qua chiếc nghe chở ba khía bao giờ cũng có chiếc gàu tát nước được bện từ lá dừa nước cắm trên đầu ngọn sào. Sau này do ba khía Rạch Góc giá cao nên dân buôn ba khía ở Bạc Liêu, Rạch Giá cũng bày đặt máng chiếc gàu trên ngọn sào để đánh lừa thiên hạ.
Vụ ba khía bắt đầu vào mùa sa mưa và kết thúc khi mưa dứt hạt. Mùa nắng cũng có ba khía nhưng thịt không chắc và ăn không ngon. Mấy ông già ở Cà Mau kể rằng, ngày xưa ba khía nhiều đến cỡ nói ra tưởng Bác Ba Phi ở xứ U Minh kể chuyện tếu rằng vào những con nước rong ba khía “hội” chúng bu đặc trên trang đước, gốc mấm, nhìn vào không thể thấy gốc cây. Người đi bắt ba khía là cứ bắt đòn dài lên bờ rừng là ba khía lũ lượt bò xuống ghe.
Ba khía “hội” vào những con nước 30 âm lịch tối trời, chúng cũng bu đen đặc gốc cây để thực hiện việc duy trì nòi giống, nhưng ba khía còn có một tập quán sinh học khác hơn các loài khác là nó còn một ngày “hội” lớn hơn, thường là vào 30 tháng tám hoặc tháng chín âm lịch. Ngày hội này ba khía nhiều hơn các ngày hội khác và đặc điểm là toàn giống cái. Cũng không phải giao phối mà là đẻ trứng. Dân nghề ba khía gọi là mùa ba khía ba khía rửa trứng. Họ còn kể rằng khi đó ba khía mắc đẻ, đau bụng nên chúng hoàn toàn mất đi bản năng cảnh giới mà ôm đùm, ôm cục ở các gốc cây. Dân bắt ba khía có thể dùng tay gạt một cái là ba khía rớt xuống đầy một thúng táo.
Vào mùa ba khía, đặc biệt là những ngày ba khía “hội”, những khu rừng đìu hiu âm u bổng trở nên rộn rịp. 5-3 nhân công chiều là lên những chiếc xuồng ba lá luồng lách trong các mương xẻo của rừng, trên mình họ là bao tay, đèn khí đá...Họ bắt chừng nào đầy xuồng con là đem ra xuồng mẹ đổ ba khía vào những lu mái đầm có chứa sẵn nước muối. trong một đêm như thế ghe mẹ nặng 5-10 tấn đã “ khẩm đừ” . Sau đó ghe mẹ chạy ra Cà Mau, Bạc Liêu để sang cho khách thương hồ từ vùng Tiền Giang xuống mà chở về Sài Gòn hoặc theo dòng MêKông qua biển hồ bán cho CamPuChia.
Nảy giờ lo xa đà chuyện ba khía xin được trở lại chuyện làm ăn của ong anh khốn khổ của tôi. Anh bảo làm ăn hồi nầy vất vả lắm, hai thằng con lớn của anh, vì nghề bắt ba khía sống không đủ, nên ban ngày chúng đốn rừng làm củi đem đi bán đổi gạo, ban đêm mới đi bắt ba khía phụ anh. Chúng đốn củi cật lực suốt ngày mà cũng chỉ kiếm được mỗi đứa 7-8 ngàn đồng. Nghề đốn củi ngày một khó khăn thêm vì dân các nơi khác cũng vào đây phá vạt rừng chồi ven biển. dạo anh mới về, xung quanh nhà anh bước ra là tới rừng, giờ chúng đã lùi xa về phía biển hàng cây số. Nên nghề đốn củi trở nên “trần ai khoai củ”.
Theo đó nghề bắt ba khía cũng vô cùng khó khăn. Nếu trước đây anh ra khỏi nhà là có thể soi đèn bắt ba khía được ngay, còn bây giờ thì phải lội xa hàng cây số. Và do rừng ngày càng thu hẹp nên ba khía không còn bao nhiêu. Ba cha con anh bắt suốt đêm cũng chỉ được 10-20 ký, bán được 2-3 chục ngàn. Mà phải ngày nào cũng bắt được ba khía, phải chờ mùa mưa, chờ nước rong...cuộc sống của anh giờ rơi vào bé tắc.
Thân phận của ông anh tôi giống như thân phậ nhiều người ở vùng “rừng vàng” ven biển nổi tiếng của bán đảo Cà Mau. ở đó con người đã từng thừa hưởng sản vật vô cùng giàu có của rừng, của biển. Và họ cũng đã từng tàn phá không thương tiếc cái vốn quý của rừng, của biển. Để rồi giờ đây rừng, biển đối xử với họ như một tên keo kiệt, bủn xỉn.