Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.274
123.157.875
 
Nhà văn Nguyễn Khải khi chưa thành nhà
Vân Long

Tin nhà văn Nguyễn Khải ra đi làm tôi bàng hoàng! Đó là người bạn văn vong niên, tôi được sống cùng trong một mái nhà, năm chúng tôi mươi mừoi lăm tuổi! Gọi là bạn văn hình như chưa đúng lắm! Bạn văn thường là do đọc của nhau rồi mới tìm đến nhau, tìm đến rồi thì câu chuyện chủ yếu là tác phẩm này, tác phẩm nọ. Bạn đang viết trường ca ư? Còn tôi, mới xong phần I tiểu thuyết…Khi chúng tôi gần nhau đã ai nghĩ gì đến viết lách. Anh Khải hơn tôi 4 tuổi, mà vẫn “trẻ con” lắm! Mười bốn, mười lăm tuổi mà chỉ lớn xác, vẫn thích chơi trận giả với đám trẻ lên mười chúng tôi.

 

Đó là những năm 1943,44,45 và nửa đầu 1946 ở Hà nội. Gia đình tôi và gia đình anh Nguyễn Khải ở cùng một số nhà 4b, phố De Miribel, sau đổi là Trần Nhân Tôn, con phố có một đầu đường nhìn sang Chợ Hôm bên kia ngã tư Phố Huế - Trần Nhân Tôn.

 

Chúng tôi sống  gần nhau khoảng 4 năm, vậy là những năm ấy tôi là chú bé 9 đến 12 tuổi, anh Khải từ 13 đến 15 tuổi. Hai gia đình đều ở dạng neo đơn. Gia đình tôi chỉ có bà ngoại, bà nuôi hai chị em tôi, khi mẹ tôi tái giá sau gần chục năm ly hôn với ba tôi. Gia đình anh Khải cũng chỉ có ba mẹ con, ngoài bà mẹ, anh có một cậu em trai tên là Toàn, kém tôi chừng một hai tuổi.

 

Tôi cũng không còn nhớ gia đình nào đến ở trước, chỉ biết đó là một dẫy nhà hai tầng giống nhau, xây để cho thuê, mỗi gia đình thuê một phòng khoảng 24 mét vuông. Bốn gia đình (hai ở trên gác, hai ở dưới nhà) chung nhau một nhà vệ sinh, một cái sân chung. Gia đình anh Khải ở căn gác ngoài, đúng trên đầu căn phòng mặt tiền, nhà tôi thuê. Vì có mặt tiền, bà ngoại tôi tận dụng mở cửa hàng tạp hoá, để có tiền thêm cặp nuôi hai cháu ăn học. Tôi còn nhớ: bên phải bầy tủ kính tạp hoá, những xà phòng, khăn mặt…linh tinh, nhớ nhất là lọ đường phèn (trong đựng những tảng đường trong suốt màu vàng ngà mà tôi hay lục lọi, tìm những viên nhỏ vừa mồm, ngậm như ngậm kẹo). Bên trái bầy theo bậc thang từ thấp lên cao là những thúng gạo, đỗ xanh, đỗ đen, lạc, vừng…mà tôi sợ nhất lúc phải trông hàng một mình, thấy đàn dê của lão Tây đen chăn dê ngoài bãi cỏ bờ hồ Halais (Thiền Quang bây giờ) đi qua. Chúng như một bầy ăn cướp xông vào táp đầy mồm vừng với lạc, chẳng sợ gì cây gậy trong tay tôi với cây roi của lão Tây đen.

 

Còn gia đình anh Khải, cả xóm cứ gọi là nhà bà Huyện, cả ba mẹ con cứ trắng xanh ra, và đều tạng người gầy gầy, cao cao. Gọi là bà Huyện, vì bà là vợ một ông quan Huyện. Tất nhiên là có trợ cấp của chồng, nên không phải buôn bán gì, nhưng vẻ mặt của bà lúc nào cũng u buồn,  tôi cảm thấy bà khổ hơn những người dân nghèo trong xóm, họ còn có việc để làm, có sự vất vả để than thở, trò chuyện. Ông Huyện tất nhiên phải trọng nhậm ở một huyện ngoại thành hoặc tỉnh khác, nhưng hàng xóm bàn tán, nghe đâu ông Huyện lấy bà này làm lẽ, không thể sống công khai những năm ấy. Chuyện người lớn, chúng tôi chẳng quan tâm. Chưa bao giờ tôi thấy mặt ông. Thì cũng như ba tôi, hàng xóm của tôi có bao giờ thấy mặt ba tôi, dù ông là chủ một hiệu may có tiếng ở Tràng Tiền, chỉ cần đi bộ mươi phút…Dường như những căn phòng nhỏ bé cho thuê này chỉ để những hộ neo đơn, xộc xệch, “không đồng bộ” của dân Hà nội trú ngụ, ấy là tôi nghĩ như vậy hồi bé! (tôi rất thấm thía khi sau này đọc những dòng hồi ức của Nguyễn Khải: “những năm còn nhỏ tôi sống rất buồn. Những người thân nhất của tôi đều có số phận rất buồn. Họ gánh vác mọi nỗi buồn một cách nhẫn nhục, cam chịu và đã xem đó là định mệnh…”)

 

Anh Khải và tôi hợp nhau ở tính mê đọc truyện, và “thượng vàng hạ cám” loại sách gì cũng đọc. Từ loại sách riêng cho trẻ em như Sách Hồng, Truyền Bá, Hoa Mai, Hoa Xuân…từ tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đến loại trinh thám (Lệ Hằng với chí phục thù, Người nhạn trắng…)Đặc biệt được chúng tôi mê thích là loại sách Kiếm Hiệp, những Giao Trì hiệp nữ, Bồng Lai  hiệp khách…Chúng tôi ngốn sách rất nhanh: những cuốn khoảng hai trăm trang, thuê trên đường đi học. Thế rồi đọc lén, đọc vụng  cả trong giờ thày cô giảng bài, chỉ đến 2,3 giờ chiều là ngốn hết. Vậy là từ 3 giờ chiều đến tối khuya chả còn gì để đọc cả mà vẫn “mất oan” tiền thuê cả ngày. Chúng tôi liền có sáng kiến trao đổi sách cho nhau cùng ngày hôm ấy. Thế là một lần tiền, được đọc hai cuốn sách trong ngày. Đang đọc đến chỗ hay mà bị gọi ra ăn cơm thì...không gì khổ bằng, lúc ấy nếu được bà hoặc mẹ đồng ý, có thể nhịn ăn, đọc xong cái chương hấp dẫn ấy mới ăn.  Thế mà chúng tôi vẫn có lúc chơi với trẻ con hàng phố. Thường là anh Khải nghĩ ra trò, anh vừa hơn chúng tôi vài ba tuổi, vừa cao lênh khênh: “ Giả vờ tao là tiên ông đang tu luyện trên núi, chúng mày là lâu la xông lên chiếm núi để lập sơn trại.” Nhưng chơi đánh trận bao giờ anh cũng thua, mặc dầu đã chia thêm cho anh vài đứa giả làm tiểu đống hầu hạ. Anh thua vì anh nhát gan hơn chúng tôi. Cứ cho hai đứa xông lên cầu thang, mỗi đứa ôm gọn một bên chân cao nghều của anh, là anh sợ ngã kêu oai oái…Lúc bí quá, anh giơ cái chổi phất trần lên:

“Đây là chiếc phất trần có phép của tiên ông, khi phất lên chúng mày phải ngã ra bất tỉnh, nghe không! “

 

Sau này, khi hai đứa thành nhà văn, mỗi khi thấy anh “hạ sơn”…, đảm trách việc Hội nhà văn, gặp trắc trở là rút lui rất nhẹn, có thương tích gì anh cũng hoá giải thành chuyện nhẹ nhàng, để lại ẩn mình sau trang viết, để  một hai năm đã lại trình làng một cuốn tiểu thuyết mới, tôi cứ cười thầm nhớ đến thời niên thiếu của anh!

 

Dãy nhà cho thuê ấy, giống nhau như đúc một khuôn. Tôi biết là cùng một chủ cho thuê, vì hàng tháng cùng một người đến đòi tiền thuê nhà. Nhưng người này cũng là người làm công, chuyên đi thu tiền, nên tôi không biết chủ là ai. Mãi đến năm 1995, đúng nửa thế kỷ sau, nhờ có bộ ba cuốn Hà nội nửa đầu thế kỷ XX của cụ Nguyễn Văn Uẩn ra mắt, tôi đọc, mới biết dãy nhà từ số 2 đến số 8 Trần Nhân Tôn, chủ cho thuê là ông Lê Cường, chủ nhà in và nhà xuất bản, kiêm chủ nhà thuốc Hồng Khê.

 

Nhân đọc được chi tiết này, tôi đã viết một bài báo vui, có câu “Hoá ra ngay từ bé, anh Nguyễn Khải và tôi, các nhà văn chưa bước vào nghiệp văn, đã phải phụ thuộc vào ông chủ nhà xuất bản! Với riêng tôi thì còn một đận ông Nguyễn Kiên giám đốc NXB Hội nhà văn ký chia cho nửa căn hộ ở Thanh Xuân Nam. Khi bán hai nửa căn hộ để xây nhà mới thì không được tuổi, lại phải nhờ ông Lữ Huy Nguyên giám đốc NXB Văn Học được tuổi, đứng tên chủ xây từ khi làm lễ cuốc nhát đầu tiên đào móng nhà, rồi làm lễ đổ trần tầng một, tầng hai…đến khi xây xong nhà, làm “thủ tục tượng trưng ” bán nhà cho tôi. Thủ tục thì tượng trưng, nhưng trong phong bì, tiền mua nhà là tiền thật. Tôi cũng muốn nhân dịp, gọi là một chút tiền nho nhỏ thù lao công ông đi lại mấy lần mưa rét, có hôm lỡ cả một cuộc họp ở Bộ để đúng hẹn với tôi. Tôi rất phục phong thái của Lữ Huy Nguyên hôm đó. Ông điềm nhiên nhận phong bì tiền, cảm ơn tôi, rồi nói: “Thế là việc xây nhà, mua bán nhà đã xong, chúc ông có nhà mới! Bây giờ tôi biết ông có hai cháu, có cháu còn đang đi học nơi xa. Tôi tặng lại số tiền này để hai cháu lấy may, làm vốn!” Ông vẫn nhận tiền đàng hoàng, nhận để mà không nhận, với tinh thần hào sảng, vô tư giúp bạn.

 

Giai đoạn trước Cách mạng, anh Khải và tôi còn chung kỷ niệm những ngày tránh  bom Đồng minh truy kích quân đội Nhật. Hai gia đình chúng tôi chạy về nhờ sư cụ chùa Tó mạn Hà Đông. Lần đầu được sống ở nông thôn, trong ngôi chùa có khu vườn rất rộng, thật là thiên đường với lũ trẻ thành phố chúng tôi, với chỗ trốn tìm lý tưởng, ao rộng để câu cá, làm những cây nỏ xinh xinh bắn tên cắm vào thân cây chuối phầm phập, theo người lớn đi chợ Tó dọc theo bờ sông Nhuệ, bị ngỗng đuổi…Nhưng có một người  làm anh Khải nhớ nhất, đó là một chú tiểu nữ, tên Th., chạc 11,12 tuổi.

 

Chú Th. là một cô bé rất xinh, nói chuyện hóm hỉnh, khi cười thì phô cả lúm đồng tiền lẫn chiếc răng khểnh, các cô bạn học của chúng tôi ở Hà Nội có lẽ không ai được như vậy! Cô luôn dúi cho chúng tôi, những cậu bé thành phố, khi thì mấy trái ổi đào, khi thì trái khế ngọt. Anh Khải rất thích hỏi chuyện “cô bé”, tôi biết một thứ tình cảm trong sáng nào đó, có thể như là dạng tình yêu buổi sơ khai đã xuất hiện ở anh Khải. Thì mới hôm nào, chúng tôi đọc chung nhau cuốn tiểu thuyết có mối tình của chàng lãng tử với một ni cô đó thôi! Những chi tiết về “chú tiểu” Th., chính nhờ anh Khải nhắc lại khi chúng tôi gặp lại nhau ở Hội nghị nhà văn trẻ Thái Hà Ấp (1959) mà tôi nhớ lại như trên!

 

Tôi học ở vùng kháng chiến được vài năm, rồi phải theo gia đình về Hà nội (1950, lúc này bà ngoại đã yếu, phải “trao trả” tôi cho ba tôi).

 

Sống cô đơn giữa một gia đình lớn, tôi sợ ông bố như…cọp, các anh chị em hàng chục người là con hai bà khác của ba tôi. Tôi được “biệt đãi”, đi học ban ngày, buổi tối phải làm thợ gói chè (hãng chè Phú Xuân của ba tôi) đến 12 giờ đêm, sau thì phải nghỉ học hẳn để giúp cụ trông nom cửa hiệu may của gia đình ở Tràng Tiền…Niềm an ủi tinh thần chỉ còn là tình bạn với nhóm bạn văn thơ khi còn đi học (nhóm Hoa Phượng), sau chỉ còn tôi và nhà văn Băng Sơn ở nhóm này theo đuổi nghề viết (vì không biết làm gì khác). Tôi võ vẽ biết chút nghề cắt may âu phục, nhưng lại rất dị ứng với nghề này. Sau giải phóng thủ đô ít lâu, tôi mang đàn vào Đoàn nhạc giao hưởng thi thử, lại được chấp nhận, thế là được tiếng: xuất thân là nhạc sĩ violon dàn nhạc Giao hưởng…Thời gian này, chúng tôi đang coi Hoàng Công Khanh như một thần tượng, vì ông đang dàn tập, sau cho công diễn kịch thơ Bến nước Ngũ Bồ. Rồi vài tác phẩm như Bạn đường, Trại Tân bồi của ông còn đậm hơi hướng văn học vùng kháng chiến. Giao lưu với nhóm sáng tác học sinh khác thì quen được nhóm của Đông Mai (chị ruột Xuân Quỳnh, lúc đó Xuân Quỳnh chỉ là cô bé đang bận nhẩy dây ngoài sân khi chị tiếp bạn ).

 

Trong bốn năm vừa đi học, vừa nai lưng làm đủ mọi việc phụ giúp ba tôi,  tôi in thơ trên hầu khắp các báo của Hà nội tạm chiếm, đã quen tên, đã “có nghề”, chỉ có điều không dám chường mặt ra với các nhà biên tập, sợ họ coi là “trẻ con”, không in thơ cho nữa. Không biết báo biếu, nhuận bút là gì đã đành, mà còn bị “bóc lột” (cướp đoạt bản quyền) mà không dám kiện ai. Tôi còn nhớ cả năm cộng tác với tờ Thân Dân, trang văn nghệ thứ sáu do nhà văn Thượng  Sỹ phụ trách. Gần tết, viết được cái kịch thơ (để đọc) gửi cho báo này. Số Tết báo đó không thấy in, đã buồn. Nhưng lại gặp chính tác phẩm mình in ở Giai phẩm Xuân Đẹp, quảng cáo tên mình kèm với tên những Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương…Thời đó, Tết đến, các văn nghệ sĩ có thể xuất bản riêng một đặc san mừng Xuân, không phụ thuộc vào tờ báo nào, hẳn là ông Th.S. đã bán bản thảo cho nhóm đó.

 

Kể dông dài để “khoe”, mình cũng là một cây bút trẻ được chú ý, sau Giải phóng thủ đô là hòa nhập được ngay với các trang báo Văn Học (tiền thân báo Văn Nghệ), Độc Lập, Cứu Quốc…ở kháng chiến về. Năm 1957, khi tôi mới 23 tuổi, tôi được hai ông bạn vong niên, cùng hoạt động trong Hội Liên hiệp Thanh Niên Hà nội mời in chung một tập thơ tình Đường vào tim (Giang Quân, Lê Tám, Lê Tám lúc này là phó bí thư Thành đòan TNLĐ Hà nội).

 

Gặp lại Nguyễn Khải ở vuông sân cạnh hội trường Thái Hà Ấp với bộ quần áo bộ đội, đeo lon hình như thượng sĩ thì phải, sau khi bặt tin nhau từ độ tản cư khỏi Hà nội. Anh vẫn trắng trẻo, cao lêu đêu như không có những ngày kháng chiến. Chúng tôi gần như ôm lấy nhau mà sống lại cả một thời thơ ấu. Sau đó mới nghĩ đến “Ông này viết gì nhỉ ? Sao mình chưa nghe tên? Hay ông ký tên khác? Thú thật, tôi có chút tự thị: Chả gì mình cũng có đến chục năm in thơ trên báo,chỉ có điều dăm năm in báo trong Hà nội tạm chiếm chỉ là một dấu trừ, không tính, dẫu đó chỉ là những bài thơ về thiên nhiên, tình yêu có chút lãng mạn, có chút nuối tiếc những ngày học ở vùng kháng chiến…Tôi vẫn giữ bút danh cũ, không việc gì phải đổi tên như một số cây bút từng viết những bài đáng xấu hổ trong vùng địch. Còn anh Khải, chắc cũng như một số bạn tôi mới quen trong tổ của tôi ở Hội nghị này, có người chỉ viết tin, bài báo ở một số đơn vị quân đội. Thậm chí, có người (như chị Hoàng thị Rủ) công nhân nhà máy dệt Nam Định còn…chưa biết chữ! Nói không ai tin, nhưng chắc những bạn đã từng dự Hội nghị người viết trẻ lần đầu còn nhớ hiện tượng ấy: Chị kể hồn nhiên: Tôi chỉ làm ca dao, hò vè ứng khẩu là nhanh, học bình dân đến nửa năm mà vẫn…chữ nọ sọ chữ kia. Giấy của Liên Hiệp Công đoàn thành phố gửi về: Phải cử một người biết sáng tác đi dự Họp ở Hà nội, giai cấp công nhân của một nhà máy dệt nổi tiếng không thể không có người biết sáng tác!” Thì ra ngoài những người trẻ có chút tên tuổi trên báo chí, được mời đích danh, còn lại thì…được cử đi như đại diện cho phong trào sáng tác quần chúng, “đi học để về truyền đạt lại”. Anh Khải chắc cũng là người được đơn vị cử đi như vậy (!)

 

Chưa kể đến một việc gây ấn tượng trước khi tôi gặp lại anh Khải:

Đó là cuộc gặp anh Toàn! Buổi giao thời Hà nội vừa được giải phóng, tôi mở một hiệu mua bán sách cũ, trao đổi sách y học.  Đang đứng bán hàng, một hôm có một nhà sư trẻ đi vào, tôi chưa kịp hỏi xem nhà sư cần sách gì thì ông đã reo lên “ Anh Thông! “(tên gọi thuở nhỏ của tôi) tôi qua phố này luôn mà hôm nay mới thấy anh! Chắc anh mới mở hiệu sách ở đây?”. Hoá ra đó là Toàn, em ruột anh Khải. Hàn huyên mới biết: Khi anh Khải vào bộ đội, làm y tá cho Tỉnh đội Hưng Yên, bà mẹ yếu, Toàn phải đưa mẹ trở về Hà nội chăm sóc. Để tránh bị bắt đi lính cho Pháp, Toàn phải nương thân ở một ngôi chùa. Sau anh Khải ở kháng chiến về, Toàn mới bỏ áo “cà sa” làm sinh viên Đại học thuỷ lợi.

Căn cứ vào phẩm chất yếu ớt, hiền lành, cao nhã của hai anh em Khải, Toàn hồi bé, nếu không có cuộc kháng chiến đảo lộn mọi cách sống, tôi gặp lại anh Khải với bộ áo nhà sư như Toàn, chắc cũng không có gì phải ngạc nhiên.

 

Với cách nghĩ có chút tự thị căn cứ vào những lý do như trên, nên tôi kinh ngạc xiết bao khi anh Khải trả lời tôi: “Mình vừa in Xung đột tập I, đang chỉnh lại tập II…” Tôi gần như lùi lại một bước để nhìn kỹ anh,  để biết anh Khải ngày xưa chính là nhà văn Nguyễn Khải vừa cho in Xung đột tập I, mà tôi vừa đọc vừa khâm phục, đinh ninh ngoài tài năng, tác giả phải là người theo đạo gốc mới hiểu người công giáo, xứ công giáo như vậy! Không thể ngờ được đó là anh Nguyễn Khải “tiên ông”, “hồn bướm mơ tiên” ngày nào cùng tôi ngập đầu vào mớ sách táp nham. Hoá ra tôi chỉ được chứng kiến giai đoạn gieo mầm của nhà văn, hoàn cảnh kháng chiến đã chọn lựa giúp anh những hạt mầm tốt, (thí dụ hầu hết tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn anh đã đọc ngay từ dạo 13,14 tuổi) cho phát triển sang một hướng khác! Đúng như anh từng viết (mà không hề tỏ ra khuôn sáo như một số trường hợp ôn nghèo kể khổ khác)” nếu không có Cách mạng tháng Tám thì đời mình sẽ ra sao nhỉ? Chắc chắn tôi vẫn là người lao động lương thiện, nhưng tầm thường, xoàng xĩnh hơn bây giờ nhiều. Bởi vì tôi tự biết có những nhược điểm rất lớn, lại thêm chỗ đứng ban đầu thua kém, khó có thể tự đẩy lên cao hơn cái biển người thờ ơ của một xã hội sôi động…”

 

Nhà lãnh đạo Hội nhà văn Nguyễn Khải

 

Rồi sau, lại chính anh gợi ý cho tôi viết đơn xin vào Hội nhà văn, khi tôi thấy việc đó còn xa vời lắm, tôi vào Hội với sự giới thiệu của anh (năm 1980). Sau này giữa những kỳ họp Hội nhà văn, anh rủ tôi đi thăm lại căn nhà cũ phố Trần Nhân Tôn và nhất là thăm lại chùa Tó, tìm lại tung tích chú tiểu xinh đẹp ngày nào.

 

Khi chúng tôi lơ ngơ đến cửa ngôi nhà số 4b Trần Nhân Tôn,chưa kịp nghĩ ra lý do hợp lý để “tiềm nhập”, tìm lại những góc kỷ niệm xưa,

 

thì đã có tiếng reo từ trong căn phòng mặt tiền của tôi: “A! Anh Nguyễn Khải! Nhà văn tìm nhà ai mà quá bộ đến đây thế?” Anh Khải đáp lại sự vồn vã của người đàn ông với cái bắt tay nồng nhiệt, nhưng hình như  chưa nhận ra mình đã gặp người này trong dịp nào, thì chúng tôi đã được kéo vào trong nhà, chủ nhân pha trà mời. Trong khi hai người bận nhớ lại lần gặp nhau, thì tôi mặc sức săm soi từng góc “nhà tôi”, hiện lên từng kỷ niệm thân thương. Ở khung cửa vào sân trong, như còn thấy lờ mờ vết dao vạch đo chiều cao của hai chị em tôi từng thời gian, mong lớn nhanh để thành “người lớn”. Nhưng rõ nhất là tên cửa hiệu tạp hoá mang tên hai chị em, như vẫn còn lờ mờ sau mấy lần vôi quét không kỹ, hay đó là óc tưởng tượng của tôi đã mường tượng ra như vậy!

 

Khi tôi tuởng phải vòng vo một cớ gì để có thể lên gác thăm lại căn buồng cũ của mẹ con anh Khải cho người ta khỏi cười hai anh chàng dở hơi, thì anh Khải đã nói thẳng ra lý do thật của hai chúng tôi. Vẫn cái tính thẳng thắn, bộc trực từ hồi bé! Chỉ tiếc rằng người chủ nhà trên gác sống độc thân, cứ đi đâu suốt ngày, tối khuya mới về!

 

Lần thăm lại chùa Tó thì anh Khải “thu hoạch” lại nhiều hơn tôi,

bằng cách hỏi han chân thành, quan tâm một cách thiện tâm tới người được tìm hiểu, anh tỏ ra từng trải hơn tôi rất nhiều, không chỉ vì anh hơn tôi ba bốn tuổi! Thì ra “chú” Th. vẫn là một sư nữ khi trưởng thành. Vùng này quá gần Hà nội, là vùng tạm chiếm nhiều năm, nên bộ áo nâu sồng chắc có phần an toàn hơn với “chú”, kể cả muốn sống yên phận hay hoạt động gì đó cho cách mạng. Đến thì con gái, hẳn là “chú” đẹp lắm! Đó cũng là lý do chúng tôi quan tâm đến số phận của người con gái này, nhất là anh Khải, người hẳn là có những tình cảm đặc biệt hơn tôi, khi tôi vẫn còn trẻ con như cô bé!..

 

Chỉ khi địa phương thành lập hợp tác xã, Th. được cử làm kế toán cho Hợp tác xã ít lâu, cô mới “hoàn tục”, lấy một người đàn ông goá vợ, hai vợ chồng đưa nhau lên miền núi làm ăn, trong một đợt vận động khai hoang, hình như cũng để tránh điều tiếng thị phi nào đấy!…Anh Khải ghi chép khá kỹ, liệu sau này anh có tìm hiểu được thêm gì về tung tích “người đẹp” buổi thiếu thời của chúng tôi không? Số phận cô, hẳn không chỉ đơn giản có thế! Không phải chúng tôi hay tưởng tượng, tiểu thuyết hoá mọi sự, mà chuyện đời, nhiều khi gây bất ngờ còn hơn những điều ta có thể tưởng tượng ra!

Khi anh Khải là phó Tổng thư ký Hội nhà văn khoá 3, đại biểu Quốc hội khoá VII, thấy tôi còn lận đận xa gia đình đến 15 năm, đã ở “cửa ngõ thủ đô” rồi mà chưa được về làm việc ở Hà nội, anh đã khuyên tôi nên về làm ở Ban sáng tác Hội, do anh đang chấn chỉnh lại.Tất nhiên tôi ký cả hai tay, nhưng Hà Đông nổi tiếng giữ người, làm sao họ nhả tôi ra? Nhưng tôi tin vào uy tín nhà văn và chức nghị sĩ Quốc hội của anh Khải, nên cứ đề đạt với Ty văn hoá Hà Sơn Bình nguyện vọng chính đáng của mình. Tất nhiên họ không đồng ý, lấy cớ cần người để thành lập Hội Văn Nghệ Tỉnh. Thế là anh Khải tự thân vào Hà Đông đến 3 lần, có lần chỉ đi chiếc xe đạp, yên xe lên cao đến hết cỡ, (đó  là lần kết hợp vào thăm lại chùa Tó) gặp thủ trưởng trực tiếp của tôi là ông Quách Vinh, phó ty Văn hoá, thuyết phục ông cho tôi chuyển ra Hà nội. Ông Quách Vinh rất mừng đón tiếp nhà văn ông vốn kính phục, lại vào thăm ông với cách bình dân như vậy.

 

Nhưng đến lần thứ ba, Nguyễn Khải đặt vấn đề với Quách Vinh, thì ông này buộc phải nói “ Tôi rất quý mến và kính trọng nhà văn, nhưng đụng đến nguyên tắc xử dụng cán bộ của Tỉnh là tôi không dám vi phạm. Lần sau anh vào chơi là quý, nhưng xin đừng đụng đến vấn đề này nữa!”

 

Còn với tôi, sau đó ông nửa thật, nửa đùa “ Ông Vân Long ạ! Ông có bước qua …xác tôi, ông mới về được Hà nội!” Thế mà, chỉ sau đó vài tháng, vài dòng viết tay của Bí thư Tỉnh ủy gửi cho ông về việc bật đèn xanh chuyển công tác cho tôi, ông đã thay đổi ngay thái độ, ký quyết định cho tôi về Hà nội một cách vui vẻ, sởi lởi…

 

Nhưng hỡi ơi! lúc này thì người đỡ đầu của tôi đã thôi…chấp chính, đã lẩn vào trang viết của ông mà coi mọi chuyện chính trường của Văn Nghệ như áng phù vân, Hội nhà văn với chính quyền khác, đã có cơ chế khác! May thay! ông Ngô Quân Miện vẫn có ý chờ tôi về giúp ông làm trang Văn Nghệ báo Độc Lập, để 8 năm sau tôi mới về cơ quan cấp II của Hội là NXB Tác phẩm Mới…

 

Hẳn là trong đời, Nguyễn Khải cũng muốn làm một cái gì đó cho

tổ chức Hội, giúp một ai đó, khi có cơ hội và hoàn cảnh, nhưng rủi thay, và cũng may thay! Anh chỉ biết viết văn, cách duy nhất và cao nhất anh hành thiện giúp đời!

 

(Những người…”rót biển vào chai”, NXB Phụ nữ 2010)

 

 

Vân Long
Số lần đọc: 2216
Ngày đăng: 14.07.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Cùng một lứa bên trời… - Vân Long
Khi nhà toán học bắc chiếc cầu thơ... - Thái Doãn Hiểu
100 Năm “Vang Bóng Một Thời” - Đoàn Minh Tuấn
Nhà thơ Hoàng Tố Nguyên một ấn tượng Nam Bộ - Vân Long
90 Năm Tác Giả “Dế Mèn” Tô Hoài - Đoàn Minh Tuấn
Quách Tấn , Người giữ đền tài hoa - Lê Ngọc Trác
La Nhiên, Người Nhạc Sĩ Tài Hoa Một Thời… - Mang Viên Long
Thạch Quỳ - Người nuôi ảo mộng giữa chiêm bao - Thái Doãn Hiểu
Nhà kỹ nghệ và doanh nghiệp Việt nam - Trương Văn Bền (1884-1956) - Nguyễn Đức Hiệp
Hoàng Cầm – Thi Sĩ Kinh Bắc thuộc Dòng Mậu Hệ -tt - Thái Doãn Hiểu