Ông Chung và Bà Thủy cưới nhau khi cùng tốt nghiệp Đại học Sư Phạm, lúc mới 21 tuổi. Tính đến nay là gần 50 năm chung sống. Cả hai ông bà đều sinh năm 1940, tức đều sang tuổi 71, ông đã nghỉ hưu được chục năm, còn bà đã nghỉ được 16 năm. Hai ông bà đều có số may mắn là ra trường đều được dạy học ở Hà Nội, một trường nội thành, từ đó cho tới lúc nghỉ hưu. Cuộc đời hai ông bà bình yên như mặt Hồ Hoàn Kiếm, mặc dù đất nước đầy biến động ngay từ khi hai người sinh ra..
*
Cuộc sống của vợ chồng ông Chung và bà Thủy sắp được 50 năm, nói chính xác thì chỉ còn một tháng nữa. Một tháng nữa là tới ngày kỷ niệm 50 năm ngày cưới, theo tục lệ có tính chất toàn cầu thì hai người vợ chồng mà chung sống tới 50 năm thì sẽ làm Đám Cưới Vàng. Hai ông bà chưa kịp bàn bạc với nhau sẽ làm Đám Cưới Vàng như thế nào thì mấy đứa con cháu đã gọi điện về tranh nhau giành chức “đăng cai” Đám Cưới Vàng này!
Ông bà nhớ lại, cách đây 25 năm, hai người đã tổ chức Đám Cưới Bạc thật là vui! Rồi cứ theo thời gian, 30 năm làm Đám Cưới Ngọc Trai, 35 năm làm Đám Cưới Cẩm Thạch, 40 năm làm Đám Cưới Hồng Ngọc, 45 năm làm Đám Cưới Lam Ngọc, và bây giờ thì sắp 50 năm, làm Đám Cưới Vàng! Không biết còn hai đám cưới Ngọc Bích (55 năm) và Kim Cương (60 năm) sẽ như thế nào? Tuy chưa “duyệt” xong kế hoạch làm Đám Cưới Vàng, nhưng bà Thủy cũng muốn hình dung xem Đám Cưới Kim Cương , tức lễ kỷ niệm 60 năm ngày cưới, vào mười năm nữa, sẽ phải được tổ chức như thế nào? Song, khi hỏi ông Chung thì ông chỉ nói, để làm xong Đám Cưới Vàng sẽ bàn tiếp!
Ông Chung và bà Thủy cưới nhau lúc 21 tuổi thì bốn năm sau, hai người đã có với nhau bốn đứa con, năm một, hai con gái đầu, hai con trai sau. Tính đến nay, bốn người con của hai ông bà đã gần 50 tuổi và đều thành đạt về đường học hành cũng như về kinh tế ( cả bốn người đều có bằng Tiến sĩ Khoa học và giữ những chức vụ đứng đầu cấp Cục, Vụ, Viện). Vì thế, các con cái đều có gia đình riêng và ở riêng, không ai ở chung với bố mẹ, đó là cách xử lý khoa học nhất của những người “nhìn xa trông rộng”, tránh được những sự đụng độ, cãi vã không đáng có: nếu ngày nào cũng ra đụng vào chạm thì nó sẽ xảy ra thường xuyên, như cơm bữa! Và với hai ông bà, nếu tinh ý thì sẽ thấy hai người tuy ở chung một nhà nhưng không hề “chung chăn gối”mà “hồn ai nấy giữ”, tức giường ai nấy nằm! Lý do của cái sự “chia cắt” này là ngay từ khi có đứa con đầu tiên, ông Chung không bao giờ chịu “nằm yên” dù vợ bụng mang dạ chửa hoặc thậm chí đang cho con bú! Vì thế, chỉ khi nào bà Thủy “bật đèn xanh” thì ông Chung mới được “hành sự”!
*
Trong tất cả các chuyện có liên quan tới hai người từ hồi họ quen nhau và chính thức yêu nhau (năm thứ nhất Đại học) thì bà Thủy bao giờ cũng là người mở đầu, dẫn dắt và kết luận câu chuyện! Lần này cũng không ngoại lệ, mặc dù ông Chung đã hơn một lần thề rằng sẽ không để bà Thủy “sỏ mũi” nữa!
Khi ông Chung nghĩ rằng còn những 30 ngày nữa, chưa việc gì phải vội, thì nhận được “điện thoại nội bộ” cần gặp bà Thủy ngay để bàn chuyện ngày Đám Cưới Vàng! Nhận được điện thoại, ông Chung trả lời ngay: “Để tôi thảo trước cái bản dự kiến tổ chức lễ cưới Vàng rồi mang qua cho bà xem bổ sung, như thế sẽ nhanh hơn!”. Bà Thủy nói ngay: “Không được! Ông làm thế sẽ mất công vô ích mà thôi! Phải ngồi bên cạnh tôi, ông nêu ý nào thì tôi sẽ bổ sung hoặc lược bỏ ngay có phải nhanh hơn không?”. Ông Chung nghĩ, như thế thì lại “Vũ như Cẩn” rồi, bà ấy lại dắt dẫn từ đầu chí cuối, ta khác chi thư ký riêng của bà ấy? Nghĩ thế, nhưng ông Chung vẫn qua phòng bà Thủy để cùng soạn thảo kế hoạch cho ngày Đám Cưới Vàng, bởi theo như kinh nghiệm của ông, mấy chục năm nay, cứ để cho bà ấy thắng thế trên giấy, còn “trên giường” thì bà ấy “lưng chạm đất” là điều không thể tránh khỏi!
Cũng như bao lần khác, việc soạn thảo bản kế hoạch tổ chức Đám Cưới Vàng không thể hoàn tất trong một buổi thảo luận rất gay cấn! May mà hai cô con gái lớn có việc tạt về nhà nếu không thì sự tranh luận của hai ông bà sẽ vượt quá tính chất “khắc khẩu” thường thấy bởi cả hai người đã dùng đến những từ có tính chất “hạ nhục”, “miệt thị” đối phương: bà thì bảo ông “dốt như bò”, thời đi học không nhờ bà làm bài giúp bằng mọi cách thì đã bị lưu ban hoặc đuổi học từ lâu, còn ông thì nói nếu bà không có “tình ý” với mấy ông thầy thì điểm của bà không thể cao nhất lớp như thế, chính ông là người đã nói chuyện này trước cả lớp và kết thúc bằng câu thơ: Thân này ví thử làm gái được / Thì điểm bài thi há bấy nhiêu!
Có lẽ đây là lần “khẩu chiến” lớn nhất giữa hai vợ chồng ông Chung bà Thủy, bởi bà đã chạm vào “gót chân A-sin” của ông mà ông luôn phải che đậy, giấu diếm suốt cả thời đi học của ông; còn bà thì không thể tha thứ cho ông được bởi ông đã chạm vào chỗ “thâm cung bí sử” của cuộc đời người con gái của bà: chắc là ông chỉ “đoán mò” nhưng ông đã nói đúng cái sự thật khiến bà đau đớn ê chề: bà đã dâng hiến trọn vẹn cái quý giá nhất của người con gái cho ông thầy Chủ nhiệm không phải chỉ để lấy điểm cao nhất lớp mà còn vì ông thầy hứa sẽ cưới cô học trò có thân hình rất quyến rũ là bà, nhưng sau khi “con ong đã tỏ đường đi lối về” hơn con số nhiều ba lần thì ông thầy bỗng… đổi ý! Việc bà đồng ý cưới ông Chung ngay khi còn là sinh viên thực ra là để che lấp đi phần nào sự “mất mát” quá lớn đó của người con gái, và nó cũng phù hợp với nguyên tắc lấy chồng mà mẹ bà đã truyền lại: lấy người yêu mình chứ không lấy người mình yêu! Vì thế, khi nghe ông Chung khơi lại chuyện này, bà có cảm giác như bao nỗi oán hận mà bà chưa trả được cho ông thầy “hứa hão” bà sẽ trút hết cả lên đầu cái anh chàng “dốt như bò” này!
*
Tuy nhiên, hai ngày sau, bà Thủy lại thấy việc bà nổi cáu với ông Chung, xỉ vả ông là “dốt như bò” thật là vô lý, thật là quá nông nổi! Bởi nếu ông ta là một con bò dốt nát, ngốc nghếch thì “phu nhân” của con bò ấy còn ngốc nghếch tới đâu? Đúng là “xấu chàng hổ ai”, lời người xưa thật sâu sắc làm sao! Vì thế, bà liền gọi điện thoại cho ông bằng giọng điệu rất vui vẻ, có phần ấm áp và tình cảm, mời ông tới bàn chuyện Đám Cưới Vàng!
Khi nhận được điện thoại của bà Thủy, ông Chung nghĩ bụng: Giá như còn sung sức như ngày xưa, ông sẽ tới ngay và “vừa xin lỗi vừa bắt đền”, thế nào cũng có hiệu quả cao! Nhưng bây giờ thì “Cái tiếng quan trọng hơn cái miếng”, nên ông nói ngay: “Tôi cũng đang soạn thảo bản kế hoạch cho Đám Cưới Vàng đây, sắp xong rồi, mười phút nữa tôi mang qua ngay cho bà duyệt!”. Nói là nói vậy, chứ bây giờ ông mới lấy giấy bút ra gạch đầu dòng một, hai, ba… Dù sao thì bà Thủy vẫn là người chủ động, bà chủ động “hòa giải” và bà sẽ chủ động dắt ông vào cõi thần tiên của… tình già! Nghĩ thế, bà Thủy yên tâm ngồi đợi, bà mỉm cười về cái sự trẻ con của cả hai mỗi khi xảy ra những đụng độ nảy lửa toàn những chuyện không hề trẻ con! Bà ngồi đợi được ba phút thì “cái ngủ” ào đến như gió thoảng, đưa bà vào những giấc mơ ban ngày tuy ngắn ngủi nhưng thật là đẹp!
*
Ngày đầu tiên đến lớp, cô gái nhà quê Thu Thủy chưa hề quen ai, nên ngồi thu lu ở cái bàn cuối lớp. Cô đang ngồi mê mải nhìn những bạn gái cùng lớp, người ở các thành phố lớn, thì ai cũng ăn mặc thật là đẹp và nói năng thì cứ như phát thanh viên trên tivi! Không hiểu tại sao họ lại biết nhiều chuyện như thế, cổ kim Đông Tây, trên rừng dưới biển cứ nói vanh vách! Có lẽ là tại ngôi trường mà họ theo học thật là hiện đại, không thiếu thứ gì, từ những giá sách khổng lồ trong thư viện cho đến những vật dụng đắt tiền trong phòng thí nghiệm! Chẳng như ngôi trường phố huyện của mình nghèo nàn và xơ xác!...Cô gái nhà quê trường huyện Thu Thủy đang mơ màng suy tưởng: “Giá như mình được học ở những ngôi trường “giàu đẹp” như thế thì cuộc đời sẽ có một Thu Thủy khác hẳn, chứ không phải là một cô gái đen nhẻm như cô bé Lọ Lem, quần áo thì quê mùa cũn cỡn, chân lại đi dép lốp đen xì và to đùng nữa chứ!...”, thì chàng trai con nhà quan là “Cậu Ấm” Bá Chung tới ngồi sát bên cạnh, và khi ngồi xuống ghế, Bá Chung cố tình ngả người đè lên Thu Thủy khiến cho cô gái quê bối rối vô cùng! Và chính là lúc bốn con mắt “chạm nhau” thì cô gái nhìn thấy một “Chàng Ngốc” và anh chàng con nhà quan thì như đứng trước… “Biển ái tình”!
Quan hệ vợ chồng của ông Chung bà Thủy sở dĩ có tính bền vững cao không phải bởi họ là một đôi thanh mai trúc mã, trai tài gái sắc, hoặc đại loại là như thể “Trời sinh một cặp” mà là bởi bà Thủy biết cách ban phát tình cảm của mình đúng mức độ, đúng liều lượng, biết “nuôi cơm” vừa cho ông “đủ no”, nhưng phải có một chút “thòm thèm” mà mơ tưởng, chờ đợi tới “bữa sau” chứ không hề có chuyện ăn no căng rốn, hoặc phè phỡn, chán chê tới mức muốn ói mửa như thằng say rượu hoặc “chán cơm” mà toàn lén đi “ăn phở”!... Khi thấy người ta thường “nâng chén tình dốc cạn” bà Thủy cười thầm: “Chén tình của ta cho ông ấy uống phải được pha chế như ly “cốc-tai” sành điệu, ngon mà không thể say, muốn uống nữa mà không thể uống!”…Cũng có lúc bà Thủy chợt nghĩ, sao ta lại có thể sống mãi với một anh chàng Ngốc như thế? Song bà Thủy lại tự trả lời ngay: Dù sao thì cái anh chàng Ngốc này cũng không có nhược điểm hay bệnh tật gì, thậm chí là một người đàn ông rất chuẩn về mọi mặt! Đặc biệt là anh ta rất sạch, rất hợp với cách sống hay còn gọi là nếp sống của bà Thủy. Là con của hai bác sĩ (cả bố và mẹ của bà Thủy đều là bác sĩ của bệnh viện Huyện), bà Thủy có cách sống rất sạch sẽ và đặc biệt rất sợ vi trùng, bệnh tật. Năm nào bà cũng kiểm tra sức khỏe tổng quát cả nhà và nhờ trời, không ai có một chút dấu hiệu nào của bệnh tật! Đó có lẽ là lý do chính khiến cho đôi vợ chồng Bá Chung và Thu Thủy sống với nhau lâu bền như thế!
Bà Thủy bỗng nhớ lại hồi làm Đám Cưới Bạc, tức kỷ niệm 25 năm ngày cưới, hai vợ chồng đã cãi nhau kịch liệt chỉ vì toàn những chuyện không đâu thì bỗng ông Chung lôi từ trong gầm tủ ra một đôi dép lốp cao su, rồi lau chùi, rồi lấy bao ni-lon bọc gói kỹ càng, rồi ngồi ôm đôi dép mà ngâm nga, như là đọc thơ mà cũng như là đọc kinh: “Mỗi khi nhìn em bước đi nhún nhảy / Trên đôi giày cao gót mô đen / Tôi lại luôn tự hỏi / Đôi dép cao su quai to của em / Có còn làm cho con tim tôi thổn thức?”. Bà Thủy bỗng vụt nhớ lại tất cả: chính là cái đôi dép cao su bằng lốp xe ô tô kia đã đưa bà đến trường Đại học, để gặp anh chàng Chung cho đến hôm nay. Khi làm đám cưới, bà Thủy định quẳng đôi dép cao su kia đi khi vào tiệm mua đôi giày cao gót, thì ông Chung đã gói lại mà nói: “Đây là hình ảnh đầu tiên của em mà anh đã nhìn thấy, rất ấn tượng! Chính là hình ảnh này đã khiến tim anh loạn nhịp và chỉ muốn ôm chặt lấy em!”. Sau này, bà có hỏi lại ông tại sao nhìn đôi dép cao su thô kệch đen xì mà ông lại có cảm xúc yêu đương mạnh mẽ như thế thì ông nói: “Nhìn đôi dép cao su của em là bị sự tò mò cuốn hút: không biết bên trên tám mươi phân đôi dép cao su đen xì kia có “đen xì” như thế không? Thế là muốn…”. Lập tức bà Thủy mắng: “Muốn cái con khỉ!”…
*
Một tuần lễ đã trôi qua mà cuộc thảo luận về tổ chức Đám cưới Vàng như thế nào vẫn chưa đi đến một ý hướng cụ thể nào chứ đừng nói là sẽ được triển khai từng bước như thế nào!
Hai tuần lễ trôi qua, “Hội nghị hai bên” vẫn không tiến triển thêm được chút nào bởi hai người vẫn chưa thống nhất được phương thức làm việc: Ông Chung thì muốn rằng để ông thảo trước bản nội dung của chương trình các bước triển khai trong ngày Đám Cưới Vàng, rồi đưa cho bà Thủy xem có thêm bớt gì thì thêm bớt, và phải chú ý là chỉ thêm chứ không bớt; nhưng bà Thủy thì vẫn muốn làm theo cách cũ, tức là cùng trao đổi ngay từng nội dung và khi bà duyệt thì ông mới ghi thành văn bản! Đây là cách mà ông Chung nói rằng ông chỉ là thư ký còn bà Thủy dắt dẫn mọi chuyện từ đầu đến cuối!
Khi “Hội nghị hai bên” không có kết quả thì phải thay đổi hình thức, đó là “Hội nghị ba bên”, hoặc “Hội nghị bốn bên”, tức hai cô con gái lớn sẽ tham gia. Lúc đầu, bà Thủy đồng ý cho cô con gái lớn tham gia vì Đám Cưới Vàng này liên quan tới sự ra đời của nó, tức chỉ sau Đêm Tân hôn chín tháng mười ngày thì nó ra đời. Hai ông bà cưới đầu năm, cuối năm sinh con, nếu tính năm thì năm sinh của cô con gái đầu cũng trùng với năm Đám Cưới Vàng, tức 50 năm, - cô con gái đầu 50 tuổi. Song, “Hội nghị ba bên” mới qua một ngày thì bà Thủy thấy có chuyện bất ổn: cô con gái đầu và ông bố có vẻ như cùng một phe cánh, cho nên ý kiến của bà Thủy luôn bị thiểu
số và bị bác bỏ! Vì thế, bà Thủy quyết định phải tổ chức “Hội nghị bốn bên”, tức cho cô con gái thứ hai tham gia, để tạo thế quân bình!
Tuy nhiên, “Hội nghị bốn bên” cũng không cải thiện được tình hình là bao: ba tuần lễ trôi qua mà mới chỉ thống nhất được một nội dung: Đám Cưới Vàng sẽ được tổ chức ở Khách sạn 5 Sao và kéo dài từ 8 giờ sáng đến 8 giờ tối, tức 20 giờ!
Ông Chung bỗng nhớ lại ngày làm Đám Cưới Ngọc Trai, tức kỷ niệm 30 năm ngày cưới, bà Thủy nhận được một món quà rất đặc biệt là một vòng Ngọc Trai gồm 30 viên. Điều khiến cho mọi người nghĩ mãi không ra là : ai là người đã tặng bà Thủy vòng Ngọc Trai quý giá đó? Nếu không phải là mối tình đầu chất đầy kỷ niệm thời tuổi trẻ thì cũng là “Tình vụng trộm” âm thầm mà mãnh liệt khoảng chục năm nay, bởi đó là thời gian người đàn bà chia tay với tuổi thanh xuân để bước sang tuổi già, cho nên thường có một thời kỳ “Hồi xuân” rất mạnh mẽ! Mọi người đều cho rằng người tặng vòng Ngọc trai có lẽ đã vĩnh viễn ra đi đến một nơi rất xa và không thể trở lại, nhưng ông Chung thì lại cho rằng kẻ yêu thầm nhớ trộm đó, mà ông gọi đích danh là “Kẻ trộm ái tình”, - hình như ở rất gần đâu đây? Cho nên, mỗi khi bà Thủy đeo vòng Ngọc Trai đi đâu thì ông lại âm thầm bám đuôi, bởi ông cho rằng kẻ tặng vòng Ngọc Trai nhất định sẽ xuất hiện để ngắm nhìn tác phẩm của mình trên cổ, trên ngực bà Thủy! Thấy ông bố mình vất vả làm Thám tử suốt hai năm trời, hai cô con gái mới tiết lộ với bố rằng vòng Ngọc Trai quý giá đó là do hai chị em góp tiền lại mua tặng mẹ, nhưng muốn cho món quà thêm phần “bí hiểm” nên “sáng tác” ra người tặng quà giấu mặt mà thôi! Tuy nhiên, ba ngày sau ông Chung lại không tin vào lời giải thích của hai cô con gái bởi ông nghĩ, chắc hai cô con gái sợ ông khám phá ra điều bí mật của người mẹ nên đã “hư cấu” ra những lời giải thích đó. Và, ông Chung lại tiếp tục âm thầm làm Thám tử!
*
Cuối cùng thì ngày làm lễ Đám Cưới Vàng cũng tới. Tuy “Hội nghị bốn bên” chỉ mới thông qua một nội dung là ngày, giờ và địa điểm, nhưng đó là vấn đề số một, đầu xuôi thì đuôi lọt, mọi việc sẽ đâu vào đấy, sẽ thuận theo quy luật tự nhiên. Tức mấy người con, cả dâu và rể của ông Chung và bà Thủy đều thống nhất hành động: cứ phát giấy mời (hoặc nhắn tin, đăng báo,v.v…) theo đúng thời gian và địa điểm, khi ấy sẽ “tùy cơ ứng biến”, đó mới là một Đám Cưới Vàng ý nghĩa nhất và độc đáo nhất!
Quả nhiên đúng như dự đoán của Ban Tổ chức (mấy người con, cả dâu rể của ông Chung bà Thủy), số người đến mừng Đám Cưới Vàng của ông Chung bà Thủy nhiều gấp ba lần con số dự đoán. Thực ra thì khách đều là những người già yếu nên thường có hai, ba người đi theo hộ tống. Số quà tặng và phong bì cũng nhiều vô kể. Vì nơi tiếp khách là hội trường của khách sạn 5 Sao nên cần đồ ăn, thức uống gì cũng có, đó gọi là “Tiệc mở” – tức ăn uống đều theo yêu cầu của thực khách! Đặc biệt nhất là Diễn đàn không lúc nào ngưng lời phát biểu, chúc mừng của khách khứa, bạn hữu! Đáng chú ý là, hầu hết đều kết thúc bằng việc đọc tặng cô dâu và chú rể bài thơ Tình già của Phan Khôi:
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai mái đầu xanh kề nhau than thở:
-“Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn là không đặng;
Ðể đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!”
-“Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng, mà tính việc thủy chung?
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ nơi đất khách gặp nhau;
Ðôi mái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi!...
Sài Gòn, tháng 4-2010