Truyên dân gian Do Thái:
Nguyễn Ước dịch và chú thích
Thuở đó có một người nghèo chẳng giúp đỡ được gì cho con cái. Suốt ngày dài, y ngồi học sách Tô-ra* (Torah) trong hội đường*, và từ trước tới nay trong cuộc đời mình, y chưa bao giờ đặt chân ra khỏi thành phố nơi y sinh sống. Ngày nọ, bà vợ của y nói với chồng:
- Ông còn ăn không ngồi rồi cho tới bao lâu nữa? Tại sao ông không đi tìm một công việc nào đó mà làm, gần hay xa cũng được, miễn sao cứu cho chúng ta khỏi chết đói.
Người Do Thái ấy trả lời:
- Tôi biết làm gì bây giờ? Từ trước tới nay, tôi chưa hề đi quá cổng thành. Tôi sẽ lạc mất ở chặng đường đầu tiên. Thà là chết ở trong nhà còn hơn chết ở ngoài đồng!
Vợ của y nói:
- Ông đừng lo. Một khi đã ra khỏi cổng thành, ông chỉ việc hỏi bất cứ người nào ông gặp trên đường về phương hướng mà thôi.
Ngày nào bà vợ cũng nói hoài nói mãi chuyện đó cho tới khi người chồng hết chịu nổi. Y cầm lên cây gậy, ứa nước mắt nói lời từ biệt gia đình và lên đường, bước chân ra khỏi cổng thành.
Khi đi dọc đường vạn dặm, y gặp một kẻ dung mạo xấu xí, da ngăm ngăm đen. Người chồng và là Do Thái ngoan đạo ấy cất tiếng:
- Thưa ông, chúc ông một ngày tốt lành.
Kẻ da ngăm ngăm đen ấy trả lời:
- Còn ông, thưa ông, ông đang đi đâu vậy?
Người Do Thái ngoan đạo kể tên một thành phố nào đó. Kẻ da ngăm ngăm đen nói:
- Ông hãy đi với tôi; tôi sẽ chỉ đường cho ông.
Và như thế cả hai cùng đi bên nhau cho tới khi đến một nơi đổ nát, hoang tàn và cổ lổ. Đi qua khỏi nơi đó, cả hai vào một thành phố rộng lớn; ở đó, người Do Thái ngoan đạo nghe từ khắp mọi góc thành phố vang lên giọng đọc sách Tô-ra. Trấn tĩnh lại, y gõ lên cửa một ngôi nhà. Cửa mở và y được nghênh đón vào bên trong, tiếp đãi ăn uống như một ông hoàng và đối xử cực kỳ vinh dự.
Người Do Thái ngoan đạo ở lại đó cho tới đêm Thứ bảy* y cùng đi với gia đình tới hội đường. Người trưởng ca đoàn bắt đầu giờ phụng vụ buổi tối, và mọi kẻ trong cộng đoàn cùng cầu nguyện với y. Nhưng khi tới phần nghi thức kết thúc và y bắt đầu đọc lên lớn tiếng những lời rằng: “Cầu cho niềm hoan lạc của Thiên Chúa, Thượng đế của chúng ta, tràn đầy trên chúng ta”, thì mọi kẻ có mặt tại đó đều bỏ đi, để lại y trơ trọi một mình. Sự cố đó làm y ngạc nhiên tột độ vì toàn thể cộng đoàn ấy biến mất trong làn không khí mỏng manh, không để lại một dấu vết. Và trong khi ngồi ở đó suy nghĩ ủ ê, người Do Thái ngoan đạo chợt nhân ra rằng bọn chúng đều là quỉ sứ.
Ba giờ đồng hồ sau, chúng quay lại hội đường. Chúng hỏi:
- Ngươi làm như vậy nghĩa là gì? Có phải đó là cách ngươi báo đáp lòng tử tế của chúng ta? Tại sao như thế? Ngươi đã khiến cho chúng ta phải bỏ chạy xa tới bốn trăm ngàn lý!
Y nói:
- Xin đừng nổi giận với tôi. Tôi đã không nhận ra các ngươi là ai. Tôi van xin các ngươi tha thứ cho tôi.
Lũ quỉ nói:
- Chúng ta sẽ tha thứ cho ngươi với điều kiện ngươi đừng làm điều đó nữa.
Người ấy nói:
- Nếu phải như vậy thì xin vui lòng đối xử tử tế với tôi bằng cách dẫn tôi về nhà với gia đình mình vì nơi này không phải là chỗ dành cho tôi.
Lũ quỉ nói:
- Dứt khoát là không. Ngươi sẽ ở lại đây với chúng ta, lấy một kẻ trong chúng ta làm vợ, sinh con đẻ cái rồi cùng chúng ta nuôi dưỡng chúng tại nơi này. Chúng ta cũng sẽ chu cấp cho ngươi nhiều của cải và bất cứ thứ gì khác mà tâm hồn ngươi ao ước. Ở đây, ngươi sẽ chẳng thiếu một thứ gì.
Người Do Thái năn nỉ:
- Đừng khiến cho tôi phải làm như thế. Xin các ngươi vui lòng để cho tôi ra đi vì tôi có vợ có con ở nhà.
- Tại sao chúng ta phải màng tới chuyện đó?
Lũ quỉ hỏi ngược lại như thế, và chúng buộc người Do Thái ấy phải lấy một con quỉ cái làm vợ, làm hôn lễ với nó, ngủ với nó và có nhiều con trai con gái với nó.
Ngày nọ, người ấy nói với con quỉ vợ mình rằng:
- Anh van xin em hãy để cho anh về nhà gặp lại vợ con của anh.
Quỉ cái trả lời:
- Nếu anh hứa sẽ quay lại với em ngay, đừng ở lại đó dù chỉ một đêm, thì em sẽ đồng ý cho anh đi và còn cho anh một số tiền rất lớn, mang về cho họ để họ không cần phải lo âu tằn tiện nữa. Em cũng sẽ cấp cho anh một con ngựa đặc biệt; nó chỉ mất có nửa ngày là chở anh tới nơi đó. Nhưng chỉ với một điều kiện là anh đừng làm em thất vọng.
Người Do Thái trả lời:
- Em muốn nói sao cũng được, miễn là làm cho anh tới đó và anh sẽ theo đúng bất cứ điều kiện nào em đòi hỏi.
Như thế, y đưa lời hứa với con quỉ cái. Nó mang tới cho y một con ngựa, đằng sau yên có hai cái túi chứa đầy vàng bạc và đủ loại đá quí. Y leo lên ngựa ra đi, và chỉ chốc lát sau, thấy mình đứng trước ngôi nhà của mình.
Khi thấy y, vợ con của y liền chạy lại ôm hôn thắm thiết. Lũ con vừa chảy nước mắt vui mừng vừa nói:
- Cha ơi cha, chúng con cám ơn cha đã về nhà. Bấy lâu nay cha ở chỗ nào vậy?
Người ấy không kể cho các con nghe nơi mình đã ở mà chỉ cho chúng tiền bạc và những gì còn lại trong tất cả mọi thứ y mang về. Sau đó, y nằm xuống bên cạnh vợ suốt đêm. Tuy thế, y ăn năn hối hận ghê gớm và khóc lóc đầm đìa nước mắt tới độ không thể nào chợp mắt được một chút. Vợ của y hỏi:
- Chồng của tôi ơi, ông khóc lóc chuyện gì vậy? Tại sao ông lại sầu khổ đến thế? Sau một thời gian dài dằng dặc xa nhà mới về lại với vợ con mà ông chẳng làm gì cả, chỉ có khóc lóc thôi, thế thì ông là loại đàn ông nào vậy?
Người đàn ông không trả lời. Khi người vợ thấy chồng đang giấu diếm chuyện gì đó với mình, bà nói:
- Nếu ông không kể cho tôi nghe đó là chuyện gì, tôi sẽ tự sát cho mà xem!
Nói xong, bà liền lấy sợi dây thắt lưng cột quanh cổ mình và bắt đầu siết chặt cho nghẹt thở. Thấy vậy, người chồng vội vàng chạy tới và thét lên với vợ:
- Bà ơi, hãy tới đây nằm với tôi, và tôi sẽ kể hết cho bà nghe mọi sự đã xảy ra.
Như thế người đàn bà bỏ sợi dây thắt lưng xuống, tới nằm với y. Và y kể cho bà nghe hết tất cả những gì đã xảy ra. Bà nói:
- Chồng của tôi ơi, xin hãy lắng nghe tôi. Ông hãy tới hội đường rồi ở lại trong đó học sách Tô-ra suốt ngày suốt đêm, và ông sẽ được bảo vệ chống lại mọi sự làm hại mình.
Y trả lời:
- Ý tưởng ấy của bà thật hay ho; tôi sẽ làm theo lời bà.
Tới sáng hôm sau, người Do Thái thức dậy rất sớm. Y đi tới hội đường và ngồi ở đó học sách Tô-ra suốt mấy ngày liền.
Khi con quỉ cái thấy chồng mình không trở về, nó sai một con quỉ khác giả dạng làm một thanh niên tuấn tú. Gã thanh niên này tới gần người Do Thái ấy trong hội đường và nói:
- Anh tới đây, tôi có việc muốn nói riêng với anh.
Người ngoan đạo ấy trả lời:
- Ngươi có thể nói cho ta biết ngươi muốn cái gì nhưng ta sẽ tiếp tục việc học ngay.
Khi con quỉ thấy người ấy không ngưng việc học dù chỉ một giây, nó liền bỏ đi không nói một tiếng và quay về gặp con quỉ cái, kể cho nó nghe chuyện đó. Lúc ấy, con quỉ cái đích thân đi. Nó giả dạng làm một phụ nữ xinh đẹp tới gặp thầy cả* của hội đường ấy và nói với ông rằng:
- Thưa thầy, xin hãy lắng nghe tôi. Tôi muốn đưa đơn khiếu kiện một người đàn ông đang ở trong hội đường.
Nghe vậy, người Do Thái ngoan đạo nói:
- Ngươi chẳng có điều gì để khiếu nại cả.
Con quỉ nói:
- Nhưng em là vợ của anh. Anh đã cưới em đúng theo lề luật, có làm hôn lễ trước bàn thờ, và em đã có con cái với anh. Trước khi rời em lên đường, anh đã hứa với em sẽ quay về ngay hôm sau, và em còn cho anh cả vàng lẫn bạc. Anh đã không giữ lời hứa - và như thế em tới đây để đòi hỏi anh phải hoàn thành các nhiệm vụ của mình đúng với lề luật Do Thái.
Người ấy nói:
- Nhưng ngươi không phải là đàn bà Do Thái mà là một con quỉ. Ngươi chẳng có chút quyền nào ở đây. Hỡi Xa-tan*, hãy đi cho khuất mắt ta!
Khi thấy mình không cách gì có thể thuyết phục hay hăm dọa hay năn nỉ ỉ ôi nữa, con quỉ cái nói với y:
- Thế thì em có một đòi hỏi sau cùng đối với anh, và anh chỉ có việc chấp nhận nó để vứt bỏ em. Nó là điều cuối cùng mà em yêu cầu anh, một lần rồi thôi.
Người ấy nói:
- Cứ việc yêu cầu và ngươi sẽ có nó.
Nó nói:
- Hãy hôn em một cái, và em sẽ chẳng bao giờ làm phiền anh nữa.
Như thế, người Do Thái ngoan đạo bước tới bên con quỉ và hôn nó. Và với cái hôn ấy, con quỉ hút lấy linh hồn của y ra khỏi người y, và rồi nó biến mất mãi mãi.
Chú thích:
* Torah. Trong tiếng Híp-ri, Torah có nghĩa là những lời giảng dạy hay học hỏi. Torah gồm năm cuốn sách được qui cho Mô-sê, gọi là Luật Mô-sê hay năm cuốn sách đầu của Kinh thánh (Ngũ kinh), gồm sách Sáng thế, sách Xuất hành, sách Lê-vi, sách Dân số và sách Đệ nhị luật. Người Do Thái giáo chính thống tin rằng nội dung sách Torah được Thượng đế truyền trực tiếp cho Mô-sê trên núi Xi-nai, và liền đó ông chuyển giao cho dân Is-ra-el. Sách Torah được dùng làm căn bản các lề luật về đạo đức và hướng dẫn thể lý. Nó bắt đầu với sự mô tả nguồn gốc của vũ trụ và kết thúc với chữ Is-ra-en, ngay sau câu chuyện cái chết của Mô-sê và trước cuộc xâm chiếm của người Is-ra-en vào đất Ca-na-an. Theo ý nghĩa rộng lớn hơn, sách Torah bao gồm mọi lời giảng dạy của Do Thái giáo, toàn bộ Kinh thánh và sách Talmud.
* Hội đường: Hội đường không chỉ là nhà thờ phượng của Do Thái giáo mà còn là nơi tập trung sinh hoạt của cộng đồng - trường học, trung tâm tôn giáo, phòng họp và phòng xử án. Tuy thế, hội đường không thể thay thế hoặc mô phỏng chức năng cao cấp của Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Nó không có tư tế và không cử hành lễ tế.
Các hội đường ban sơ có lẽ chỉ gồm một phòng đơn giản. Đó là nơi có mười người nam hoặc hơn của một cộng đoàn Do Thái tụ tập để dâng lời cầu nguyện và trao đổi những khái niệm về sách Torah và các cuốn còn lại của Kinh thánh, và các tài liệu giảng huấn khác như Mishnah, Midrash. Về sau, các cộng đoàn dựng lên một toà nhà đặc biệt, thường là toà nhà cao nhất cộng đồng. Theo thời gian, kiểu mẫu kiến trúc thay đổi dù mọi hội đường đều có chung một số đặc điểm. Dứt khoát, cửa sổ là tất nhiên vì sách Torah phải đọc ở chỗ có đủ ánh sáng. Mặt tiền có ba cửa lớn, tiếp cận một hàng hiên có vòm, hoặc tiền sảnh, nơi tín đồ chuẩn bị tư thế trước khi đi vào. Bên trong, đặt các băng ghế thành dãy theo ba mặt, đối diện với bục thuyết giảng, dành cho người đứng nói.
Trong một số trường hợp, toà nhà hội đường được định vị sao cho mặt của cộng đoàn nhìn về hướng của Hòm bia đựng sách Torah và hướng của Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Có thể có dãy ghế dành cố định cho Hội đồng kỳ mục (trưởng lão). Nền nhà hầu hết bằng đá bằng phẳng nhưng các cộng đoàn giàu có thường gắn đá đa sắc để trang trí.
Trong mấy chục năm đầu thời Kitô giáo sơ khai, các tông đồ và môn đệ cũng thường rao giảng trong hội đường Do Thái giáo.
* Đêm Thứ bảy. Ở đây, có lẽ người kể có chủ ý vì ngày Sa-bát bắt đầu vào lúc mặt trời lặn chiều Thứ sáu, cũng là lúc người Do Thái tới hội đường để kinh nguyện, bắt đầu một ngày nghỉ việc, chay tịnh và sẽ kéo dài cho tới lúc mặt trời lặn ngày Thứ bảy.
* Lý. Leave. Dài khoảng 4 cây số.
* Thầy cả. Rabbi. Còn có thể gọi là tôn sư, hoặc thầy giảng. Để trở thành thầy cả, một thanh niên phải theo học với một tôn sư, trong một khoảng thời gian không nhất định, cho tới khi được vị thầy ấy công nhận là người ấy có thể tự mình đưa quyết định chính xác về khía cạnh tôn giáo của một vấn đề. Lúc đó, vị thầy sẽ tuyên bố môn sinh ấy là một học giả được phong chức và là kẻ có thể tự xưng mình là một thầy cả. Cho tới thế kỷ 13, thầy cả không nhận lương bổng. Nhiệm vụ của thầy cả trong Do Thái giáo chính thống bao gồm quyết định về mọi vấn đề liên quan tới lễ nhập đạo (cắt bì), điểm đạo lúc đủ 13 tuổi, hôn nhân, li dị và lề luật, v.v. Thầy cả không phụ trách tế lễ, vì đó là công việc của giới tư tế.
Trong sách Phúc âm, có chỗ Đức Giê-su cũng được gọi là rabbi.
* Xa-tan. Quỉ vương hay quỉ sứ (Satan, Ashmodai, Asmodeus). Theo niềm tin của nhiều tôn giáo, nó là một tác nhân độc dữ và siêu nhiên, ảnh hưởng lên động thái của con người. Theo truyền thống Thiên Chúa giáo (gồm Do Thái giáo và Kitô giáo), Xa-tan là là một bộ mặt nguy hiểm cực độ, thủ lãnh của các thần linh độc dữ hoặc của các thiên thần sa đọa. Chúng vốn là phẩm (cơ binh) thứ nhất trong 10 cơ binh thiên thần, bị Thượng đế trừng phạt vì dám kiêu ngạo, thách đố quyền năng của Thượng đế. Vì thế, ngày nay, các cơ binh thiên thần còn lại được gọi là chin phẩm thiên thần.
Cũng trong Kinh thánh, Xa-tan có đầy đủ quyền năng chẳng kém Thượng đế, ngoại trừ việc làm con người sống lại, được hiểu như khả năng làm điều thiện. Trong văn học tôn giáo, Xa-tan xuất hiện với nhiều hóa trang khác nhau, mang lốt con người hay loài vật, và nhiều danh xưng khác nhau như Beelzebul, Belial, v.v. Cũng theo truyền thống Thiên Chúa giáo, người bị chứng quỉ ám là bị Xa-tan chiếm hữu. Tuy thế, vẫn có tín ngưỡng thờ phượng Xa-tan, gọi là Satanism, liên quan tới phép phù thủy, ma thuật của pháp sư, v.v. Tín ngưỡng này vẫn dai dẳng thịnh hành bất chấp sự chống đối trong suốt lịch sử của Thiên Chúa giáo.
* Văn bản của truyển này được ước lượng là có từ bản chép tay vào thế kỷ 13, được xuất bản lần đầu trong Révue des Etudes Juives.
* Trích từ “Kho tàng truyện dân gian Do Thái”, Nguyễn Ước sưu tập và chú giải, sẽ xuất bản.