8
Giữa Đức Kitô và Ishtar
Ở giữa những hoa viên và các ngọn đồi nối liền thành phố Beirut với Li-băng, có một ngôi đền nhỏ, rất cổ, được đục trong đá trắng, vây quanh là các hàng dương liễu, ô liu và hạnh nhân. Dù ngôi đền ấy chỉ nằm cách xa lộ chính nửa dặm nhưng vào lúc xảy ra câu chuyện này, rất ít người quan tâm tới các di tích và tàn tích cổ đại chịu bỏ công thăm viếng nó. Nó là một trong nhiều địa điểm đáng chú ý, kín đáo và bị quên lãng tại Li-băng. Vì sự khuất lấp ấy, ngôi đền thành nơi nương náu của những kẻ thờ phượng và đền thờ cho những người tình cô đơn.
Khi vào trong ngôi đền, ta sẽ thấy trên vách mé đông có một bức phù điêu cổ Phoenicia tạc trong đá, mô tả Ishtar, nữ thần của tình yêu và cái đẹp, ngồi trên ngai của nàng, vây quanh là bảy trinh nữ khỏa thân đứng theo các tư thế khác nhau. Trinh nữ thứ nhất cầm đuốc; cô thứ hai cây đàn; cô thứ ba lư hương trầm; cô thứ tư choé rượu; cô thứ năm cành hoa hồng; cô thứ sáu vòng nguyệt quế; và cô thứ bảy cây cung và mũi tên. Cả bảy cô đều đưa mắt kính ngưỡng nhìn lên Ishtar.
Trên bức tường thứ hai có một bức phù điêu khác, thời điểm sau bức thứ nhất, diễn đạt theo cách tượng trưng Đức Kitô bị đóng đinh trên giá chữ thập. Bên cạnh ngài đứng mẹ của ngài đầy sầu bi, cùng Mary Magdalena và hai phụ nữ đang khóc. Bức khắc nổi kiểu Bizantine này cho thấy nó được chạm vào thế kỷ 17 hoặc 16.
Trên bức tường mé đông có hai ngách hình vòng cung theo đó ánh mặt trời chiếu vào ngôi đền, hắt lên các bức phù điêu ấy và làm chúng như thể được tô bằng kim nhủ. Ở chính giữa ngôi đền có một tảng cẩm thạch vuông mỗi mé có một bức điêu khắc cổ. Một vài bức khó nhận ra vì trên mặt có những cục máu hóa thạch chứng tỏ người cổ đại đã tế lễ cùng đổ trầm hương, rượu và dầu lên trên bệ đá này.
Không còn gì khác trong ngôi đền ngoài sự tịch lặng thẳm sâu, vén lộ cho người đang sống những bí mật của các thần nữ, và qua vô ngôn, nói tới những thời đại đã qua cùng cuộc tiến hóa của các tôn giáo. Cảnh tượng ấy mang thi sĩ tới một thế giới xa rất xa thế giới y đang nương náu và khiến các triết gia tin rằng con người bẩm sinh mang tính tôn giáo; loài người cảm thấy có nhu cầu đáp ứng cái họ không thể trông thấy và vẽ thành biểu tượng ý nghĩa của những cái thố lộ các bi mật ẩn giấu và các khát vọng của họ trong cuộc sống và cái chết.
Trong ngôi đền không tên đó, tôi gặp gỡ Selma mỗi tháng một lần và ở bên nàng trong nhiều giờ, ngắm các bức tranh lạ thường ấy, ngẫm nghĩ về Đức Kitô chịu đóng đinh và trầm tưởng tới những thanh niên Phoenicia cùng những phụ nữ đã sống, đã yêu và thờ phượng cái đẹp trong con người của Ishtar bằng cách đốt trầm hương trước tượng của nàng, rưới nước hoa lên bệ thờ nàng, những kẻ không lưu lại gì để nói tới ngoài một cái tên được nhắc lại bởi cuộc diễu hành của thời gian trước bộ mặt của Vĩnh cửu.
Thật khó có thể ghi thành hồi ký những giờ tôi gặp gỡ Selma - những giờ tuyệt trần, chan chứa đau đớn và ngập tràn hạnh phúc, khổ não, hi vọng và khốn khổ.
Chúng tôi thầm lén gặp nhau trong ngôi đền cổ ấy, ôn lại những ngày cũ, thảo luận về hiện tại của mình, sợ hãi tương lai và dần dần làm lộ rõ các bí mật ẩn giấu trong những chốn sâu thẳm của linh hồn chúng tôi, ra sức ủi an nhau bằng những hi vọng tưởng tượng và những giấc mộng tiếc nuối.
Thỉnh thoảng lòng chúng tôi lắng đọng, lau khô nước mắt và bắt đầu mỉm cười, lãng quên mọi sự, chỉ còn biết đến Tình yêu. Chúng tôi ấp ủ nhau cho tới khi trái tim tan chảy. Kế đó Selma in dấu một nụ hôn thuần khiết lên trán tôi khiến tâm hồn tôi chan chứa ngất ngây. Tôi đáp trả chiếc hôn ấy lúc nàng nghiêng cổ màu ngà xuống với đôi má ửng hồng và mịn màng trông như tia nắng mai đầu tiên trên trán các ngọn đồi. Chúng tôi lặng im nhìn chân trời xa xa nơi các đám mây nhuộm tia nắng màu da cam thành ráng chiều mặt trời lặn.
Những chuyện vãn của chúng tôi không giới hạn trong tình yêu. Thông trường chúng tôi lan man trên các vấn đề đang xảy ra và trao đổi ý kiến. Xuôi theo dòng chuyện trò, Selma nói tới địa vị của phụ nữ trong xã hội, vết hằn các thời đại đã qua để lại trên cá tính của người nữ, mối quan hệ giữa chồng và vợ, các bệnh hoạn tinh thần và sự băng hoại đe dọa cuộc sống hôn nhân. Tôi nhớ lời nàng từng nói:
"Các nhà thơ và nhà văn cố tìm cách thấu hiểu thực tại của người đàn bà nhưng cho tới nay, họ vẫn không hiểu những bí mật ẩu giấu trong tâm hồn nàng vì họ nhìn đàn bà từ đằng sau tấm mạng tính dục và chỉ thấy vẻ bên ngoài của nàng. Họ nhìn người nữ qua chiếc kính oán hờn phóng đại và chẳng tìm thấy gì ngoài yếu ớt và vâng phục."
Vào một dịp khác, Selma đưa tay lên chỉ tới các bức phù điêu trên vách ngôi đền và nói:
"Trong lòng của đá này có hai biểu tượng mô tả cái cốt tủy trong khát vọng của phụ nữ và vén lộ những bí mật ẩn giấu của linh hồn đàn bà, đó là chuyển động giữa tình yêu và khổ não, giữa thương cảm và hi sinh, giữa Ishtar đang ngồi trên ngai và Đức mẹ Maria đang đứng bên cây thánh giá. Người nam mua vinh quang và danh tiếng nhưng người nữ trả giá."
Không ai biết những cuộc gặp mặt kín đáo của chúng tôi ngoài Thượng đế và lũ chim lượn vòng trên ngôi đền. Selma thường dùng cổ xe ngựa của nàng đến một chỗ có tên là Công viên Pasha. Từ chỗ đó, nàng đi bộ tới ngôi đền và tìm thấy tôi đang khắc khoải ngóng từng giây.
Chúng tôi không sợ con mắt quan sát của người đời, cũng không sợ lương tâm của cả hai chúng tôi. Tinh thần được thanh tẩy bằng lửa và rửa sạch bằng nước mắt thì cao hơn cái người đời gọi là hổ thẹn hay ô nhục. Nó được giải phóng khỏi các lề luật nô lệ và những phong tục lỗi thời ngược với tình cảm của tâm hồn con người. Tinh thần ấy có thể kiêu hãnh đứng không chút xấu hổ trước ngai của Thượng đế.
Xã hội loài người trong suốt bảy mươi thế kỷ đã đầu hàng những luật lệ băng hoại tới độ ngày nay nó không thể hiểu luật lệ tối thượng và vĩnh cửu. Con mắt loài người đã ngày càng quen thuộc với ánh sáng le lói của ngọn nến và không thể nhìn ánh sáng của mặt trời. Bệnh tật tinh thần đã trở nên thành phần của người đời khiến họ nhìn nó không phải là bệnh tật mà như một tặng phẩm tự nhiên được Thượng đế ban cho A-đam. Nếu thấy có ai đó thoát khỏi các mầm mống của bệnh tật ấy, họ sẽ nghĩ về y với sự hỗ thẹn và ô nhục.
Những kẻ nào nghĩ xấu về Selma Karamy vì nàng rời nhà chồng đến gặp tôi trong ngôi đền là kẻ bệnh hoạn và là một loại tâm trí bạc nhược, một kẻ nhìn người lành mạnh và tráng kiện như một tên nổi loạn. Những kẻ ấy giống như côn trùng bò trong bóng tối vì sợ người qua đường dẫm lên mình.
Tù nhân bị áp bức nào có thể phá vỡ ngục tù của mình mà không làm, đều là kẻ hèn nhát. Selma, một tù nhân vô tội và bị áp bức, không có khả năng giải thoát mình khỏi cảnh nô lệ. Nàng có đáng trách vì đã qua cửa sổ nhà tù, nhìn cánh đồng xanh và bầu trời bao la? Người đời có xem Selma là không chung thủy với chồng vì nàng từø nhà mình tới đây để ngồi bên tôi giữa Đức Kitô và nữ thần Ishtar?
Cứ để người đời nói điều họ thích nói, Selma đã vượt qua những đầm lầy nhận chìm các tinh thần khác và đã đặt chân lên đất liền trong một thế giới không bị tiếng hú của lang sói và tiếng rì rào của rắn với tới. Người đời có thể nói điều họ muốn nói về tôi vì một tinh thần từng thấy bóng ma của sự chết thì không thể bị bộ mặt của kẻ cắp hăm dọa. Người lính nào từng thấy thanh gươm lấp lánh trên đầu và suối máu dưới chân thì không thèm đếm xỉa những viên đá trẻ con trên đường phố ném tới.
9
Hi sinh
Một ngày vào hạ tuần tháng sáu khi dân chúng rời thành thị lên núi tránh cái nóng mùa hạ, tôi như thường lệ tới ngôi đền để gặp mặt Selma, mang theo bên mình cuốn sách nhỏ gồm các bài thơ xứ Andalusia.
Tới ngôi đền, trong khi ngồi đó trông ngóng Selma, lâu lâu tôi lại nhìn vào vài trang sách, ngâm những câu thơ làm tâm hồn mình chứa chan ngây ngất và mang tới cho linh hồn mình những hồi ức về các vua, thi sĩ, hiệp sĩ đã chào từ biệt để đi Granada với lệ trong mắt, khổ não trong lòng và để lại đằng sau các dinh thự, cơ quan cùng niềm hy vọng.
Một giờ sau, tôi thấy Selma đang đi giữa các hoa viên, tới gần ngôi đền, lệch người dưới chiếc dù che nắng như thể đang mang hết thảy những âu lo của thế giới trên vai. Khi nàng bước vào ngôi đền và ngồi bên tôi, tôi để ý có cái gì đó thay đổi trong mắt nàng, và tôi khắc khoải muốn dò hỏi cho ra.
Cảm nhận được những gì đang diễn ra trong tâm trí tôi, Selma đặt bàn tay lên đầu tôi và nói:
"Nào, người thương yêu của em, hãy xích lại gần em để em làm anh nguôi cơn khát vì sắp đến giờ chúng ta chia tay nhau."
Tôi thảng thốt hỏi nàng:
"Có phải chồng em đã biết chuyện chúng ta gặp gỡ nhau ở đây?"
Nàng điềm tĩnh trả lời:
"Chồng em chẳng bao giờ quan tâm tới em. Ông ấy cũng không biết em sử dụng thời gian như thế nào vì ông suốt ngày bận rộn với các cô gái khốn khổ bị cảnh nghèo túng xô đẩy vào các ngôi nhà nổi tiếng bệnh hoạn, phải bán thân xác để có loại bánh mì bột nhào với máu và nước mắt."
Tôi thắc mắc tiếp:
"Cái gì ngăn không cho em tới ngôi đền này và cẩn trọng ngồi bên anh trước Thượng đế. Có phải linh hồn em đang đòi hỏi chúng ta phải chia tay nhau?"
Nàng trả lời, long lanh nước mắt:
"Không, người thương yêu của em, tinh thần của em không đòi hỏi phải chia lìa nhau vì anh là thành phần của em. Đôi mắt em không bao giờ thấm mệt khi nhìn anh vì anh là ánh sáng của chúng. Nhưng nếu số phận ra lệnh cho em phải đi trên đường gập ghềnh của một cuộc đời chất nặng xiềng xích thì liệu em có bằng lòng không nếu số phận của anh cũng sẽ giống như của em?"
Kế đó, nàng nói thêm:
"Em không thể nói tất cả vì lưỡi em thắt lại với đau đớn và không nói được, môi em hằn kín vì khốn khổ và không chuyển động được. Tất cả những gì em có thể nói với anh là em đang sợ anh có thể bị rơi vào chiếc bẫy như em đang mắc."
Nghe vậy, tôi hỏi:
"Selma ạ, em có ý nói gì vậy, và ai là kẻ đang làm em sợ?"
Nàng đưa hai tay lên che mặt và đáp:
"Giám mục đã phát hiện rằng mỗi tháng một lần em ra khỏi nấm mồ mà ông ấy chôn em trong đó."
Tôi thắc mắc:
"Có phải Giám mục đã biết được việc chúng ta gặp nhau ở đây?"
Nàng trả lời:
"Nếu ông ấy đã biết, anh sẽ không thấy em ở đây và đang ngồi bên anh. Nhưng ông ấy có lòng nghi ngờ. Ông thông báo cho hết thảy người làm của ông phải canh chừng em thật kỹ. Em có cảm giác trong ngôi nhà em sống và trên con đường em đi đều có các cặp mắt theo dõi em, những ngón tay chỉ thẳng vào em và những đôi tai nghe ngóng tiếng thì thầm của ý nghĩ em."
Selma im lặng một lúc rồi nàng nói thêm, hai má đẫm nước mắt:
"Em không sợ Giám mục vì đã ướt sủng thì không còn e ngại bị chìm đắm, Nhưng em sợ anh có thể rơi vào chiếc bẫy và trở thành con mồi của ông. Anh còn trẻ và tự do như ánh nắng. Em không sợ cái số phận đã bắn tất cả mũi tên của nó vào lồng ngực em nhưng em sợ con rắn có thể cắn bàn chân anh, cản trở không cho anh leo lên đỉnh núi nơi tương lai đang chờ anh với hân hoan và vinh quang của nó."
Tôi nói:
"Kẻ chưa bị con rắn của ánh sáng cắn và con sói của bóng tối táp, sẽ luôn luôn bị lừa dối suốt ngày suốt đêm. Nhưng hãy lắng nghe, Selma, hãy lắng nghe thật kỹ, có phải chia tay là phương cách duy nhất để tránh những độc dữ và đê tiện của người đời? Có phải con đường của tình yêu và tự do bị đóng lại và không lưu lại gì ngoài sự đầu hàng ý muốn của những kẻ nô lệ sự chết?"
Nàng đáp:
"Không có gì để lại ngoài sự chia xa và nói lời chào từ giã nhau."
Với tinh thần nổi loạn, tôi cầm tay Selma và nói bằng giọng khích động:
"Suốt một thời gian dài, chúng ta đã đầu hàng ý muốn của người đời. Kể từ lúc chúng ta gặp nhau cho tới giờ này, chúng ta bị người mù hướng dẫn và cùng với họ, chúng ta bái lạy trước các ngẫu tượng của họ. Kể từ lúc chúng ta gặp nhau, chúng ta đã ở trong bàn tay của Giám mục như hai trái banh bị ông liệng qua ném lại tùy thích. Có phải chúng ta sắp sửa đầu hàng ý muốn của ông cho tới khi cái chết mang chúng ta đi mãi mãi?
"Có phải Thượng đế đã hà hơi sự sống cho chúng ta để rồi đặt nó dưới bàn chân của sự chết? Có phải ngài đã ban cho chúng ta sự tự do để chúng ta biến nó thành một hình bóng của nô lệ? Kẻ dập tắt ngọn lửa tinh thần mình bằng chính bàn tay của mình, tức là tên vô đạo trong mắt của Trời vì Trời bày ra lửa để bùng cháy trong tinh thần của chúng ta. Kẻ không nổi loạn chống áp bức tức là đang đối xử bất công với chính mình.
"Anh yêu em, Selma, và em cũng yêu anh. Tình yêu là kho tàng quí báu, là tặng phẩm của Thượng đế ban cho các tinh thần nhạy cảm và vĩ đại. Chúng ta có sẽ vứt bỏ kho tàng ấy, để cho lũ lợn húc nó tán loạn và dẫm đạp lên nó? Thế giới này tràn đầy kỳ diệu và vẻ đẹp. Tại sao chúng ta lại sống trong đường hầm chật hẹp mà Giám mục và những kẻ tiếp tay ông đã đào sẵn cho chúng ta? Cuộc đời chan chứa hạnh phúc và tự do, tại sao chúng ta không cởi bỏ chiếc ách nặng nề khỏi hai vai, bẻ gãy xiềng xích đang trói hai chân, để bước đi tự do, tới hòa bình?
"Hãy đứng lên và chúng ta hãy rời ngôi đền nhỏ bé này để tới ngôi đền rộng lớn của Thượng đế. Chúng ta hãy rời xứ sở này với tất cả tình trạng nô lệ và mê muội của nó để đi tới một xứ sở khác, xa rất xa, mà bàn tay của lũ trộm cắp không với tới. Chúng ta hãy ra bờ biển, dưới sự che chở của bóng đêm, lên con tàu sẽ mang chúng ta băng ngang các đại dương để tới nơi có thể tìm thấy một cuộc sống mới tràn đầy hạnh phúc và am hiểu.
"Selma ơi, đừng ngần ngại, vì những phút này đối với chúng ta quí báu hơn vương miện các đức vua và tuyệt vời hơn ngai các thiên thần. Chúng ta hãy bước theo cột ánh sáng dẫn mình đi từ sa mạc khô cằn tới các đồng cỏ xanh mọc đầy hoa và trầm hương."
Selma lắc đầu. Nàng nhìn đăm đăm cái gì đó vô hình bên trên vòm điện, với nụ cười đau đớn xuất hiện trên môi. Kế đó, nàng nói:
"Không, không, người thương yêu của em. Trời đã đặt vào bàn tay em chiếc ly đầy dấm và mật đắng. Em buộc lòng phải uống cạn để biết trọn vẹn mùi vị cay đắng ấy cho tới khi đáy ly chỉ đọng lại vài giọt cho em kiên nhẫn uống tiếp. Em không xứng đáng sống một cuộc đời mới chan chứa tình yêu và bình an. Em không đủ mạnh để có hoan lạc và ngọt ngào của cuộc sống vì con chim gãy cánh không thể bay giữa bầu trời bao la. Những con mắt đã quen với ánh sáng leo lét của ngọn nến không đủ mạnh để nhìn thẳng mặt trời.
"Anh đừng nói với em về hạnh phúc; chỉ việc nhớ tới nó cũng đủ làm em đau khổ. Anh đừng đề cập tới bình an với em; chiếc bóng của nó làm em run sợ. Nhưng đây này, anh hãy nhìn em, em sẽ cho anh thấy ngọn đuốc thiêng trời đã thắp sáng trong tro tàn của tâm hồn em. Anh biết rằng em thương yêu anh chẳng kém tình thương của người mẹ đối với đứa con độc nhất của mình, và Tình yêu ấy dạy em bảo vệ anh cho dẫu có phải rời xa anh.
"Chính Tình yêu được thanh tẩy bằng lửa đã ngăn không cho em đi theo anh tới miền đất xa xôi nhất. Tình yêu ấy giết chết mọi khát vọng của em để anh có thể sống tự do và đức hạnh. Tình yêu hữu hạn đòi hỏi sở hữu người mình yêu nhưng tình yêu vô biên chỉ đòi hỏi chính nó thôi. Tình yêu, xuất hiện giữa hồn nhiên mộc mạc và sự thức dậy của tuổi trẻ, tự làm nó toại nguyện bằng hành động sở hữu và ôm ấp, còn tình yêu ra đời giữa vòm trời lồng lộng và giáng hạ theo những bí ẩn của đêm thì không toại nguyện với bất cứ cái gì, ngoài Vĩnh cửu và bất tử; nó chỉ đứng với lòng đầy cung kính trước thần linh chứ không trước bất cứ cái nào khác.
"Khi em biết rằng Giám mục muốn ngăn không cho em rời ngôi nhà của cháu ông và tước mất niềm hoan lạc duy nhất của em, em đứng trước cửa sổ phòng mình, nhìn ra biển, nghĩ tới những xứ sở bao la bên kia biển, tới sự tự do chân chính và độc lập mà em có thể tìm thấy ở đó. Em cảm thấy mình đang sống gần anh, được bao phủ bởi chiếc bóng của tinh thần anh, được chìm đắm trong đại dương chan chứa tình thương của anh.
"Nhưng hết thảy những ý nghĩ ấy - vốn soi sáng trái tim phụ nữ khiến nàng nổi loạn chống lại phong tục cổ hủ để sống trong chiếc bóng của tự do và công lý - đã làm cho em tin rằng em yếu đuối và tình yêu hữu hạn mỏng manh của chúng ta không có khả năng đứng vững trước vầng mặt trời. Lúc đó em khóc như một đức vua bị cướp mất vương quốc và lấy sạch các kho tàng, nhưng rồi em thấy khuôn mặt anh trong những dòng nước mắt ấy, và mắt anh đăm đăm nhìn em làm em nhớ lại những lời anh có lần nói với em rằng:
"Nào, Selma, tỉnh lại. Chúng ta hãy như những ngọn tháp vững vàng trước bão tố. Chúng ta hãy đứng như hai chiến binh dũng cảm trước kẻ thù, đối mặt với vũ khí của chúng. Nếu bị giết, chúng ta sẽ chết như người tuẩn tiết; nếu chiến thắng, chúng ta sẽ sống như kẻ anh hùng. Đương đầu với chướng ngại và sống với gian khổ thì cao nhã hơn im lặng rút lui.
"Người thương yêu của em, những lời ấy anh nói ra khi đôi cánh của thần chết lơ lửng quanh giường của cha em. Em lấy lại sức lực và cảm thấy trong bóng tối của nhà ngục em có một loại tự do nào đó đang làm dịu các khó khăn của chúng ta và làm giảm các khổ não của chúng ta.
"Em khám phá ra rằng tình yêu của chúng ta sâu thẳm như đại dương, vời vợi như các ngôi sao và mênh mông như bầu trời. Em tới đây để gặp anh, và trong tinh thần yếu đuối của em có một sức mạnh mới. Sức mạnh này là khả năng hi sinh cái cao cả để sở đắc cái cao cả hơn. Đó là hi sinh hạnh phúc của em để anh có thể bảo tồn đức hạnh và danh dự trong mắt người đời và hoàn toàn không bị sự bội bạc cũng như ngược đãi của họ chạm tới.
"Trước đây, trong những lần tới ngôi đền này, em cảm thấy như thể những xiềng xích nặng nề đang lôi em xuống, nhưng hôm nay em đến đây với một quyết tâm mới, rằng em sẽ cười vào những gông cùm ấy và sẽ thâu ngắn con đường ấy.
"Em đã thường đến ngôi đền này như một bóng ma sợ hãi nhưng hôm nay em đến như một phụ nữ dũng cảm, kẻ cảm thấy mình cần phải hi sinh ngay lập tức và kẻ biết giá trị của đau khổ; một phụ nữ thích bảo vệ kẻ mình yêu thoát khỏi sự mông muội của người đời và tinh thần đói khát của mình. Em đã thường ngồi bên anh như chiếc bóng run rẩy nhưng hôm nay, em đến đây để bộc lộ với anh cái tôi đích thực của em trước nữ thần Ishtar và Đức Kitô.
"Em là cây lớn lên trong bóng tối, hôm nay em vươn cành ra, run rẩy một lúc trong ánh sáng ban ngày. Em đến đây để nói lời từ biệt anh, người thương yêu của em. Và em hi vọng rằng cuộc chia tay của chúng ta sẽ cao cả và đáng sợ như tình yêu của chúng ta. Hãy để cho cuộc giã biệt này giống như lửa đốt chảy vàng nhờ thế vàng trở nên huy hoàng lộng lẫy hơn."
Selma không để cho tôi phát biểu hay phản đối mà nhìn tôi với đôi mắt long lanh. Khuôn mặt nàng vẫn giữ trọn phẩm cách, trông như một thiên thần đáng kính trọng và giữ thinh lặng. Kế đó, với một cử chỉ trước đây chưa từng làm, nàng vươn mình tới ôm lấy tôi với đôi cánh tay mềm mại. Selma đặt lên môi tôi một nụ hôn nóng bỏng, rất sâu và rất dài.
Khi mặt trời đi xuống để thu hồi tia nắng của nó từ các hoa viên và vườn cây ăn quả, Selma nhấc mình tới đứng chính giữa ngôi đền, nhìn thật lâu các bức vách và mọi góc đền như muốn trút ánh sáng từ đôi mắt mình lên các bức phù điêu và các biểu tượng. Kế đó, nàng bước tới và cung kính quì trước bức tranh Đức Kitô, cẩn trọng hôn chân ngài và thì thầm:
"Ôi Đức Kitô, con đã chọn Thánh giá của ngài và rời bỏ thế giới hoan lạc hạnh phúc của Ishtar. Con đội vòng gai và vứt bỏ vòng nguyệt quế, và con rửa tay mình bằng máu và nước mắt thay vì bằng hoa và hương thơm. Con uống dấm và mật đắng từ chiếc ly dành cho rượu và mật hoa. Chúa ơi, xin hãy chấp nhận con vào trong số những kẻ đi theo ngài. Xin hãy dẫn con tới Galilee với những môn đệ đã được ngài chọn, những kẻ bằng lòng với các đau khổ của mình và hài lòng với các khổ não của mình."
Kế đó, Selma đứng lên nhìn tôi và nói:
"Giờ đây em sẽ hạnh phúc quay về cái hang tối tăm của mình, nơi cư trú những bóng ma khủng khiếp. Người em yêu thương ơi, đừng tỏ lòng thương cảm em, cũng đừng cảm thấy xót xa cho em, vì linh hồn từng có lần thấy chiếc bóng của Thượng đế thì sau đó sẽ không bao giờ run sợ những chiếc bóng của cái ác. Và con mắt từng có lần thấy Thiên đàng sẽ không bao giờ khép lại vì những đớn đau của trần thế."
Nói xong những lời ấy, Selma rời khỏi nơi thờ phượng. Còn tôi ở lại đó, thất lạc mình trong đại dương sâu thẳm các ý nghĩ và mê mải mình trong thế giới mặc khải, ở đó Thượng đế ngự trên ngai, các thiên thần ghi chép hành động của con người, các linh hồn kể lại tấn thảm kịch cuộc đời, và các tiên nga Houri của Thiên đàng hát những khúc ca tình yêu, khổ não và bất tử.
Đêm xuống từ lâu khi tôi tỉnh giấc mê thiếp để thấy mình hoang mang giữa các hoa viên, lặp lại âm vọng từng lời Selma đã nói và nhớ lại sự im lặng của nàng, các hành vi cử chỉ của nàng, vẻ mặt của nàng và cái chạm vào của đôi cánh tay nàng, cho tới khi tôi nhận ra ý nghĩa của cuộc chia tay và nỗi đau đớn trong trạng thái cô đơn. Tôi ưu phiền và tim vỡ nát.
Tôi khám phá ra thực tế đầu tiên rằng dẫu được sinh ra trong tự do loài người sẽ vẫn còn làm nô lệ cho những luật lệ khắc nghiệt do cha ông họ ban hành, và rằng bầu trời mà chúng ta tưởng như không thay đổi chính là sự đầu hàng của hôm nay trước ý muốn của ngày mai và sự đầu hàng của hôm qua trước ý muốn của hôm nay.
Từ đêm đó, có nhiều lần tôi nghĩ tới luật lệ của tinh thần, và có nhiều lần tôi làm cuộc so sánh giữa cao thượng của hi sinh với hạnh phúc của nổi loạn, để khám phá cho ra cái nào cao thương hơn và đẹp đẽ hơn cái nào. Nhưng cho tới lúc này, từ toàn bộ sự việc đó, tôi chỉ rút ra được một chân lý, và chân lý đó là sự chân thành, cái làm cho mọi hành vi cử chỉ của chúng ta trở nên đẹp đẽ và có danh dự. Và sự chân thành ấy có trong Selma Karamy.
10
Kẻ giải cứu
Năm năm hôn nhân của Selma đi qua, không mang về một đứa con nào để thắt chặt các mối dây tinh thần giữa nàng với chồng và buộc hai linh hồn tương khắc vào nhau.
Ở khắp nơi, người đàn bà cằn cỗi bị người đời nhìn với thái độ khinh thị vì hầu hết đàn ông đều khao khát được làm cho mình tồn tại mãi mãi qua con cháu.
Người đàn ông có tài sản thường xem bà vợ vô sinh của hắn như kẻ thù. Hắn ghét cay ghét đắng và bỏ rơi nàng, thậm chí ao ước sao cho nàng chóng chết. Thiếu gia Bey Galib thuộc loại đàn ông đó. Về mặt vật chất, y giống như đất, cứng như thép và tham lam như huyệt mộ. Khát vọng có một đứa con mang tên họ và danh tiếng của y khiến y oán hận Selma, bất chấp nhan sắc và tính nết dịu dàng của nàng.
Cây mọc trong hang không sinh quả. Và Selma, kẻ sống trong bóng tối cuộc đời không thể cưu mang con cái...
Chim sơn ca không làm tổ trong lồng kẻo số phận của chim non sẽ là nô lệ... Selma là người tù của khốn khổ, và do bởi ý muốn của Trời, nàng sẽ không có thêm một người tù nữa để chung chia cuộc sống của mình. Hoa trong đồng nội là con cái tình thương cảm của mặt trời và tình thương yêu của thiên nhiên, và con cái của loài người là hoa của tình yêu và lòng trắc ẩn...
Trong toà nhà xinh đẹp của Selma tại Ras Beyrouth, tinh thần của tình yêu và lòng trắc ẩn không bao giờ thắng thế cho dẫu nàng hằng đêm quì gối trước Trời, cầu xin Thượng đế ban cho một đứa con để nàng có thể tìm thấy trong đứa bé nguồn khuây khỏa và an ủi... Nàng triền miên cầu nguyện cho tới khi Trời đáp ứng lời nguyện cầu của nàng...
Cuối cùng, cây trong hang trổ lộc để ươm quả. Chim sơn ca trong lồng bắt đầu xây tổ bằng chính lông và cánh của nó.
Selma ngữa đôi tay quấn xiềng xích lên Trời để tiếp nhận tặng phẩm quí báu của Thượng đế, và trên thế gian này, chẳng có gì khác có thể làm nàng hạnh phúc hơn việc trở nên người sắp làm mẹ...
Nàng bồn chồn chờ đợi, đếm từng ngày, trông ngóng thời điểm khúc nhạc dịu ngọt nhất của Trời, tiếng nói của đứa con, rung lên trong đôi tai người mẹ...
Qua những giọt nước mắt của mình, Selma bắt đầu thấy hừng đông của một tương lai sáng sủa hơn.
Tới tháng Nisan, Selma chuyển mình trên chiếc giường lâm bồn đau đớn, nơi sự sống và cái chết vật lộn nhau. Bác sĩ và nữ hộ sinh đã sẵn sàng để chuyển giao cho thế giới một vị khách mới.
Đến quá nửa đêm, Selma bắt đầu gào thét không dứt. Tiếng kêu la của sự sống tách ra từ sự sống. Tiếng kêu la của sự tiếp nối trong bầu trời hư không... Tiếng kêu la của sức lực yếu ớt trước sự sống vững chải của các sức lực lớn lao... Tiếng kêu la của một Selma khốn khổ đang nằm xuống trong tuyệt vọng dưới chân của sự sống và cái chết.
Tới rạng sáng Selma cho ra đời một bé trai. Khi mở được đôi mắt, nàng thấy khắp gian phòng những khuôn mặt đang mỉm cười. Rồi nàng nhìn thêm lần nữa và thấy sự sống cùng cái chết vẫn đang vật lộn bên giường mình. Selma nhắm mắt lại và khóc, thốt lên lần đầu tiên, "Ôi, con trai của tôi." Người nữ hộ sinh bọc hài nhi trong tả lụa, đặt nó bên cạnh mẹ, nhưng bác sĩ vẫn tiếp tục nhìn Selma và đau đớn lắc đầu.
Những giọng nói hoan hỉ đánh thức hàng xóm. Láng giềng vội vàng kéo nhau chạy tới biệt thự để chúc mừng người cha có kẻ nối dõi vừa chào đời, nhưng bác sĩ vẫn đăm đăm nhìn Selma cùng trẻ sơ sinh và lắc đầu.
Người giúp việc đua nhau chạy đi loan tin mừng cho Thiếu gia Bey nhưng bác sĩ ngó chằm chặp Selma với hài nhi con nàng với vẻ thất vọng trên mặt ông.
Khi mặt trời bắt đầu mọc, Selma đưa đứa con mới sinh lên sát bầu ngực mình. Nó mở mắt lần đầu nhìn mẹ. Rồi rùng mình nó khép mắt lại lần cuối. Bác sĩ lấy đứa bé ra khỏi vòng tay ôm của Selma; trên má ông chảy dài những giọt nước mắt. Rồi ông thì thầm với mình:
"Vị khách đi rồi."
Đứa bé từ trần trong lúc các láng giềng đang ăn mừng với người cha trong đại sảnh đường của biệt thự, nâng ly chúc sức khoẻ cho kẻ thừa kế ấy. Selma nhìn bác sĩ, van nài:
"Xin đưa con tôi cho tôi để tôi ôm ấp nó."
Đứa bé dù đã chết nhưng tiếng ly cụng vào nhau càng lúc càng rôm rả thêm trong sảnh đường...
Nó chào đời lúc rạng sáng và từ trần lúc mặt trời mọc...
Nó ra đời như một ý nghĩ, chết như một tiếng thở dài và biến mất như chiếc bóng...
Nó không sống để ủi an và làm khuây khỏa mẹ nó.
Cuộc đời của nó bắt đầu vào lúc kết thúc một đêm và kết thúc vào lúc bắt đầu một ngày, như giọt sương chảy ra từ những con mắt của bóng tối và khô khi ánh sáng chạm tới.
Một hạt trai sóng biển mang vào bờ và rồi thủy triều đưa trở lại đáy sâu đại dương.
Một đóa huệ chỉ mới kết nụ từ chồi của sự sống và bị dẫm nát dưới bàn chân của sự chết.
Một vị khách thân thiết với sự xuất hiện làm rạng rỡ tâm hồn Selma và sự ra đi giết chết linh hồn nàng.
Đây là cuộc sống của loài người, cuộc sống của các quốc gia, cuộc sống của các mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao.
Tập trung tia mắt của mình vào bác sĩ, Selma gào lớn:
"Đưa con của tôi cho tôi để tôi ôm ấp nó. Đưa đứa bé cho tôi để tôi cho nó bú."
Lúc đó, bác sĩ chúi đầu xuống và nói với giọng nghẹn trong cổ họng:
"Thưa bà, cháu bé của bà không còn nữa, xin bà chịu khó."
Vừa nghe lời tuyên bố đó của bác sĩ, Selma thét lên một tiếng kinh hoàng. Rồi nàng lặng xuống trong một chốc và kế đó mỉm cười sung sướng. Khuôn mặt nàng bừng sáng như vừa khám phá ra điều gì đó. Và Selma nói điềm đạm:
"Xin hãy đưa đứa bé cho tôi. Mang nó tới gần tôi để tôi nhìn nó chết."
Bác sĩ bồng đứa bé đã chết tới cho Selma và đặt nó trong vòng tay ôm của nàng. Selma ấp ủ con, rồi quay mặt vào vách, nàng thì thầm với hài nhi đã chết rằng:
"Con của mẹ, con tới đây để mang mẹ ra đi. Con đến để chỉ cho mẹ thấy con đường dẫn tới bờ biển. Con của mẹ ơi, đây mẹ đây... Con cứ dẫn mẹ đi, và chúng ta hãy rời cái hang tối tăm này."
Và trong một phút, tia nắng mặt trời xuyên qua các bức màn cửa sổ, chiếu lên hai thi thể tĩnh lặng đang nằm yên trong giường, được canh giữ bởi phẩm cách sâu xa của tịch lặng và được phủ bóng bởi đôi cánh của thần chết.
Với đôi mắt đầm lệ, bác sĩ rời căn phòng. Khi ông tới khách sảnh, tiệc mừng biến thành đám tang, nhưng Thiếu gia Bey Galib không hề thốt ra một lời hay nhỏ một giọt nước mắt. Y tiếp tục đứng bất động như pho tượng, bàn tay phải vẫn cầm ly rượu.
Hôm sau, Selma được khâm liệm trong chiếc áo cưới màu trắng của nàng và đặt vào áo quan. Khăn liệm của đứa bé là tả quấn của nó. Áo quan của nó là vòng tay người mẹ. Huyệt mộ của nó là bầu ngực êm đềm của mẹ mình. Hai thi thể được mang đi trong một linh cửu. Và tôi cung kính bước đi với đám đông, tống tiễn Salem và hài nhi con nàng tới nơi an nghỉ của hai mẹ con.
Sau khi tới nghĩa trang, Giám mục Bulos Galib bắt đầu hát lễ trong khi các linh mục khác đọc kinh. Trên khuôn mặt họ xuất hiện tấm mạng vô minh và trống rỗng.
Khi quan tài hạ huyệt, một trong những người đang đứng xem thì thầm:
"Đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy hai thi hài trong một áo quan."
Một người khác nói:
"Dường như đứa con tới để giải cứu mẹ nó thoát khỏi người chồng nhẫn tâm."
Người thứ ba nói:
"Nhìn Thiếu gia Bey Galib kìa! Hắn đang ngó lên trời như thể hai con mắt làm bằng thủy tinh. Hắn trông chẳng giống kẻ mất vợ mất con trong cùng một ngày."
Người thư tư châm thêm:
"Chú của hắn, Giám mục, ngày mai sẽ cưới cho hắn một phụ nữ giàu có hơn và mạnh khoẻ hơn."
Giám mục cùng các linh mục tiếp tục hát lễ và đọc kinh cho tới khi phu đào huyệt lấp xong đất. Kế đó, người đời, từng người một, tới gần Giám mục và cháu của ông, bày tỏ lòng tôn kính bằng những lời nói ngọt ngào và thiện cảm. Còn tôi, tôi đứng cô đơn một bên; không một linh hồn nào an ủi tôi, như thể Selma và đứa con của nàng chẳng có chút ý nghĩa nào đối với tôi.
Người đưa tiễn rời nghĩa trang. Phu đào huyệt đứng bên nấm mộ mới với chiếc thuổng trong tay.
Tôi bước tới gần ông ta và dò hỏi:
"Bác có nhớ Farris Effandi chôn ở đâu không?"
Ông nhìn tôi một chốc rồi chỉ nấm mộ của Selma và nói:
"Ngay chỗ này. Tôi đặt con gái của ông ấy lên trên ông ấy, và trên lồng ngực của con gái ông ấy an nghỉ đứa bé con của cô ấy, và trên tất cả, tôi lấp đất trở lại với chiếc thuổng này."
Liền đó, tôi nói:
"Trong lòng huyệt này, bác đã chôn luôn trái tim của tôi."
Khi phu đào huyệt biến mất đằng sau rặng bạch dương, tôi không còn kềm nổi nước mắt. Tôi quị xuống trên nấm mồ của Selma, và khóc./.