Tìm hiểu lý thuyết tiếp nhận văn chương hiện đại, cố nhiên phải tiếp cận với một trong những khái niệm then chốt là tầm đón nhận (erwahrtungshorizont) mà có người dịch là tầm đón đợi, chân trời đón đợi, hay tầm kỳ vọng. Đây là thuật ngữ được nhà Mỹ học tiếp nhận người Đức H. Jauss tiếp thu từ K. Mannheim trong cuốn sách được nhà nghiên cứu này công bố vào năm 1958. Nhưng phải thấy là H. Jauss đã phát triển và mở rộng thêm nhiều.
1. Cách hiểu khái niệm “tầm đón nhận”
Như nhiều người đã biết, cùng với W. Iser, H. Jauss là một trong những tên tuổi nổi bật nhất của Trường phái mỹ học tiếp nhận Konstanz. Khái niệm tầm đón nhận được ông xem là một trong những khái niệm nền tảng cho học thuyết của mình hiện tồn tại nhiều cách giải thích và cách hiểu có phần khác nhau. Nhà nghiên cứu Phương Lựu giảng giải: “… Ông (H. Jauss) sử dụng với hàm nghĩa là những nhu cầu và trình độ thưởng thức kết tinh từ kinh nghiệm sống, hứng thú, lý tưởng của mỗi một người đọc” (1, tr.545). Trong khi nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân lại viết: “Khái niệm công cụ cơ bản của Jauss là khái niệm “tầm đón nhận” của công chúng độc giả, tức là trình độ kiến thức văn hóa – văn học của công chúng” (2, tr.56). Có lần, ông đã dẫn ý kiến giải thích khái niệm “tầm đón nhận” của H. Jauss như sau: Nó bao gồm “một tập hợp các quy chuẩn thẩm mỹ có thể tái lập được của một công chúng văn học xác định, nó có thể và cần phải điều chỉnh được về mặt xã hội học tùy theo những khuynh hướng đặc thù của các tập đoàn, tầng lớp hoặc giai cấp khác nhau và có thể đối chiếu được với những quyền lợi và nhu cầu của tình trạng lịch sử và kinh tế chi phối chúng” (3, tr.145). Riêng nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Hùng thì hiểu: “Tầm đón nhận bao gồm cả những hiểu biết về các hình thức biểu hiện văn học khác nhau, những kinh nghiệm nghệ thuật được lưu truyền và những tri thức khác có liên quan đến văn học để một lúc nào đó những trữ lượng sẽ biến thành hiện thực tinh thần khi người đọc gặp những tác phẩm tương ứng. Tầm đón nhận của bạn đọc bao gồm cả những khát vọng về đạo đức và nhất là tư tưởng nghệ thuật, lý tưởng và hành động thẩm mỹ, đôi lúc nó tác động trở lại tác giả để quy định trước ý nghĩa của văn bản tác phẩm tương lai” (4, tr.114). Cần phân biệt thực chất quan niệm của H. Jauss với những cách hiểu phái sinh có cơ sở của những người vận dụng khái niệm tầm đón nhận từ ông. Nguyễn Thanh Hùng đi theo hướng này. Ta có thể chia sẻ được với cách hiểu của ông là vì thế. Nhưng nếu giải thích quan niệm của H. Jauss như hai trường hợp Phương Lựu và Nguyễn Văn Dân thì lại phải bám sát nguyên nghĩa những câu chữ mà ông đã sử dụng.
Khái niệm tầm đón nhận được H. Jauss trình bầy khá rõ ràng và cụ thể trong công trình nổi tiếng Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học ra đời năm 1970 (5). Khi nâng thành khái niệm khoa học, H. Jauss buộc phải “khách quan hóa tầm đón đợi”, nhằm xác định nghĩa ổn định cho khái niệm, và viết: “…Cái hệ thống ra đời trong giây phút lịch sử mà bất kỳ tác phẩm nào xuất hiện, và được xây từ hiểu biết trước đây về thể loại, từ hình thức và đề tài của những tác phẩm có trước, và từ sự đối lập của ngôn ngữ nhà thơ và ngôn ngữ thông thường” (6, tr.87 - 88). Cuối chương 6 của công trình khoa học nói trên, ông diễn giải cụ thể thêm: “Nhưng khách quan hóa tầm đón đợi… có thể xác nhận nhờ ba yếu tố…: Đầu tiên là từ những chuẩn mực đã quen thuộc hoặc từ thi pháp nội tại của thể loại; thứ hai là từ mối quan hệ ẩn kín đối với những tác phẩm quen thuộc của môi trường văn học, thứ ba là từ mâu thuẫn giữa hư cấu và hiện thực, chức năng thi pháp và thực tiễn của ngôn ngữ mà người đọc nhạy cảm thường xuyên có khả năng so sánh”(6, tr.90). Vậy là nghĩa của khái niệm tầm đón nhận được H. Jauss xác định rất rõ ràng, đó là trình độ và kinh nghiệm văn chương có trước của mỗi người đọc khi tiếp xúc với tác phẩm, bao gồm 3 bộ phận hợp thành: một là quan niệm về thể loại; hai là quan niệm về hình thức và đề tài; và ba là quan niệm về đặc trưng văn chương ở sự phân biệt giữa hư cấu và thực tế, giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ toàn dân. Nếu đối chiếu với yêu cầu giải thích chứ không phải là vận dụng khái niệm tầm đón nhận của H. Jauss thì có thể thấy cách hiểu của Phương Lựu có lẽ hơi rộng, còn cách hiểu của Nguyễn Văn Dân lại có phần hơi chung chung, mặc dầu cả hai cách giải thích đó đều ít nhiều xuất phát từ nguyên nghĩa và có căn cứ thực tế.
Thật ra, trong cuốn giáo trình lý luận văn chương mới nhất của Đại học Sư phạm Hà Nội in năm 2002, Phương Lựu có vận dụng và triển khai thêm ý nghĩa của thuật ngữ tầm đón nhận như là một trong những yếu tố khởi điểm của tiếp nhận văn chương. Ông cho rằng khái niệm quen thuộc này gồm nhiều nhân tố hợp thành. “Trước hết – Ông viết - là do thực tiễn sống và giáo dưỡng văn hóa, đã hình thành nên ở người đọc từ thế giới quan đến nhân sinh quan, từ thái độ chính trị đến khuynh hướng tình cảm và hứng thú thẩm mỹ. Rồi nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính… Và cũng như trong sáng tác, vai trò của cá tính cũng rất to lớn trong việc hình thành tầm đón nhận của người đọc”. Ông yêu cầu phân biệt tầm đón nhận của của cá nhân với tầm đón nhận của tập thể được hiểu như “tiêu biểu cho một lớp người, một thế hệ, một lực lượng xã hội”. Ông đồng thời nêu ra những biểu hiện cụ thể của tầm đón nhận ở ý nghĩa, ý tưởng và văn loại trước khi người đọc đến với một tác phẩm văn chương nào đó. Chưa hết, ông còn cho rằng: “Thật ra, câu chuyện về tầm đón, dựa trên kinh nghiệm và thể nghiệm vốn có này, còn biểu hiện ở nhiều lĩnh vực cụ thể và tế vi khác như về phong cách, một bút danh, một tiêu đề, một lời đề từ, thậm chí cả việc trang hoàng ngoài bìa… Tất cả những thứ vô tình hay hữu dạng này, có khi rất bâng quơ, nhưng cũng ít nhiều làm nên cuộc “đối thoại” giữa những suy nghĩ ban đầu của bạn đọc với nội dung được triển khai theo hình tuyến của văn bản tác phẩm” (1, từ tr.349 đến tr.351). Có thể thấy sự vận dụng khái niệm tầm đón nhận từ H. Jauss của Phương Lựu là khá khoáng đạt mà cũng rất khó phản bác. Nhưng, xin được nhắc lại, đấy là theo xu hướng vận dụng chứ tuyệt nhiên không phải theo xu hướng giải thích quan niệm về tầm đón nhận của nhà mỹ học người Đức.
Gần đây, bài Những giới hạn tiếp nhận "Bà Bovary" ở Việt Nam - Qua trường hợp các bản dịch của Phùng Ngọc Kiên đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 4 - 2007 có đưa ra sự giải thích khái niệm erwahrtungshorizont một cách rất khác: giới hạn tiếp nhận. Căn cứ để tác giả bài viết đưa ra cách hiểu của mình không từ tác phẩm Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học mà từ tác phẩm được dịch qua tiếng Pháp Vì một công việc chú giải văn học của H. Jauss. Ông biện luận: “Căn cứ vào những phân tích này và cách hiểu đối với khái niệm của H. Jauss, chúng tôi xin phép được diễn đạt chữ horizon d’attente (tiếng Pháp) như là giới hạn tiếp nhận thay cho cách diễn đạt được dịch sát nghĩa từng chữ nhưng có phần mơ hồ thường gặp là chân trời chờ đợi hay tầm đón đợi. Bởi vì cách dịch nguyên văn này sang tiếng Việt dường như là thể hiện “chủ ý ban đầu” của tác giả đối với người đọc thông qua văn bản, còn H. Jaus và các nhà phê bình tiếp nhận muốn coi việc cắt nghĩa văn bản như là quyền cá nhân người đọc đứng trước văn bản”. Qua bài viết này ta còn được tiếp cận với một cách hiểu “tóm tắt ý của H. Jauss” khác nữa về khái niệm tầm tiếp nhận của Compagnon, đó là “toàn bộ các quy ước tạo thành năng lực (compétence) của một người đọc (hay của một lớp người đọc) tại một thời điểm lịch sử nhất định, hệ thống chuẩn mực xác định một thế hệ lịch sử”.
Như vậy, xuất phát điểm của Phùng Ngọc Kiên có khác nhiều người. Đó là “một định nghĩa mở của Hans Robert Jauss nhân bàn đến ngành chú giải văn chương (herméneutique) có thể gợi ý nhiều điều nhân bàn đến chuyện tiếp nhận”. Cụ thể, tác giả tóm lược quan niệm của H. Jauss như sau: “Khái niệm giới hạn tiếp nhận đã trở thành một phạm trù căn bản của ngành giải thích học trong triết học, văn học và lịch sử: với tư cách vấn đề của cách hiểu về sự khác nhau khi đối diện với cái khác biệt của các giới hạn kinh nghiệm quá khứ, hiện tại, cũng như đối diện trước sự khác biệt của thế giới ta và thế giới nó; với tư cách vấn đề về kinh nghiệm mỹ học vào thời điểm xây dựng lại giới hạn tiếp nhận mà việc đọc một tác phẩm văn chương làm nó xuất hiện ở người đọc hiện tại cũng như ở người đọc hậu thế; với tư cách vấn đề liên văn bản đối diện với mối quan tâm tới chức năng các văn bản khác, những văn bản này cũng hiện diện trong giới hạn của một tác phẩm văn chương và nhận được một ý nghĩa mới nhờ sự chuyển tiếp này; với tư cách vấn đề chức năng xã hội của văn chương khi diễn ra sự trao đổi giữa các giới hạn của kinh nghiệm mỹ học và của kinh nghiệm về thế giới được trải nghiệm; với tư cách vấn đề thay đổi giới hạn khi khái niệm về truyền thống, dù là theo lối mục đích hay lối tiến hóa, đánh mất bản chất của mình và các tiến trình lịch sử buộc phải, tất nhiên cả trong nghệ thuật, gắn bó với một quan hệ biện chứng giữa đồng hóa và tiếp nhận, giữa thường trực và mới mẻ; với tư cách vấn đề phê bình hệ tư tưởng khi đó là soi sáng giới hạn ngầm của các mối quan tâm ẩn giấu và những nhu cầu bị đè nén giờ đây làm cho niềm tin của con người trong sự trong suốt của thông tin nghệ thuật tỏ ra phụ thuộc vào việc cảnh báo”. Nghĩa của khái niệm tầm đón nhận ở đây được chính H. Jauss đào sâu và mở rộng khá là uyển chuyển và khoáng đạt.
Cũng dễ hiểu là tại sao Phùng Ngọc Kiên lại dẫn thêm lời của U. Eco dưới ánh sáng của thông diễn học hiện đại để làm sáng tỏ ý kiến của H. Jauss: “Quan điểm của U. Eco về người đọc mẫu (lecteur modèle) bổ sung rất tốt cho quan điểm này từ góc nhìn của vấn đề diễn giải văn bản. Mỗi văn bản đều có một người đọc mẫu. Người đọc mẫu này có thể hiện diện trực tiếp hay gián tiếp, nhưng chắc chắn sẽ chi phối đến người tạo ra văn bản”. Tác giả bài viết còn gắn kết ý kiến của H. Jauss với H. Gadames: “H. Robert-Jauss trong Vì một công việc nghiên cứu giải thích văn học nhắc lại ý kiến của Gadamer cho rằng “việc hiểu luôn bao gồm việc bắt đầu một cách diễn giải và diễn giải do vậy là hình thức dễ thấy của việc hiểu cũng như ý kiến cho rằng tiến trình hiểu luôn hiện thực hóa cái gì đó giống như việc áp dụng của văn bản vào tình huống hiện tại của việc diễn giải”. H. Jauss nói thêm rằng về mặt từ nguyên, thì bản thân chữ hermeneutics trong tiếng Hy Lạp cổ có ba nghĩa “diễn đạt, giải thích và dịch”. Rồi còn cả ý kiến của nhà thông diễn học hiện đại danh tiếng khác nữa là M. Heidegger: “Bản thân mọi công việc dịch là một quá trình diễn giải [...]. Tuân theo bản chất của chúng, diễn giải và dịch chỉ là một”. Cố nhiên đích đi tới của người viết là việc minh họa cho khái niệm người đọc mẫu. Do vậy, cuối cùng, tác giả rút ra: “Người dịch - với tư cách người đọc mẫu - sẽ phải là người tiếp nhận được tối đa những ý tưởng của người viết để truyền đạt lại. Nói cách khác, đó chính là người đọc mẫu của văn bản gốc trong khung cảnh văn hóa dịch”.
2. Những khái niệm liên đới và sự vận dụng chúng
Từ khái niệm tầm đón nhận tất nảy sinh ra một loạt khái niệm phái sinh có quan hệ mật thiết với nhau. Đáng chú ý nhất là khái niệm khoảng cách thẩm mỹ (asthetischedistanz), như là sự khác biệt giữa tầm đón nhận của tác giả (qua tác phẩm) với tầm đón nhận của người đọc, và khái niệm đồng nhất thẩm mỹ (asthetischeidentifikation), như là sự bắt gặp giữa tầm đón nhận của tác giả (qua tác phẩm) với tầm đón nhận của người đọc. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Hùng có lý khi phân biệt khái niệm đầu với khái niệm khoảng cách tiếp nhận (rezeptionsdistanz) và khái niệm sau với khái niệm đồng nhất tiếp nhận (rezeptionsidentifikation) nhằm cho các thuật ngữ được sử dụng trong nghiên cứu văn chương có điều kiện “rõ rệt hơn”, nghĩa là xác định và phù hợp hơn (4, tr.112).
Trong thực tế vận dụng, có nhà nghiên cứu chú trọng mặt khoảng cách trong tiếp nhận. Như Đỗ Lai Thúy. Ông viết trong cảm hứng tán dương như sau: “Nếu văn bản chỉ chứa đựng lớp nghĩa gọi là nghĩa tồn tại thì người đọc trong quá trình tiếp xúc với tác phẩm làm nảy sinh lớp nghĩa thứ hai là nghĩa kiến tạo… Nói người đọc hiện đại là người đọc tích cực, người đọc sáng tạo là vì vậy”. Ngay sau đó, đi xa hơn, ông nhấn mạnh: “Nếu cách đọc ở người đọc cổ điển là tuyến tính thì ở người đọc hiện đại là phi tuyến tính. Tức biến một tác phẩm văn chương vốn có lý lịch xuất thân là nghệ thuật thời gian trở thành nghệ thuật không gian”, nghĩa là tạo ra nghĩa mới của văn bản, người đọc ở đây không đơn thuần là người thuật chuỵên, mà còn là người làm chuyện (7, tr.144 & 145). Có nhà nghiên cứu lại nhấn mạnh mặt đồng nhất trong tiếp nhận. Như Nguyễn Thanh Hùng. Ông cho rằng: “Lý thuyết tiếp nhận luôn đặt vấn đề khuyến khích sự đồng nhất thẩm mỹ trong đông đảo bạn đọc” (4, tr.113). Ông còn tỏ ý mong mỏi: “Theo chiều dài thời gian đi tới tương lai của quá trình tiếp nhận thì những khoảng cách thẩm mỹ sẽ được thu hẹp lại và sự đồng nhất thẩm mỹ sẽ được mở rộng hơn để tiếp nhận văn học thực sự là sự tiếp nhận một đối tượng thẩm mỹ chứ không phải sự tiếp nhận chủ thể tiếp nhận” (4, tr.115). Ý ông muốn đặt hy vọng vào sự nghiệp giáo dục, nhằm nâng cao trình độ thẩm mỹ, để đến một lúc nào đó khoảng cách thẩm mỹ giữa người viết và người đọc được rút ngắn, khi đó, người đọc sẽ tiếp nhận văn chương một cách phù hợp như là những đối tượng thẩm mỹ, để không còn sự chênh lệch quá lớn như hiện thời. Nhìn chung, cả hai nhà nghiên cứu đều chủ động vận dụng một cách sáng tạo, hướng tới việc nâng cao chất lượng lĩnh vực mình quan tâm. Một người thì chú trọng tới hoạt động phê bình văn chương, còn người kia lại chú trọng tới hoạt động giảng dạy văn chương nhất là ở bậc phổ thông trung học. Đáng nói là cả hai nhà nghiên cứu đều ít khi rơi vào phiến diện cực đoan, không vì quá quan tâm tới mặt này mà đi tới bỏ qua mặt kia của vấn đề.
Như vậy, các nhà nghiên cứu ở ta, như đã nói và đã thấy, còn ít chú tâm vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào hoạt động sáng tạo của nhà văn. Để đi theo hướng này, ta nên đặc biệt chú tâm tới những ý kiến của H. Jauss về giá trị đích thực của một tác phẩm văn chương vốn liên quan mật thiết tới hai khái niệm khoảng cách thẩm mỹ và đồng nhất thẩm mỹ, nhìn cả dưới góc độ đồng đại lẫn lịch đại. H. Jauss từng viết: “Tầm đón đợi có thể được thiết lập bằng cách đó của một tác phẩm văn học tạo điều kiện để chúng ta xác định tính chất nghệ thuật bằng phương thức và kích thước của sự tác động lên một công chúng cho trước” (6, tr.90). Rồi ông tiến hành sự phân tích sáng tỏ, đầy sức thuyết phục của mình như sau: “Nếu ta gọi khoảng cách thẩm mỹ là khoảng cách nằm giữa tầm đón đợi có sẵn và một tác phẩm mới xuất hiện mà sự tiếp nhận nó, qua sự phủ định những kinh nghiệm cũ hoặc ý thức được những sự việc lần đầu tiên nói ra, có thể đưa đến “sự thay đổi tầm đón đợi”, thì chúng ta cũng có thể làm cho khoảng cách thẩm mỹ đó trở nên có thể nắm bắt được về mặt lịch sử trên phạm vi của những phản ứng của công chúng và sự phán xét phê bình (sự thành công phản đối hoặc tức tối, sự đồng tình thưa thớt hay thấu hiểu muộn màng chậm chạp)” (6, tr.90).
Trước tiên, H. Jauss muốn nói tới sự thay đổi tầm đón nhận của người đọc ở những tác phẩm văn chương có tính nghệ thuật, được hiểu là những tác phẩm thành công, có giá trị về phương diện khám phá nghệ thuật. Bởi vậy, ngay sau đó, ông viết tiếp: “Cái phương thức thực hiện, thực hiện quá mức hoặc không làm thỏa mãn hay đánh lừa những mong đợi của công chúng đầu tiên trong giây phút lịch sử mà một tác phẩm văn học xuất hiện, sẽ đưa ra những tiêu chí rõ ràng cho việc xác định giá trị thẩm mỹ (tức quyết định tính chất nghệ thuật của tác phẩm)” (6, tr.90-91). Dựa vào tiêu chí này, việc có góp phần làm thay đổi tầm đón nhận của người đọc hay không, thay đổi đến mức nào sẽ làm nên sự khác biệt dễ thấy giữa tác phẩm văn chương tầm thường, thiên về “giải trí” đơn thuần, “không đòi hỏi thay đổi tầm đón đợi”, với những tác phẩm đặc sắc, có giá trị cao về mặt thẩm mỹ. Ông hướng cái nhìn của mình tới “kiểu thay đổi tầm nhìn thứ hai có hiệu lực đối với cái gọi là các tuyệt tác cổ điển…, những tác phẩm có hình thức đẹp… mà chúng ta chỉ có thể đọc và trải nghiệm tính nghệ thuật của chúng với nỗ lực riêng, không theo cách thông thường” (6, tr.91). Cần hiểu đây là một đòi hỏi cao không chỉ đối với người sáng tác mà còn cả đối với người đọc, nhất là kiểu người đọc tinh hoa hay người đọc lý tưởng.
Không phải ngẫu nhiên mà người sáng lập nên Mỹ học tiếp nhận nổi tiếng lại chĩa mũi nhọn phê phán về phía các nhà xã hội học văn chương, tiêu biểu là R. Escarpit. Trong Xã hội học văn học – cuộc cách mạng sách, nhà mỹ học người Pháp này có quan niệm khác hẳn với H. Jauss về giá trị của một công trình nghệ thuật đích thực được “thể hiện cái mà cộng đồng chờ đợi ở nó, và trong nó cộng đồng nhận ra chính mình” (6, tr.91). Nói khác đi, theo R. Escarpít, một tác phẩm càng thành công khi khoảng cách thẩm mỹ giữa tác phẩm mới ra đời với tầm đón nhận quen thuộc có trước của người đọc, càng được thu hẹp, và nếu bằng không thì là lý tưởng nhất. Đã rõ là R. Escarpit đã tuyệt đối hóa vai trò của sự đồng nhất thẩm mỹ. Riêng về điểm này, H. Jauss chỉ trích thật đích đáng: “Cái quan điểm khách quan này giải thích một thành tựu văn học bằng việc nhập làm một ý đồ của một tác phẩm với sự mong đợi của một nhóm xã hội, nó luôn bỏ mặc xã hội học văn học khi cần phải giải thích sự thành công đến muộn màng hay bền lâu của một tác phẩm văn học” (6, tr.91-92). Ông tỏ ra hoàn toàn có lý. Lịch sử văn chương không thiếu những dẫn dụ để xác minh điều đó. Không ít tác phẩm từng gây dư luận ồn ào lúc mới ra đời, nhưng sau đó lại nhanh chóng rơi vào lãng quên. Ngược lại, nhiều tác phẩm từng chịu sự ghẻ lạnh, thậm chí bị nghiêm khắc lên án từ nhiều phía lúc mới xuất hiện, lại chiếm được vị trí danh giá ổn định trong lịch sử văn chương khi cơn gió thời thượng qua nhanh. Trong công trình của mình, H. Jauss dẫn ra một trong những sự kiện văn chương mà ông cho là “giật gân” từng xảy ra ở Pháp trong năm 1857. Hai cuốn tiểu thuyết cùng ra đời: Bà Bovary của Flaubert và Fanny của bạn ông, Feydeau. Trong một năm, cuốn Fanny đã được xuất bản tới 13 lần. Thành công như thế thì chỉ có tiểu thuyết Atala trước đó của Chateaubriand mới có thể so sánh được. Thế nhưng, lịch sử văn chương Pháp sau này, như đã thấy, chỉ ghi nhận giá trị của kiệt tác Bà Bovary, nào mấy ai còn nhớ tới Fanny. Có hiện tượng tưởng là nghịch lý ấy, theo lý giải của H. Jauss là do cống hiến vô giá trong “sự biến đổi hình thức” ở “lối kể chuyện lạnh lùng” của Flaubert mà có nhà nghiên cứu đã ví von một cách dí dỏm: “nếu cái máy kể chuyện của ông có thể đúc được từ thép của Anh thì nó cũng họat động như G. Flaubert” (6, tr.94). Từ đó, H. Jauss đi tới kết luận: “Thế rồi khi cuốn Bà Bovary, mà khởi đầu chỉ được đón nhận trong phạm vi hẹp và được đánh giá là bước ngoặt của lịch sử viết tiểu thuyết, trở nên nổi tiếng thế giới, thì công chúng bị nó chinh phục đã chấp nhận cái hệ thống đón đợi mới, và với việc đó, những mặt yếu của Feydeau – lối viết khoa trương, bắt chước mốt, những lớp mạ trữ tình mang tính tự truyện – đã bị xem là không thể nào chịu được nữa, Fanny chỉ là thành công tàn úa của ngày hôm qua” (6, tr.94). Có thể dễ dàng dẫn ra nhiều minh chứng tương tự từ xưa tới nay trong lịch sử văn chương dân tộc và nhân loại.
Tuy nhiên, trên thực tế, có người đã vô tình hoặc cố ý tuyệt đối hóa quan niệm của H. Jauss. Trong chiều sâu quan niệm, ông có cái nhìn hài hòa, uyển chuyển, chứ không rơi vào cực đoan, chỉ nhấn mạnh tới sự chênh lệch trong khoảng cách thẩm mỹ của tác phẩm thành công với người đọc lần đầu. Nghĩa là, ông vừa chú trọng tới khái niệm khoảng cách thẩm mỹ lại vừa không quên khái niệm đồng nhất thẩm mỹ. Cứ đọc kỹ câu nói quan trọng đã dẫn ở trên cũng đủ rõ. Ông khá uyển chuyển và biện chứng khi chủ động kéo dài câu văn bởi hàng loạt mệnh đề kết gắn với nhau: “… thì chúng ta cũng có thể làm cho khoảng cách thẩm mỹ đó trở nên có thể nắm bắt được về mặt lịch sử trên phạm vi của những phản ứng của công chúng và sự phán xét phê bình (sự thành công phản đối hoặc tức tối, sự đồng tình thưa thớt hay thấu hiểu muộn màng chậm chạp)”. Nếu sự chênh lệch thẩm mỹ quá lớn, nghĩa là chỉ nhấn mặt khoảng cách mà bỏ rơi mặt đồng nhất, thì sự thể sẽ hoàn toàn khác. Không phải vô tình khi ông khẳng định thêm: “… Chúng ta phải nhìn tính chất nghệ thuật của một tác phẩm văn học bằng khoảng cách thẩm mỹ chia tách tác phẩm ra khỏi sự chờ đợi của những người đọc đầu tiên thì sẽ dẫn đến việc cái khoảng cách mà khởi đầu được ý thức như là cách nhìn mới mẻ - PQT nhấn mạnh, được đón nhận vui vẻ hay hờ hững thì đối với những người đọc sau, nó có thể biến mất ở mức độ mà mặt yếu kém buổi đầu của một tác phẩm trở nên rõ ràng và như là sự mong đợi đã chấp nhận – PQT lưu ý – nó sẽ có vị trí trong phạm vi những kinh nghiệm thẩm mỹ sắp tới (6, tr.91). Nếu đúng như vậy thì người viết phải chủ động nắm bắt khoảng cách thẩm mỹ có thể có, nhằm điều chỉnh “kết cấu vẫy gọi” sao cho đừng quá xa với khoảng cách thẩm mỹ của “người đọc tiềm ẩn” (những thuật ngữ nổi tiếng của nhà Mỹ học tiếp nhận W. Iser). Tôi cho rằng một trong những thách thức tài năng của một nhà văn chính là ở sự hình dung không dễ dàng mức độ đồng nhất trong tương quan với khoảng cách của tầm đón nhận ở anh ta và tầm đón nhận nơi người đọc. Tâm thế sáng tạo lý tưởng phải là kết quả của sự dự kiến tài tình, nhờ nhiều khả năng khác nhau, nằm trong ý thức và tiềm thức của người sáng tạo trên phương diện tiếp nhận.
Điều này là hoàn toàn nhất quán với quan niệm chung về văn chương của H. Jauss. Chẳng hạn, quan niệm của ông về cái mới đích thực trong nghệ thuật. Ông viết một cách quả quyết: “Cái mới đồng thời là phạm trù lịch sử - tác giả nhấn mạnh từ này – nếu chúng ta tiếp tục sự phân tích văn học theo phương pháp lịch đại với những câu hỏi rằng những yếu tố lịch sử như thế nào thì làm cho hiện tượng văn học mới trở thành mới” (6, tr.102). Nếu là một phạm trù mang tính lịch sử thì không thể không chú trọng tới sự kế thừa. Vì vậy, truyền thống văn chương là nhân tố không được phép xem thường hoặc bỏ qua. Điều này cũng không mấy xa lạ với quan niệm của H. Jauss về ý nghĩa của tác phẩm văn chương đối với xã hội. Ông cho rằng: “Chức năng xã hội của văn học và những khả năng có trước của nó chỉ bộc lộ ở nơi mà ấn tượng văn học tác động (chứ không hoàn toàn thay thế - PQT lưu ý) đến tầm đón đợi của người đọc – được xác định qua thực tiễn đời sống - ảnh hưởng đến việc hiểu thế giới và cứ như vậy nó cũng tác động trở lại đến thái độ xã hội của người đọc” (6, tr.107). Nếu hiểu như vậy thì mọi tác phẩm quá xa lạ với bạn đọc thì đơn giản là sẽ không được tiếp nhận, và vì thế, không thể chiếm được cảm tình của người tiếp nhận, nói gì tới ý nghĩa xã hội thật sự. Nên nhớ rằng, khi tỏ ra không tán đồng với các nhà xã hội học văn chương, H. Jauss không hề có thái độ phủ định sạch trơn. Ông viết: “Xã hội học văn học không nhận biết một cách tương đối biện chứng đối tượng của nó, nếu nó xác định phạm vi được tạo nên bởi nhà văn, tác phẩm và công chúng một chiều – nhấn mạnh của PQT - như thế” (6, tr.92). Sự chừng mực trong lập luận thể hiện sự cân phân trong nhận thức của ông rất đáng để chúng ta cùng suy ngẫm./.
Đà Lạt, 5/2010
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
(1) Nhiều tác giả - Lý luận văn học, Tập I, Nxb Đại học Sư phạm, HN, 2002.
(2) Nguyễn Văn Dân – Nghiên cứu văn học – Lý luận và ứng dụng – Nxb Giáo dục, HN, 1999.
(3) Nguyễn Văn Hạnh và Huỳnh Như Phương - Lý luận văn học – vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, HN,1995.
(4) Nguyễn Thanh Hùng – Đọc và tiếp nhận văn chương – Nxb Giáo dục, HN, 2002.
(5)Tên công trình của H. Jauss được Phương Lựu dịch là Văn học sử như là sự khiêu chiến với lý luận văn học, vì ông hiểu rằng: “Điều này có liên quan với quan niệm của Hans Robert Jauss về tác phẩm văn học không chỉ là sản phẩm riêng của nhà văn. Mà nó phải được người đọc tiếp nhận, thì mới trở nên hoàn chỉnh. Cho nên nói cho cùng, chủ thể khiêu chiến ở đây, không phải là văn học sử, mà chính là lý luận văn học ” (1, tr.544). Trương Đăng Dung lại dịch là Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học. Nếu nhớ lại thì ngay từ năm 1978, nhà nghiên cứu Huỳnh Vân dịch thẳng từ tiếng Đức tác phẩm trên của H. Jauss là Lịch sử văn học như là một sự thách đố đối với ngành nghiên cứu văn học do Trường Đại học Konstanz ấn hành năm 1967 (Tạp chí Văn học, số 4/1978). Vậy cách dịch của Trương Đăng Dung và Huỳnh Vân có sự gặp gỡ. Tôi cũng theo cách hiểu và cách dịch này.
(6) Trương Đăng Dung - Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học, (Tạp chí Văn học Nước ngoài, số 1/2002).
(7) Đỗ Lai Thúy – Người đọc – hành trình từ cổ điển đến hiện đại - rút từ tập Những vấn đề mới trong nghiên cứu và giảng dạy văn học – Nxb Đại học Quốc gia, HN, 2006.
|