Chúng tôi tôn trọng ý kiến của tác giả và mong nhận được ý kiến của các bạn.VCV
Hoàng Trọng Muôn, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam tặng tôi tập sách “ Thử bàn về Văn học Hà Nam đương đại” – Nhà xuất bản Hội Nhà văn, nộp lưu chiểu tháng 4/2010.
Tôi đã đọc kỹ cuốn sách. Có lẽ tôi không đi sâu vào cuốn sách, mà lại tản mạn đôi điều: bởi đã đọc cuốn sách Muôn tặng; bởi những gì trước đó tôi đọc một số tác phẩm khác của Muôn và cả những gì chúng tôi trao đổi với nhau trước đó; bởi suy nghĩ khác của tôi nữa.
Trước hết, sau khi đọc “Thử bàn về văn học Hà Nam đương đại” của Hoàng Trọng Muôn, tôi thấy một bức tranh tương lai của văn học Hà Nam không mấy sáng sủa, nếu không nói rằng, nó tối xìn xịt. Và quả thật, những người được Hoàng Trọng Muôn “bình”, nay lại in ra sách nữa, chắc họ không mấy hài lòng, nếu không nói rằng, họ sẽ căm tức, nhảy dựng lên và…
Nếu như tôi, tôi sẽ không “bình”. Dưới đây tôi sẽ nêu những nguyên do không nên “bình”:
Trước hết, cuốn sách in ra chưa ráo mực, thì nghe rằng: Hoàng Trọng Muôn đã bị Hội VHNT Hà Nam xóa tên trong danh sách hội viên. Tôi cũng không rõ là nguyên nhân gì, phải chăng vì cuốn sách trên (?)
Cách đây độ dăm năm, tôi mới hay rằng, ở cấp tỉnh có “cái” hội Văn học nghệ thuật… và lúc đó, tôi rất ngạc nhiên. Có lẽ ở ta có lắm hội hè lắm, đến trăm, nghìn thứ hội. Tôi đơn cử hội: hội Nông dân, hội Phụ nữ, hội Người cao tuổi, hội Người mù, hội Nuôi ong, hội Cây cảnh, hội Chim cảnh,… ngoài ra còn hội đền Bà Chúa Kho, hội đền Phủ Đổng, hội Phủ Giầy,… nghĩa là trăm nghìn hội hè đình đám.
Hội hè không chỉ ở địa phương, mà từng cơ quan cũng thành lập - với dáng dấp hội: Văn phòng thanh niên, văn phòng công đoàn, văn phòng phụ nữ,….
Các dạng “hội” thuộc cơ quan được hưởng tiêu chuẩn (tức là ngân sách Nhà nước rót từ tiền thuế của dân): 1 căn phòng độ 20 m2, một quạt máy, một bộ bàn ghế, một phích nước, một bộ ấm chén, một tờ báo Nhân dân và thêm tờ báo của “hội hè” đó và hội có từ 1 đến ba biên chế (tùy theo cấp độ to nhỏ của cơ quan, để “hội” biên chế đông hay ít). Suốt ngày các “biên chế” trên đến văn phòng để “ngáp”, pha trà và đọc báo Nhân dân cùng tán dóc, hoặc buôn dưa lê. Ngoài ra, hàng năm họ còn hành các đơn vị bằng cách, bắt các đơn vị phải làm báo cáo linh tinh quý, năm về thành tích, về công tác, về kết quả,… và nộp cho họ; rồi đơn vị phải tổ chức đại hội, họ đến dự, lĩnh cái phòng bì và lên phát biểu một bài linh tinh và cùng nhau vỗ tay, để năm sau lại đại hội linh tinh tiếp….
Rất may rằng cấp huyện* và xã, nhà nước không có chủ trương thành lập hội VHNT. Có chăng là mươi năm trước, hội thơ các làng, xã tự phát rộ lên – may là các câu lạc bộ này đều tự nguyện, dân chả phải đóng góp thuế để nuôi: ai thích thì tham gia; ai có thơ thì đến đó đọc, đọc thoải mái; thích nữa thì bỏ tiền ra in, mà phát không cho cả làng, cả họ và toàn thể nhân dân.
Ngày xưa, vua Lê Thánh Tông có lập hội thơ – gọi là Hội Tao đàn. Có thể người ta sợ vua mà phải ra nhập hội. Nhưng chắc chắn rằng, hội viên phải là những nhà thơ hay, vì vua Lê Thánh Tông vốn là người hay chữ. Còn ngày nay, hiện cả nước có 63 tỉnh thành, tạm tính mỗi tỉnh có độ 100 “nhà” tương đương như Hội VHNT Hà Nam – gồm các loại hình nghệ thuật, chứ không phải riêng bộ môn văn, thơ - vậy cả nước có 6,3 nghìn “nhà”, cộng thêm 1.000 “nhà” văn, thơ trung ương, chưa kể độ dăm, mười vạn “nhà” không chuyên. Ôi “nhà” của nước ta đông đảo quá!
Một lần tôi sa vào đám các “nhà” văn, thơ. Chỗ tôi gặp họ ở ngay công viên Thống Nhất, Hà Nội - một quán cóc. Thật kinh khủng, các nhà văn, thơ ta cứ văn thơ phát tiết cả ra mồm; họ oang oang bàn văn thơ giữa đường, giữa chợ và theo như họ phát ngôn, thì đây tuyền là những nhà văn thơ nhớn, siêu cự phách, tác phẩm tuyệt cú mèo và hôm ấy, tôi được họ dúi vào tay phát hành mấy tập thơ, kèm theo là thu tiền ngay tại chỗ, giá thu đến mấy chục nghìn một sản phẩm. Sản phẩm thơ, văn của họ, tại bìa bốn, không thấy đề giá – chắc các “nhà” ngụ ý rằng: thơ văn của họ - vô giá.
Nói về cơ chế quản lý kinh tế một thời của nước ta, thường người ta bây giờ hay phê phán rằng: bao cấp, tập trung, quan liêu. Vậy còn các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp kể trên, có mắc thứ bao cấp, tập trung quan liêu không? Bao cấp là cái chắc. Phải bao cấp, nó mới tồn tại. Bao cấp bằng cách mỗi năm cho nó một tí tiền, nên “hội” sống không ra sống, chết chả ra chết, cứ dật dờ sống.
Lại nói, hiện nay người ta bao cấp cho các ông bà nhà văn, thơ có thẻ. Mỗi tác phẩm văn chương được bao cấp cỡ mười đến hai mươi triệu. Với cơ chế cho này, sẽ có người xin và hiện tượng xin - cho của mô hình kinh tế XHCN vài mươi năm trước, nay lại tái diễn ở khâu, in ấn, sản xuất tác phẩm văn thơ. Và người ta cũng chả quản được khâu chất lượng văn thơ đâu. Thủ tục xin tiền, đại khái như sau: đăng ký đề tài và số trang của tác phẩm, rồi ứng một số phần trăm trước, sau đó độ 1 năm, nộp bản thảo. Thử hỏi lúc đó, nếu “tác phẩm” mà như đơn thuốc, thì Hội có đòi được người viết không?
Trên Trung ương đã có Hội Nhà văn thơ trung ương, dưới tỉnh có Hội Văn học nghệ thuật tỉnh. Như vậy sẽ có hai hạng nhà văn, thơ: hạng tỉnh và hạng quốc gia.
Tiêu chí của nhà văn, thơ tỉnh là gì nhỉ? Chắc chất lượng văn, thơ sẽ thấp hơn, tư tưởng văn, thơ phải non hơn và văn, thơ cũng không được nghệ thuật cho lắm, so với văn thơ hàng quốc gia.
Giả sử như tỉnh Hà Nam chẳng hạn, không có được một nhà thơ, nhà văn đạt tiêu chuẩn cấp tỉnh. Song vì tỉnh có hội VHNT, nên tất nhiên phải lùa những nhà văn, nhà thơ cấp xã, cấp làng vào cho có đủ quân số - đủ lệ bộ. Với cái hội ấy, thì 100 năm, chứ một nghìn năm cũng chả tạo ra được một nhà văn như cụ Nam Cao và tác phẩm Chí phèo.
Thời cụ Nam Cao, có thể do sự cai trị của Pháp, họ chủ trường để dân ta ngu đi, nên không có có hội VHNT tỉnh. Cụ Nam Cao viết bài, truyện, phải gửi lên Hà Nội cho báo đăng. Và Pháp cũng chả thành lập, kết nạp, hay công nhận cụ là nhà văn quốc gia. Thế mà dân ta cứ gọi, cứ tấn phong cụ là nhà văn. Và chưa hết, sau này, hậu sinh còn phong cấp và xếp những truyện trước Cách mạng Tháng tám của cụ vào dòng Văn học hiện thực phê phán (để nó không lẫn vào dòng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa sau này - tức là những “chuyện” ông, bà công nhân tích cực lao động đến ho lao, vì nhà máy; ông, bà nông dân làm đến suy dinh dưỡng vì HTX, để đến độ hôm nay cả nền công nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa và nông nghiệp HTX tan ra gần hết.
Sáng nay ngồi uống cà phê trên căng tin cơ quan, ngó qua ô kính, thấy vườn cây cảnh bên ngoài khung cửa, có nhưng tháp nhỏ trang trí ở các góc lan can vườn, nó là những tháp nhỏ theo kiến trúc Nhật Bản, ta du nhập về. Lại nhìn thấy mấy đèn lồng đỏ treo trên trần nhà. Đó là thứ văn hóa du nhập từ Trung Hoa. Tôi lại nhớ hôm trước có việc xuống Trường cao đẳng Phát thanh và truyền hình Phủ Lý, lúc nghỉ ở khách sạn, tại tiền sảnh có hai bức tượng Thị Nở và anh Chí. Quả thật, nhân vật đó được Nam Cao xây dựng rất thành công, và nó là thứ méo mó của sự xấu. Vậy mà nay nó lại được đúc thành tượng, trang trí. Đã trang trí, thì phải là cái đẹp chứ? Tôi từng đến một số nơi, họ bày nồi đất, chum vại thô mộc và dựng cả những ngôi nhà tranh, vách đất. Đó là biểu tượng của văn hóa Việt Nam ư. Ôi nghĩ mà buồn, tại sao nước Việt ta không có những thứ văn hóa đẹp nhỉ (đã gọi là văn hóa thì đã bao hàm cái đẹp rồi). Cái thứ văn hóa lọ sành, Thị Nở trên, cứ gọi là biểu tượng của văn hóa Việt đi, thử hỏi có quốc gia nào du nhập nó về để trang trí ở nước họ không?
Tôi cứ buồn cười chi tiết Hoàng Trọng Muôn đưa ra trong cuộc thi của HVHN Hà Nam: Giải thưởng Văn học nghệ thuật Nguyễn Khuyến lấn thứ V (2001-2005), gom mãi mới được 6 tác phẩm văn xuôi dự thi và sau đó, cả 6 “cái” đều trúng giải. Nhưng nghĩ “Hội” Hà Nam cũng rách việc, việc gì phải gửi lên tận trung ương nhờ chấm. Có ai dám khẳng định rằng, Hội trung ương đã khách quan, công tâm và trình độ. Vớ phải tay tôi, tôi sẽ lấy cái thúng, cho 6 sản phẩm trên vào đó và xóc lên, rồi cử một ông bịt mắt, thò tay vào bốc, tác phẩm nào bốc trúng đầu tiên, sẽ cho giải nhất, và các sản phẩm sau, theo thứ tự lần bốc, mà trao thứ bậc giải. Vậy là có tiện không, vừa công bằng, công khai, dân chủ, lại nhanh và tiết kiệm - rẻ.
Trở lại việc “bình” văn, thơ của Hoàn Trọng Muôn, theo tôi Muôn không nên “bình”. Hội VHNT tỉnh là thứ phải có theo phong trao, phải bao cấp, và tất nhiên, nếu như vậy sẽ sinh ra những tác phẩm và nhà văn nhà thơ như vậy. Có thể, trong số ấy cũng có những Nhà đạt đúng theo nghĩa Nhà của nó. Muôn cứ thử so sánh, dưới thời cụ Nam Cao và cả nước ta, có mấy Nhà đâu. Số Nhà chỉ đếm trên đầu ngón tay. Cứ lấy con số 100 người làm nghệ thuật của Hà Nam, trong đó có 20 người làm văn, thơ. Thế thì hiện nay, số “nhà” đã gấp 20 lần thời cụ Nam Cao rồi còn gì.
Số lượng đông đảo vậy, sáng tác ra dòng thơ văn bình bình là đúng rồi, làm sao có thể yêu cầu chất lượng cao được. Phải chấp nhận thứ văn thơ phong trào, văn thơ cổ động, văn thơ…Vậy thì việc gì Hoàng Trọng Muôn phải thất vọng về tương lai văn học Hà Nam và việc gì phải “bình”!
Theo tôi , Hoàng Trọng Muôn cứ chọn các tác phẩm hay, đẹp, gai góc của quốc gia mà bình. Chứ thứ thơ văn sành sứ non của tỉnh nhà, thì đừng nên “bình” cho mất công, nhọc sức; bình để người ta ghét cho, lại còn mang tiếng vạch áo cho người xem lưng và cái họa giáng vào thân./.
GC :Cấp huyện cũng có rồi (VCV)