Thời gian gần đây trên báo chí đôi lúc xuất hiện những bài viết về cuộc đời các nhà văn nhà thơ nổi tiếng với những thông tin có vẻ lần đầu được đưa ra với công chúng; tác giả những thông tin ấy thường bảo rằng đây là chuyện của chính tôi, hoặc chuyện của danh nhân người nhà tôi, nghĩa là rất đáng tin cậy! Thế nhưng nghĩ kỹ lại, người ta vẫn thấy những bất ổn kèm theo các thông tin ấy. Vậy làm sao có thể biết được rằng các thông tin về quá khứ kia là đúng hay là sai?
Theo lẽ thường, để có thể tin cậy được, ngay các “chuyện thật ngày xưa” do chính người trong cuộc kể lại cũng cần được kiểm chứng. Vì sao ư? Vì sự kiện của quá khứ được kể lại chậm dăm bảy năm, thậm chí vài chục năm, là loại sự kiện mà trí nhớ con người vừa khôi phục nó vừa làm méo nó. Trí nhớ không giống như chiếc thẻ ghi hình hay ghi tiếng ta biết hiện giờ. Cơ chế của trí nhớ thường là vừa giữ lại vừa làm khúc xạ cái mà nó lưu giữ; và mỗi khi cần tái công bố một dữ liệu của quá khứ, trí nhớ người ta sẽ diễn đạt theo cách vừa phục hoạt nó lại vừa hư cấu nó. Tóm lại, cái dữ kiện quá khứ mà người ta được biết qua những “hồi ức kể muộn” là khá ít đáng tin cậy; muốn tin được tình tiết nào cần phải kiểm tra tình tiết ấy. Kiểm tra bằng cách nào? Bằng đối chiếu với tư liệu nguồn (là tư liệu đương thời của những “ngày xưa” ấy) hoặc với các tư liệu thứ sinh (ví dụ hồi ức của những người cùng thời khác).
Để cụ thể hoá những điều nói trên, xin đi vào một vài trường hợp, tốt nhất là chọn được những trường hợp có liên quan đến một vài nhân vật mà nhiều người nghe biết. Xin nói đến nhà thơ Xuân Diệu (1916-85).
Vừa năm ngoái, người tự thông báo là “thừa kế duy nhất của nhà thơ Xuân Diệu”, ông Cù Huy Hà Vũ, trong bài Có một Xuân Diệu nhà báo (www.tintuconline.com.vn/vn/vanhoa 12/8/2007), bên cạnh những tài liệu mà chỉ “người trong nhà” (thân nhân) mới có thể có để công bố, như một số bức ảnh quý hiếm chụp bộ đôi Huy-Xuân cùng Xuân Như em gái Xuân Diệu (cũng có thể gọi đó là ảnh vợ chồng Huy Cận-Xuân Như chụp cùng ông anh vợ là Xuân Diệu), ảnh Xuân Diệu chụp cùng mấy thành viên Tự Lực văn đoàn, ảnh tấm thẻ nhà báo của Xuân Diệu với tư cách phóng viên tờ “Tiên phong” (chữ TIÊN không có dấu huyền) của Hội Văn hoá Cứu quốc năm 1945, v.v… Vâng, các tư liệu ấy rất quý; nhưng bên cạnh đó trong bài lại có những thông tin rất … khó tin, chẳng hạn:
− …”lúc đó (?) với tư cách là thư ký của báo Văn, tiền thân của báo Văn nghệ, Xuân Diệu đã cho đăng các tác phẩm của Phan Khôi, Thụy An” …. kết quả là Xuân Diệu bị “cách” khỏi ban phụ trách tờ Văn bằng cách được cử làm trưởng đoàn nhà văn đi thăm nước bạn Hungary;
− … năm 1970, Xuân Diệu được cử phụ trách tờ Tác phẩm mới của Hội nhà văn, đã bị phê bình vì cho đăng bài tuỳ bút “Phở” của Nguyễn Tuân”; v.v…
Lại vừa đây trên báo Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 162 (tháng 7/2008) cũng Cù Huy Hà Vũ với bài Có một Xuân Diệu – nhà báo cách mạng (tr. 45-47), tương tự bài trên báo điện tử tintuconline kể trên (chỉ bỏ qua phần Xuân Diệu làm báo trước 1945), tuy đã không còn giữ lại chi tiết cho rằng Xuân Diệu là người cho đăng tuỳ bút Phở của Nguyễn Tuân, nhưng tác giả bài báo lại đưa ra như khẳng định một sự kiện: cho rằng khi phụ trách tờ Tác phẩm mới, Xuân Diệu “lại bị chỉ trích vì cho đăng những bài không thật “lập trường” cho lắm”, và để cách chức ông, đưa ông về quy chế “viết văn chuyên nghiệp”, người ta đã “tạm ngừng xuất bản” tạp chí Tác phẩm mới từ số tháng 2/1976, mãi đến tận tháng 1/1987, tức 2 năm sau khi Xuân Diệu mất (18/12/1985) mới tục bản dưới tên gọi Tác phẩm văn học (về sau đổi lại là Tác phẩm mới và nay là tạp chí Nhà văn)!
Về mấy thông tin này, những ai bây giờ đang ở trạc 60 tuổi hẳn đều thấy việc cho rằng “báo Văn là tiền thân của báo Văn nghệ “ − đã là chuyện sai lầm quá rõ.
Tuần báo Văn chỉ mới ra số đầu vào ngày 20/5/1957, với tư cách cơ quan của Hội Nhà văn khi đó vừa được thành lập; làm sao có thể là tiền thân của tờ Văn nghệ, cơ quan của Hội Văn nghệ Việt Nam, vốn ra mắt từ năm 1948 ở Việt Bắc?
Bài tuỳ bút nhan đề Phở của Nguyễn Tuân được đăng lần đầu ngay ở số 1 và số 2 của tuần báo Văn, đâu cần đợi chờ hơn 10 năm sau nữa mới được Xuân Diệu cho đăng lênTác phẩm mới để “bị phê bình”?
Và tiếp theo, người ta có thể ngờ vực các chi tiết “hồi ức” (2007-8) khác nữa của Cù Huy Hà Vũ, như chuyện liệu có phải Xuân Diệu đã là người đưa đăng tác phẩm của Phan Khôi, Thụy An (hồi nào? 1956 chăng?)… Còn việc Hội Nhà Văn VN vào năm 1976, ngừng Tác phẩm mới dưới dạng tạp chí để chuyển đổi nó thành nhà xuất bản, lại được Cù Huy Hà Vũ giải thích như chỉ là nhằm cách chức tổng biên tập của Xuân Diệu, thì quả là một hư cấu quá quy mô! Quá quy mô ở chỗ nó bao trùm cả 2 sự việc: việc ngừng Tác phẩm mới dạng tạp chí để chuyển thành nhà xuất bản vào năm 1976 vốn được nhiều người biết tới như cách “qua mặt” ông Như Phong - chủ NXB Văn học lúc đó đang tỏ ra “xấu chơi” không chịu in sách cho mấy nhà văn vai vế; còn việc lập ra tạp chí Tác phẩm văn học vào năm 1987 vốn được nhiều người biết tới như cách mà Nguyễn Đình Thi tạo ra phương tiện để đối phó với tuần báo Văn nghệ lúc ấy đang nằm trong tay Nguyên Ngọc. Hãy thử hỏi những người đã cao tuổi mà đến lúc này (tháng 8/2008) còn khoẻ mạnh tỉnh táo như Tô Hoài, Vũ Tú Nam, Nguyễn Quang Sáng, v.v… và cả Nguyên Ngọc nữa, xem sự thể những chuyện đó ra sao?
Tất nhiên, chạy theo để “đính chính” các chi tiết lẻ tẻ như nêu trên,b có thể sẽ mãi mãi làm không hết những việc… vặt! Tôi nghĩ có một cách làm khả thủ hơn, là hãy để công tìm hiểu xem, trong một đoạn thời gian nhất định, Xuân Diệu như một tác gia, một nhà hoạt động trong giới văn nghệ, đã làm những gì. Tài liệu để tìm hiểu có thể là cả những hồi ức sớm hoặc muộn khác nhau của những người cùng thời hoặc hậu thế có liên quan, nhưng không thể bỏ qua nguồn tài liệu là sách báo xuất bản trong chính thời gian ấy, − một loại bằng chứng có từ đương thời mà nay vẫn còn lại đó, ít khả năng phản phúc hơn bất cứ loại nhân chứng nào khác. Nói đúng ra, cách làm này là một hướng rất nên theo, khi người làm nghiên cứu văn học tiếp cận một tác gia cụ thể, hoặc người làm nghiên cứu sử học tiếp cận một nhân vật lịch sử cụ thể.
Theo cách này, tôi sẽ thực hiện một ví dụ là tìm hiểu hoạt động của Xuân Diệu trong những năm 1954-58.
*
1. Xuân Diệu làm việc trong toà soạn tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam ở Việt Bắc từ 1948, bên cạnh những thành viên khác của toà soạn là Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyễn Tuân. Ở số tạp chí Văn nghệ sau cùng trước khi các văn nghệ sĩ cùng hầu hết các lực lượng kháng chiến cấp trung ương đóng ở Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội, tức là ở tạp chí Văn nghệ số 56 (tháng 10/1954), Xuân Diệu đứng tên dưới bức thư gửi giới nhà văn nhà thơ đang sống trong Hà Nội từ thời tạm chiếm, bên cạnh thư đứng tên Trần Văn Cẩn gửi các hoạ sĩ, thư đứng tên Nguyễn Cao Luyện gửi giới kiến trúc sư.
Trở về Hà Nội, tạp chí Văn nghệ đổi thể tài, từ dạng tạp chí chuyển sang dạng báo (mỗi số khoảng từ 8 đến 12 trang khổ 34x45 cm, nay gọi là khổ A3). Ban đầu, từ 1/11/1954, định kỳ dạng bán nguyệt san, đánh số từ số 57 (tiếp tục 56 số đã ra từ 1948 đến 10/1954), ra vào các ngày 1 và 15 hàng tháng; từ đầu tháng 2/1955 Văn nghệ ra 3 kỳ/1 tháng; từ đầu tháng 7/1955, Văn nghệ ra hàng tuần.
Toà soạn báo ban đầu đóng ở 51 Trần Hưng Đạo, từ số 76 (7/7/1955) chuyển đến số 6 Quang Trung. Thành phần toà soạn (ghi trên manchette mỗi số báo) gồm: Trần Văn Cẩn, Xuân Diệu, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Cao Luyện, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi. Thư ký toà soạn từ số 57 đến số 80 (4/8/1955) là Xuân Diệu.
Từ số 81 (11/8/1955) thành phần toà soạn, ngoài số người như trên, còn có ghi thêm tên Tú Mỡ; thư ký toà soạn là Nguyễn Đình Thi.
Chỗ này cần ghi chú thêm rằng, theo cách cấu tạo thành phần chủ trì một tờ báo “đoàn thể” như tạp chí Văn nghệ từ hồi ở Việt Bắc thì cơ quan này không có các chức danh chủ nhiệm hay chủ bút; vì vậy, thư ký toà soạn giữ vai trò quan trọng nhất trong hoạt động chuyên môn của một cơ quan báo chí, tương tự chức danh Tổng biên tập hiện nay.
Từ số 121 (17/5/1956) Văn nghệ thay đổi thành phần toà soạn; các thành viên của toà soạn mới gồm: Văn Cao, Xuân Diệu, Tế Hanh, Bùi Hiển, Nguyên Hồng, Tú Mỡ, Chu Ngọc, Sỹ Ngọc; thư ký toà soạn: Nguyễn Đình Thi; thành phần này được giữ nguyên cho đến tận sau Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai (từ 20 đến 28/2/1957), khi Văn nghệ dạng tuần báo tạm dừng lại ở số 162 (1/3/1957) để chuyển đổi tổ chức (sẽ trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam vừa thành lập) và thể tài (sẽ chuyển sang thể tạp chí từ tháng 6/1957).
Như vậy, với tờ báo Văn nghệ thời đầu khi mới trở về Hà Nội (tháng 11/1954 – tháng 3/1957), Xuân Diệu có một thời gian ngắn tiếp tục làm thư ký toà soạn, sau được thay bằng Nguyễn Đình Thi, nhưng Xuân Diệu luôn luôn là thành viên toà soạn. Sau khi Nguyễn Đình Thi thay thế Xuân Diệu ở vai trò thư ký toà soạn, quả là báo Văn nghệ (số 82, ngày 18/8/1955) có đưa tin “nhà thơ Xuân Diệu cùng nhạc sĩ Tạ Phước lên đường đi Hungary hôm 15/8/1955 để dự lễ kỷ niệm 10 năm Cách mạng Việt Nam ở Budapest và nghiên cứu văn học nghệ thuật nước bạn”. Ngoài ra, cũng đừng nên quên rằng thời gian này Xuân Diệu vẫn đang là đại biểu quốc hội khoá 1, cho đến năm 1960 mới mãn nhiệm.
Trong thời gian Xuân Diệu giữ vai trò thư ký toà soạn Văn nghệ nói trên (từ 1/11/1954 đến 4/8/1955), có thể thấy báo đã đăng bài vở sáng tác của rất nhiều tác giả, kể cả những tác giả sau đó ít lâu sẽ can dự Nhân văn – Giai phẩm, nhưng ngoại trừ một số bài viết tham gia thảo luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu có thể cho là “có vấn đề”, còn lại, những bài viết khác hầu như không “có vấn đề” gì cả; khó có thể nhận định rằng thư ký toà soạn Xuân Diệu đã bị khiển trách vì cho đăng các bài vở đó.
Chính trong thời gian Xuân Diệu làm thư ký toà soạn Văn nghệ, cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc và tiểu thuyết Vượt Côn Đảo đã làm sôi nổi không khí văn nghệ miền Bắc ngay sau hoà bình lập lại.
Tập thơ của Tố Hữu phát hành vào giữa tháng 12/1954 thì ngay đầu năm mới, Xuân Diệu đã cho đăng bài viết khá dài của mình liền trong 2 kỳ báo Văn nghệ (số 62 ra ngày 15/2/1955 và số 63 ra ngày 28/2/1955) nhan đề Đọc tập thơ Việt Bắc. Có lẽ trong việc lên tiếng chào đón tập Việt Bắc thì bài của Xuân Diệu chỉ chậm hơn duy nhất so với bài của Xuân Trường đăng báo Nhân dân số Tết. Theo dõi kỹ tin tức, ta còn biết trong thời gian này, Xuân Diệu ít nhất có 2 lần đi nói chuyện về thơ Tố Hữu với sinh viên. Nhân tập Việt Bắc, Xuân Diệu điểm lại cả đời thơ Tố Hữu tính đến lúc đó,
“Con đường ngót 20 năm nay Tố Hữu đã đi là một con đường vinh quang kỳ diệu. Chỗ kỳ diệu lớn lao là nhà thi sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng làm thơ, và thơ rất thành công” ….. “Cách mạng càng ngày càng thắng lợi, càng to lớn, đồng thời càng đưa tài thơ của Tố Hữu nở dần đến chỗ tròn đầy, lộng lẫy. Đó là sự tương quan mật thiết giữa hành động và văn chương mà Tố Hữu là điển hình đẹp nhất.”
Tất nhiên Xuân Diệu không quên chỉra những nhưc điểm của tác giả tập thơ Việt Bắc như “nặng về tình cảm xã hội mà hầu như không nói đến những tình cảm của cá nhân”, “con người cán bộ trong Tố Hữu bao trùm con người thường”, “nặng về tổng hợp”… “bỏ mất những nỗi niềm của mỗi một con người, của mỗi cá nhân trong quần chúng”.2
Ngoài vai trò một nhà phê bình như trên, Xuân Diệu trong vai trò thư ký toà soạn báo Văn nghệ hẳn cũng đã giữ vai trò chính trong việc cho đăng hầu hết các bài tham gia thảo luận về tập thơ Việt Bắc. Nếu nói đến phần trách nhiệm (cần phải đưa ra để kiểm điểm chẳng hạn), thì trong số những bài đó có lẽ cần lưu ý trước hết là những bài đánh giá tiêu cực về tập thơ, ví dụ của Hoàng Yến (Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không? // Văn nghệ số 65, ngày 11/3/1955; bài này vốn đăng tập san Sinh hoạt văn nghệ, tiền thân tạp chí Văn nghệ quân đội, đồng thời cũng đã đăng báo Nhân dân trong các ngày 3, 4, và 5/4/1955), của Hoàng Cầm (Tập thơ Việt Bắc ít chất sống thực tế // Văn nghệ số 67, ngày 1/4/1955; Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ Việt Bắc // Văn nghệ số 70, ngày 1/5/1955), của Lê Đạt (Giai cấp tính trong thơ Tố Hữu // Văn nghệ số 68, ngày 11/4/1955); của Nguyễn Văn Phú (Vài điểm non yếu trong nghệ thuật tập thơ Việt Bắc // Văn nghệ số 69, ngày 21/4/1955).
Tất nhiên, số bài đánh giá tích cực, đánh giá cao và rất cao tập thơ của Tố Hữu mà toà soạn Văn nghệ cho đăng vẫn nhiều hơn hẳn, trong đó có bài viết của các nhà văn có tên tuổi và cũng đang có thế lực như Xuân Diệu, Hoài Thanh, Tú Mỡ, Nguyễn Đình Thi, v.v…, của các nhà văn có tên tuổi nhưng ít thế lực như Nguyễn Viết Lãm, Vũ Đình Liên, Đông Hoài, của các cán bộ chính trị như Xuân Trường, Trần Độ, Minh Tranh,… của những bạn đọc vô danh mà mà về sau sẽ có người thành danh (Phan Cự Đệ, Hoài Việt, Thẩm Lăng, Trọng Anh); điển hình về sự nhiệt tình đến mức gần như cuồng tín trong số đó là một cây bút mà về sau, khi trở nên hữu danh, sẽ được ghi nhận như cây bút “rắn” nhất, như gương mặt thô bạo hạng nhất, và, − nhờ những ứng xử trong sự kiện này chăng − về sau sẽ trở thành một quan chức có thế lực trong bộ máy quản lý ngành khoa học xã hội: Vũ Đức Phúc.
Việc báo Văn nghệ thay Xuân Diệu ở vị trí thư ký toà soạn bằng Nguyễn Đình Thi xảy ra khi Văn nghệ đăng đến kỳ thứ 3 bài của Nguyễn Đình Thi viết về tập Việt Bắc (Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng // Văn nghệ số 77, ngày 14/7/1955; Lập trường giai cấp và đảng tính, vấn đề hiện thực và lãng mạn // Văn nghệ số 78, ngày 21/7/1955; Nhà thơ lớn lên với thời đại // Văn nghệ số 79, ngày 28/7/1955); và Văn nghệ ở thời bắt đầu với thư ký toà soạn Nguyễn Đình Thi sẽ đăng bài Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc của Hoàng Trung Thông (Văn nghệ số 81, ngày 11/8/1955; Nhân dân, ngày 11/8 và 12/8/1955).
Như vậy, nhân điều nói trong bài của Cù Huy Hà Vũ (2007), người ta nếu muốn cũng chỉ có quyền suy luận ở mức độ như sau: việc Xuân Diệu thôi (hoặc bị thay) chức thư ký toà soạn báo Văn nghệ hồi tháng 8/1955 có thể có liên quan đến việc thư ký toà soạn Xuân Diệu đã cho đăng những bài đánh giá tiêu cực tập thơ Việt Bắc (đã dẫn trên). Nhưng nhìn rộng hơn, cần thấy rằng việc đó liên quan đến việc báo Văn nghệ − và các cán bộ phụ trách ban Văn của Hội Văn nghệ Việt Nam khi đó − chỉnh sửa cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc, can thiệp vào tiến trình thảo luận.
Việc thảo luận về tập thơ này của Tố Hữu vốn xuất phát từ những buổi thảo luận mang tính chất “câu lạc bộ” tại Phòng Văn nghệ quân đội hồi đầu năm 1955 về hai tác phẩm vừa xuất bản: một là tiểu thuyết Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, một nữa là tập thơ Việt Bắc cuả Tố Hữu. Các báo Văn nghệ và báo Nhân dân xem đây là dịp tốt để đẩy mạnh phong trào phê bình văn nghệ, đã chọn một bài tại cuộc thảo luận ở văn nghệ quân đội (bài của Hoàng Yến, đăng lần đầu trên tờ Sinh hoạt văn nghệ số 35) đăng lại ở báo nhà và lên tiếng mời bạn đọc tham gia thảo luận, do đó đã tạo nên một sinh hoạt văn nghệ tương đối sôi nổi tại thành phố mới tiếp quản. Rất có thể vì báo Văn nghệ đăng một số bài thiên về chê thơ Việt Bắc của Tố Hữu (nhất là các bài của Hoàng Cầm, Lê Đạt) nên những người đứng đầu Hội Văn nghệ và ban Văn của Hội đã nhận ra cuộc thảo luận đã hơi quá đà và vội ra tay chỉnh hướng thảo luận: đăng nhiều bài khen ngợi, nhất là loạt bài của Nguyễn Đình Thi, rồi nhanh chóng đăng bài của Hoàng Trung Thông, coi như ý kiến kết thúc chung cho cả hai báo Văn nghệ và Nhân dân về cuộc thảo luận này.
Khoảng 4 tháng sau, nhân kiểm điểm tình hình văn nghệ năm 1955, Hoài Thanh trong vai trò một người “lãnh đạo văn nghệ” (lúc này ông đang là Vụ trưởng vụ nghệ thuật, bộ Văn hóa, đồng thời là ủy viên thường vụ Hội Văn nghệ VN), nhận xét: “Về mặt phê bình cũng phạm nhiều sai lầm thiếu sót. Công tác phê bình ít được chú ý. Thỉnh thoảng có một cuộc phê bình như cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc thì lại có tính chất tự phát, thiếu chuẩn bị, thiếu mục đích rõ ràng, thiếu kết hợp với yêu cầu đấu tranh chính trị và tư tưởng” (Hoài Thanh: Nhìn lại hoạt động văn nghệ một năm qua // Nhân dân, ngày 29/1/1956, tr.3).
Ý kiến trên là nhận định từ phía người quản lý; còn ý kiến nhận xét về cuộc thảo luận ấy từ phía những người bị quản lý thì ta thấy bộc lộ muộn hơn. Trong không khí góp ý kiến phê bình lãnh đạo văn nghệ và chuẩn bị cho Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2, tức là từ cuối tháng 8/1956, trong dư luận đăng báo mới có những lời ta thán rằng những người chủ trì báo Văn nghệ đã kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc một cách “quá vội vã”, “chưa thoả mãn quần chúng” (lời Nguyễn Bính, sẽ dẫn thêm ở phần sau).
Nói như Cù Huy Hà Vũ (2007) rằng lý do bị thôi chức thư ký tòa soạn là vì Xuân Diệu đã cho đăng các bài của Thụy An, Phan Khôi, − là điều hoàn toàn không phù hợp với thực tế. Văn nghệ từ số 57 đến số 80 (thời kỳ Xuân Diệu làm thư ký toà soạn) hầu như không đăng gì của nữ tác giả Thụy An, chỉ đăng của Phan Khôi duy nhất một bài viết nhân 60 năm sinh Lý Cơ Vĩnh, nhà văn Triều Tiên (Văn nghệ số 74, ngày 10/6/1955), bài viết này không mang dấu hiệu nào để có thể “làm án” bất cứ ai, − người viết bài (là Phan Khôi) hay người cho đăng bài (là thư ký tòa soạn Xuân Diệu)!
***
2a. Bước sang năm 1956, xã hội và văn hoá văn nghệ ở miền Bắc chứng kiến những diễn biến phức tạp, có lúc đang ở hướng này đột ngột rẽ sang hướng khác.
Ngay vào dịp Tết nguyên đán, tập sách Giai phẩm mùa Xuân 1956 của Nhà xuất bản Minh Đức vừa ra mắt đã bị tịch thu, nhưng có lẽ cũng đã lọt ra ngoài một ít cuốn, và ban Văn của Hội Văn nghệ Việt Nam đã tổ chức một cuộc họp do Hoài Thanh chủ trì nhằm phê phán bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần, − một trong những tác phẩm đăng trong tập Giai phẩm mùa Xuân 1956 kể trên. Báo Văn nghệ đăng bài của Hoài Thanh:Vạch tính chất phản động của bài “Nhất định thắng” của Trần Dần (VN s. 110, ngày 1/3/1956), tiếp đó đăng bài dài 3 kỳ của Nguyễn Đình Thi Những sai lầm về tư tưởng trong tập sách Giai phẩm (VN s. 117, ngày 19/4/1956; VN s. 118, ngày 26/4/1956; VN s. 119. ngày 3/5/1956). Cũng dịp này, báo chọn dịch đăng các bài hỗ trợ công việc phê bình nêu trên, ví dụ bài Vai trò lãnh đạo của Đảng, trích văn kiện ĐH 20 ĐCS Liên Xô, do Xuân Diệu dịch (VN s. 110, ngày 1/3/1956), bài Văn nghệ là sự nghiệp của nhân dân, cũng rút từ báo Văn học Liên Xô nói về văn nghệ Hungary, do Vũ Thông dịch (VN s. 111, ngày 15/3/1956), bài Nguyên tắc của chủ nghĩa Lê-nin về Đảng tính trong văn học của Lê-xuy-sép-ski do Việt Lam trích dịch (VN s. 118, ngày 26/4/1956). Nhưng việc phê phán sách Giai phẩm mùa Xuân bỗng đột ngột dừng lại.
Vì sao? Có lẽ vì những diễn biến bên ngoài.
Người ta biết, tháng 2/1956, Đảng Cộng sản Liên Xô họp đại hội lần thứ 20, trong đó, phần báo cáo về những tổn thất do tệ sùng bái cá nhân của Stalin gây ra tuy không được trình bày công khai, nhưng hẳn đã được thông báo tới các đảng cộng sản và công nhân có đoàn đại biểu đến dự, trong đó, có đoàn của Đảng Lao động Việt Nam (gồm Tổng bí thư Trường Chinh và Ủy viên bộ chính trị Lê Đức Thọ). Đảng Lao động Việt Nam đã triệu tập hội nghị Ban chấp hành trung ương mở rộng từ 19 đến 24/4/1956 để nghe báo cáo về ĐH 20 ĐCS LX, ra nghị quyết trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ chống sùng bái cá nhân, thực hiện phương thức lãnh đạo tập thể, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt đảng; đó là nghị quyết 9 (nhiệm kỳ 2). Vấn đề nêu ra trong nghị quyết 9 nói trên càng trở nên rõ ràng khi tin tức về việc Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô ngày 30/6/1956 thông qua nghị quyết chống sùng bái cá nhân được đăng tải khá kỹ càng trên nhật báo Nhân dân của Đảng Lao động Việt Nam.
Với việc Đảng LĐVN ra nghị quyết 9 (khoá 2) nhắc trên, bản nghị quyết này cũng yêu cầu phổ biến tinh thần “chống sùng bái cá nhân, thực hiện lãnh đạo tập thể, phê bình và tự phê bình” đến các cấp các ngành; vì vậy, hội Văn nghệ Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ trên bằng việc tổ chức cuộc học tập nghiên cứu lý luận cho trên 200 văn nghệ sĩ từ 1/8 đến 18/8/1956.
Cũng chính từ tinh thần học tập các văn kiện ĐH 20 ĐCS LX mà BCH TƯ ĐLĐ VN đã phát hiện ra những sai lầm của cuộc cải cách ruộng đất, nhất là sau kết quả CCRĐ đợt 5, triệu tập hội nghị trung ương mở rộng lần thứ 10 và ra nghị quyết sửa sai. “Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 10 đã đi đến nhận định nhất trí rằng chỉnh đốn tổ chức ở các cấp tỉnh, huyện là một thất bại, chỉnh đốn chi bộ ở xã đã gây những tổn thất rất nặng nề cho Đảng”.5 Sự kiện này, xin sẽ vắn tắt đề cập ở một đoạn sau.
2b. Tuy nhiên, liên quan đến Xuân Diệu, ta hãy tạm dừng lại ở đời sống văn nghệ trong đoạn thời gian trước khi có các diễn biến chính trị kể trên, tức là từ sau cuộc thảo luận về tập thơ “Việt Bắc” đến trước tháng 8/1956.
Ngay từ đầu năm 1956, dư luận trong giới văn nghệ có ít nhiều chấn động vì kết quả giải thưởng văn học 1954-55 của Hội Văn nghệ Việt Nam (công bố trên báo Văn nghệ số 112, ngày 15/3/1956), theo đó về thơ, ngoài giải nhất được trao cho tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, còn có 3 giải nhì: Giải nhì A trao cho 2 tập Đồng tháng tám và Dặn con, thơ và ca dao về nông dân kháng chiến và phát động quần chúng của Trần Hữu Thung; giải nhì B trao cho Ngôi sao, tập thơ của Xuân Diệu; giải nhì C trao cho Nụ cười chính nghĩa, tập thơ đả kích của Tú Mỡ; giải ba trao cho tập Thơ chiến sĩ của Hồ Khải Đại; và một số tác phẩm khác được trao giải khuyến khích (bên cạnh đó còn có các giải về tiểu thuyết, kịch, ký sự, dịch văn học).
Việc tập thơ Ngôi sao của Xuân Diệu ở vị trí giải nhì gây phản ứng trong một số không ít văn nghệ sĩ, tiêu biểu là sự phê bình của báo Trăm hoa. (Các bài phê bình của báoTrăm hoa, [đây là Trăm hoa loại cũ, ra từ tháng 9/1955 đến tháng 6/1956] khi giải thưởng văn học 1954-55 vừa công bố, hiện nay tôi chưa tìm lại được; nhưng đã thấy một khung quảng cáo “Báo mới” trên trang 3 của tờ “Hà Nội hàng ngày” số 280 ra ngày 25/4/1956 cho biết:Trăm hoa số 28 có bài phê bình của Trần Lê Văn nhan đề “Đọc ‘Ngôi sao’, thơ của Xuân Diệu”; một nguồn gián tiếp khác là trên chính báo Văn nghệ, Trần Lê Văn [VN. s. 136, ngày 30/8/1956] và Nguyễn Bính [VN. s. 125, ngày 14/6/1956] nói rõ tuần báo Trăm hoa (loại cũ) đã đăng liền 3 bài phê phán việc trao giải nhì cho tập Ngôi sao).
Dù luồng ý kiến ấy có bị một số người cho là ác ý đi nữa, thì một trong những người giữ trọng trách trong ban chấm giải là Hoài Thanh cũng đã phải lên tiếng, chủ yếu để bênh vực ban chấm giải, nhưng bằng cách khẳng định giá trị tập thơ của Xuân Diệu (Một vài ý kiến về tập thơ “Ngôi sao” của Xuân Diệu // VN. s. 122, ngày 24/5/1955).
“…Cách mạng càng tiến lên, Xuân Diệu càng thêm gắn bó với quần chúng, nhất là với quần chúng nông dân, nhờ đó thơ Xuân Diệu càng thêm chắc về nội dung tình cảm, thêm giản dị về điệu về lời. Và đã có lúc chúng ta tưởng như gặp một Xuân Diệu hoàn toàn mới. Nhưng cuộc đấu tranh giữa cái mới và cũ trong thơ Xuân Diệu cũng như trong con người của mỗi chúng ta là một cuộc đấu tranh gay go. Trong cái mới sao cho khỏi rơi rớt lại những cái cũ. Cái phần cũ tôi muốn nói cái phần sống sượng, lệch lạc, giả tạo trong thơ Xuân Diệu cũng còn nhiều. Nhưng hôm nay tôi không định nói về phần ấy. Tôi muốn nói về cái phần đứng đắn, chân thành trong thơ Xuân Diệu”…
Như vậy, tuy giành phần lớn bài viết để nói về chỗ khả thủ ở tập thơ Ngôi sao, Hoài Thanh vẫn mặc nhiên thừa nhận phương diện chưa thành công, “sống sượng, lệch lạc, giả tạo” ở tập thơ này của Xuân Diệu.
Song, bài viết trên của Hoài Thanh bị xem là chỉ nhằm xoa dịu dư luận, − nhà thơ Nguyễn Bính lên tiếng như vậy (Hội cần phải mạnh dạn tự phê bình // VN. s. 125, ngày 14/6/1956) và nói rõ sự thắc mắc của dư luận trong ngoài giới văn nghệ về việc trao giải nhì cho tập Ngôi sao:
“Thắc mắc chung quanh tập Ngôi sao thực là nhiều và sôi nổi. Có những thắc mắc đã nói ra trên báo chí, có những thắc mắc chỉ trao đổi trong những cuộc mạn đàm. Có những thắc mắc trong anh em văn nghệ, có những thắc mắc của bạn đọc. Của những người ở vùng tự do cũ, cũng như ở vùng mới giải phóng, ở nhiều tầng lớp khác nhau, trong những cương vị công tác, hoạt động khác nhau. Nói chung, phần tán thành ít mà phần thắc mắc thì hầu như phổ biến. Tập thơ Ngôi sao lại đã xuất bản trước khi công bố giải thưởng. Ngay khi chưa biết nó được giải cũng đã nhiều anh em phàn nàn về những mặt hỏng của nó. Sao không có một cuộc thăm dò dư luận từ trước? Quả là ban giám khảo chưa thực mở rộng dân chủ, chưa tha thiết lắng nghe ý kiến nguyện vọng của quần chúng. Sự định đoạt giá trị và thứ bậc tác phẩm hầu như chỉ thu hẹp trong phạm vi ban giám khảo, trong sự bàn cãi phân tách của một số nhỏ người.
[…] Đối với những phản ứng trong quần chúng, Ban chấm giải không tự kiểm điểm, không trưng cầu ý kiến của quần chúng, khơi cho hết thắc mắc của mọi người, mà chỉ tìm cách xoa dịu bằng một bài báo nặng tính cách bào chữa của Hoài Thanh trong Văn nghệ số 122. Một vài anh em còn không bằng lòng ra mặt những bài phê bình tập Ngôi sao trên báo Trăm hoa, cho đó là lối “đập” thiên lệch và ác. Trong khi ấy trên tờ báo của Hội vẫn có những bài phê bình có tính cách “đập” thiên lệch và ác như bài của Nguyễn Đình Thi phê bình Giai phẩm. Phải chăng đó là lưu tệ của cái thói “lỗi người để túi trước, lỗi mình để túi sau”? Chính vì vậy mà có tình trạng nhiều bạn nêu lên thắc mắc muốn thành khẩn xây dựng cho cơ quan lãnh đạo Hội, song lại sợ bị thành kiến. Dĩ nhiên những thái độ của mấy bạn đó cũng cần được kiểm điểm lại, nhưng do đấy mà thành một vấn đề: những người lãnh đạo và phụ trách công tác Hội đã làm thế nào để anh em dè dặt đến như vậy?”
Một cây bút phê bình khác là Huy Phương (Phát biểu về tập thơ “Ngôi sao” của Xuân Diệu // VN. s. 126, ngày 21/6/1955) cũng đánh giá không khả quan về tập thơ này của Xuân Diệu.
“… những lúc nào Xuân Diệu bạo dạn đi vào thực tế, được chất chiến đấu của thực tế tác động mạnh mẽ vào tâm hồn, thì ta thấy anh cũng đã viết được những bài thơ thành công”… “Nhưng những khi Xuân Diệu trở về với “hồn thơ” của mình thì thơ anh chỉ là tiếng nói yếu đuối của con người còn vướng mắc trong cái “tôi” riêng lẻ bé nhỏ.
[...] Nói đến sự hy sinh anh dũng của chiến sĩ, Xuân Diệu viết những câu này:
Giữa xuân nay muôn chiến sĩ say mê
Lấy máu tuỷ đổ ra đời bát ngát
Ngừng tay lại thấy sức xuân còn nhạt
Đổ máu thêm cho đến lúc toàn hồng
Đọc những câu thơ nhễ nhại những máu huyết ấy, người đọc thật là thấy giận cái bệnh “khoái cảm” của tác giả. Những câu thơ như vậy không phải là những trường hợp ngẫu nhiên trong thơ Xuân Diệu. Nó là biểu hiện của cả một thái độ sống bắt nguồn từ cả một hệ thống ý thức và tình cảm của tác giả. […] trong nghệ thuật, nhất là trong thơ, không thể nào gạt bỏ được phần cảm giác nó là một cạnh khía quan trọng của khả năng cảm thông của tác giả với thực tế. Nhưng khi cảm giác của nghệ sĩ thiên về tính chất hình thức và hưởng thụ, thậm chí trở thành một động cơ sáng tác thì đó là biểu hiện của bản chất hưởng lạc và cá nhân của chủ nghĩa lãng mạn tư sản.
[…] Tập Ngôi sao đánh dấu một quá trình dài trong bước đường làm thơ của Xuân Diệu. […] Nhưng cái mức chung của Xuân Diệu trong Ngôi sao vẫn là còn thấy mình bé nhỏ, là kẻ chịu ơn và được hưởng thụ nhiều hơn là thấy mình là người chiến đấu có một trách nhiệm nặng nề và vinh quang. Chính vì thế mà thơ Xuân Diệu không đi sâu được vào lòng chúng ta”.
Có thể nói, đó là những lời bình luận không hề dễ lọt tai tác giả; nhưng không thấy Xuân Diệu trả lời, cũng giống như Xuân Diệu đã không lên tiếng trả lời 3 bài viết về tập Ngôi sao của báo Trăm hoa. Về chuyện này, hậu thế đừng nên nhận xét là nhà thơ đã tỏ ra “học phiệt” với dư luận (theo chữ “học phiệt” mà Phan Khôi đã dùng vào năm 1930 để xác định thái độ Phạm Quỳnh không trả lời Ngô Đức Kế năm 1925). Trong đời sống văn nghệ những năm 1950-60 ở miền Bắc, một tờ báo “của đoàn thể” (không phải báo tư nhân) như Văn nghệ rất ít khi dành trang cho tác giả lên tiếng trả lời các bài phê bình tác phẩm của mình, khi thật cần trả lời, phải được phép, thậm chí phải trở thành chủ trương của ban lãnh đạo tờ báo.
Không lên tiếng trả lời, nhưng hẳn Xuân Diệu sẽ không quên những món nợ loại như vậy trong giới của mình. Tạp chí Tác phẩm mới (1969-1976) mà Xuân Diệu là một trong số vài ba nhân vật chủ chốt cầm lái, đã hầu như không nhắc gì đến Nguyễn Bính, đã làm như thể không hề có Nguyễn Bính trong nền thơ Việt thế kỷ XX, − đó có lẽ là cách “trả đũa” của Xuân Diệu, cố nhiên là có sự đồng tình của một số tên tuổi khác. Phải nhờ có dư luận văn nghệ miền Nam nhắc nhở, tên tuổi Nguyễn Bính mới được sống lại với công chúng miền Bắc từ 1986.
***
3a. Chúng ta tiếp tục theo dõi đời sống văn nghệ miền Bắc từ giữa năm 1956. Việc Hội Văn nghệ Việt Nam mở lớp nghiên cứu lý luận văn nghệ (từ 1/8 đến 18/8/1956) cho trên 200 văn nghệ sĩ và người công tác văn nghệ, trên thực tế, đã mở đầu cho một thời điểm bộc phát nhiều vấn đề tiềm ẩn chất chứa.
Bản dịch bài báo “Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng” của Lục Định Nhất, được báo Văn nghệ trích dịch đăng tải (số 134, ngày 16/8/1956) sớm hơn báo Nhân dân (báo này đưa tin bằng “Thư Bắc Kinh” của Lê Hào từ 5/8/1956, nhưng chỉ cho đăng bản dịch toàn văn ở số ra ngày 30/9/1956), cùng lúc với những ý kiến văn nghệ sĩ tham gia diễn đàn “Tiến tới Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai”, trong đó nhiều ý kiến nêu lên những hiện tượng gò bó, máy móc, áp đặt từ phía những người quản lý văn hoá văn nghệ mà đương thời gọi chung bằng mấy từ “lãnh đạo văn nghệ”.
Những người thuộc thành phần “lãnh đạo văn nghệ” ấy là những ai? Trong mắt văn nghệ sĩ đương thời, đó có khi là các cơ chế, cơ quan, ví dụ phòng văn nghệ quân đội, hội Văn nghệ Việt Nam, có khi là những quan chức cụ thể, chẳng hạn như Nguyễn Tuân, tổng thư ký Hội Văn nghệ, như Hoài Thanh, giám đốc Vụ nghệ thuật Bộ văn hoá, như Tố Hữu, uỷ viên trung ương Đảng phụ trách tuyên huấn, v.v…
Các ý kiến phê bình và thảo luận đó khá nhiều; mỗi tuần báo Văn nghệ dành ít nhất là 2 trang để đăng tải; tính từ lúc Văn nghệ (số 122, ngày 24/5/1956) đăng thông báo của ban trù bị Đại hội Văn nghệ toàn quốc đến ngày họp Đại hội (20/2/1957), việc thảo luận trải ra trong suốt 7 – 8 tháng. Người ta bàn đến nhiều chuyện: quan hệ giữa văn nghệ và chính trị với những quan niệm khác nhau xung quanh vấn đề sáng tác phục vụ chính sách; quan niệm về tự do sáng tác, về “trăm hoa đua nở”; quan niệm hiện thực xã hội chủ nghĩa; vấn đề khai thác và phát triển các hình thức nghệ thuật dân tộc, v.v… nhưng sôi nổi hơn cả vẫn là những chuyện chống công thức sơ lược, “phê bình lãnh đạo văn nghệ” tức là nhận xét phê bình về việc chỉ đạo và quản lý hoạt động văn hoá văn nghệ của các cơ quan quản lý “đoàn thể” (= hội Văn nghệ) hoặc chính quyền (= vụ nghệ thuật, bộ văn hoá…).
Trong không khí ấy, một số “lãnh đạo văn nghệ” đã lên tiếng tự phê bình, ví dụ Hoài Thanh (Tôi đã sai lầm như thế nào trong việc phê bình bài “Nhất định thắng” của anh Trần Dần // Văn nghệ số 139, ngày 20/9/1956), Nguyễn Tuân (Về giải thưởng văn học 1954-55 // Văn nghệ số 140, ngày 27/9/1956). Nguyễn Đình Thi cũng khởi đăng bài Một vài sai lầm trong sự lãnh đạo văn nghệ (Văn nghệ số 140 đã dẫn), hứa hẹn sẽ là bài đăng nhiều kỳ, nhưng sau kỳ đầu rồi không thấy đăng tiếp. Cũng dịp này, Ban thường vụ Hội Văn nghệ ra thông cáo (đăng Văn nghệ số 141, ngày 4/10/1956) “thừa nhận những sai lầm của mình trong cách tổ chức và lãnh đạo cuộc phê bình bài Nhất định thắng của Trần Dần”, thừa nhận những thiếu sót khuyết điểm trong việc chấm giải thưởng văn học 1954-55 (trong đó thừa nhận tập Ngôi sao của Xuân Diệu chỉ đáng giải ba đã được nể nang đưa lên giải nhì). Tuy nhiên, sự thành khẩn tự phê bình từ phía lãnh đạo hội Văn nghệ hầu như chỉ dừng lại ở đấy. Có thể là vì tiếp đó họ phải tập trung đối phó với nhiều sóng gió mới, nặng nề hơn.
Người ta biết, sau thời điểm lớp nghiên cứu lý luận văn nghệ kết thúc không lâu, một loạt ấn phẩm có giọng điệu phê bình mạnh mẽ hơn đã liên tiếp xuất hiện, − những ấn phẩm mà chỉ vài năm sau sẽ bị dư luận chính thống làm cho vĩnh viễn ô danh bằng định ngữ “phản động” và bằng các mệnh lệnh “cấm đọc, cấm phổ biến” được thực thi rất chặt chẽ.
Tháng 8/1956 tập sách Giai phẩm mùa thu 1956 tập I (Nxb. Minh Đức) ra mắt, trong đó mạnh mẽ nhất là bài của Phan Khôi Phê bình lãnh đạo văn nghệ.
Tháng 9/1956 sách Giai phẩm mùa thu tập II (Nxb. Minh Đức) ra mắt, trong đó mạnh mẽ nhất có lẽ là bài của Trương Tửu Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ.
Ngày 20/9/1956 tờ báo tư nhân mang tên Nhân văn (chủ nhiệm Phan Khôi, thư ký tòa soạn Trần Duy) ra mắt số 1 trong đó có các bài Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, Chống bè phái trong văn nghệ của Trần Công, Phỏng vấn giáo sư Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do dân chủ, v.v…
Ngày 30/9/1956 báo Nhân văn ra số 2 với những bài: Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy, Không sợ địch lợi dụng của Trần Lê Văn, phỏng vấn học giả Đào Duy Anh về mở rộng tự do dân chủ, bài trả lời tác giả Nguyễn Chương của báo Nhân dân, cho rằng ký giả này đã “vu cáo chính trị” đối với báo Nhân văn, v.v…
Ngày 15/10/1956 báo Nhân văn ra số 3 với những bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ của Trần Đức Thảo, phỏng vấn bác sĩ Đặng Văn Ngữ về mở rộng tự do dân chủ, các ý kiến phản hồi về sự tự phê bình của Hoài Thanh đối với vụ phê phán bài thơ “Nhất định thắng”, v.v…
Ngày 20/10/1956, tuần báoTrăm hoa do Nguyễn Bính chủ trì đã tục bản sau nửa năm vắng mặt, lại mạnh mẽ đặt vấn đề: phải sửa sai đối với giải thưởng văn học 1954-55, − một việc mà lãnh đạo Hội Văn nghệ tuy đã thừa nhận có khuyết điểm song không hề sửa chữa trên thực tế (và sau đó mãi mãi không thay đổi). Trăm hoa cũng thường nêu lên những hiện tượng áp đặt máy móc của chính quyền trong sinh hoạt thường ngày ở đô thị (ví dụ quy chế khai báo hộ khẩu khiến chồng không thể về ở nhà mình qua đêm) và nhất là hiện tượng bè phái trong văn nghệ (những văn nghệ sĩ hồi kháng chiến cùng ở Việt Bắc đến lúc này thường ưu tiên ưu đãi nhau, từ việc xét giải thưởng và đi nước ngoài đến việc đăng bài vở, tác phẩm; một số văn nghệ sĩ miền Nam tập kết thiếu chỗ đăng bài, đã đến với với Trăm hoa hoặc một số báo tư nhân khác).
Trong tháng 10/1956 tập sách Giai phẩm mùa xuân 1956 từng bị thu hồi đầu năm, được in lại và phát hành.
Ngày 5/11/1956 báo Nhân văn ra số 4, với những bài của Nguyễn Hữu Đang (Cần phải chính quy hơn nữa), Trần Duy (Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ), truyện ngắn của Phùng Cung (Con ngựa già của chúa Trịnh), rồi bài nêu vụ việc một cán bộ sở báo chí trung ương đến toà báo Trăm hoa gây gổ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính, bài của Bùi Quang Đoài đáp lại bài viết về chủ nghiã nhân văn của Hoàng Xuân Nhị trên báo Nhân dân, v.v…
Số báo Nhân văn này gần như ra cùng lúc với quyển mới Giai phẩm mùa thu tập III của nhà Minh Đức, trong đó có phần đầu bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, bài Muốn phát triển học thuật của Đào Duy Anh, thơ của Phan Khôi, Mai Hanh, bài Chủ nghĩa xã hội và nhà nước của một tác giả Nam Tư do Bùi Quang Đoài dịch, v.v…
Ngày 20/11/1956, báo Nhân văn ra số 5, với những bài phản đối sở báo chí trung ương thi hành kỷ luật báo Nhân văn, các bài của H.L. (Không có lý gì mà không tán thành trăm hoa đua nở), Nguyễn Hữu Đang (Hiến pháp Việt Nam 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào?), Trần Duy (Góp ý kiến về phần tự do dân chủ trong nghị quyết TƯ lần thứ mười), N.Q.S. (Bài học Ba-lan và Hung-ga-ri), Châm Văn Biếm (Thi sĩ máy), Hoàng Tố Nguyên (Tiếng hát quê hương), v.v…
Cuối tháng 11/1956 Giai phẩm mùa đông 1956 tập I của nhà Minh Đức ra mắt với những bài của Trương Tửu (Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của đảng cộng sản bôn-sê-vích), Trần Đức Thảo (Nội dung xã hội và hình thức tự do), Sỹ Ngọc (Làm cho hoa nở bốn mùa), Nguyễn Mạnh Tường (Hai câu chuyện), Hữu Loan (truyện ngắn Lộn sòng), Trần Dần (dịch thơ Mai-a-kốp-ski), Hoàng Cầm (kịch thơ Hướng đi lên bắc), Phùng Quán (thơ Ai người hiểu rõ nhất?), v.v…
Cùng thời gian ấy, loại sách “Đất mới” của Nhà xuất bản Minh Đức ra tập I nhan đề “Chuyện sinh viên” với bài của các tác giả Nguyễn Bao, Bùi Quang Đoài, Thúc Hà, Dương Viết Á, Văn Tâm, v.v…
Khuynh hướng thể hiện trong các ấn phẩm trên, tất nhiên bị phản đối dữ dội từ phía các tờ báo chính thống. Trước hết là báo Nhân dân với các tác giả Nguyễn Chương, Quang Đạm, Xuân Trường, Hoàng Xuân Nhị, và những bạn đọc của báo ấy, v.v… Tuần báo Văn nghệ thì vừa tiếp tục vai trò làm diễn đàn chuẩn bị Đại hội Văn nghệ toàn quốc để cho đăng những bài góp ý phê bình lãnh đạo văn nghệ, vừa dành trang phê bình của báo (kể từ số 141, ngày 4/10/1956) cho những bài phê phán các số Nhân văn và các tập Giai phẩm, thậm chí dành trang cho cuộc thảo luận giữa Nguyễn Hữu Đang và Hồng Vân (Hoàng Trung Thông) xung quanh khẩu hiệu “trăm hoa đua nở”, khi báo Nhân văn và các tập Giai phẩm đã thôi không còn được ra thêm nữa.
Sự phức tạp của tình hình là ở những động thái đột xuất tạm thời cắt ngang dòng ý kiến phê phán báo Nhân văn và các tập Giai phẩm: ấy là ngày 30/10/1956 với việc công bố nghị quyết hội nghị trung ương Đảng lần thứ 10 (mở rộng) nêu lên những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, đồng thời nêu quyết tâm sửa chữa những sai lầm ấy, công bố những việc lớn như cử lại chức Tổng bí thư Đảng LĐ VN (Trường Chinh thôi chức này, Hồ Chí Minh kiêm nhiệm), cách chức những quan chức cao cấp của Ủy ban CCRĐ TƯ (chỉ thấy nêu 2 trường hợp Hồ Viết Thắng và Lê Văn Lương), tuyên bố vô hiệu hóa lập tức quyền hạn của UBCCRĐ từ trung ương đến các cấp (các ủy ban này vốn có quyền xét duyệt các quyết nghị về quy thành phần gia cấp các hộ gia đình tại các địa phương, ký duyệt việc trưng thu trưng mua ruộng đất và tài sản những hộ địa chủ phú nông, xét duyệt các mức án tù hoặc tử hình đối với người bị quy là địa chủ phản động, v.v…; các ủy ban này từ đây trở thành những cơ quan chỉ còn chức năng nghiên cứu, ít lâu sau sẽ bị giải tán), giải tán ngay các tòa án nhân dân đặc biệt các cấp do các UBCCRĐ lập ra, nêu ra hàng loạt biện pháp sửa sai, từ các tiêu chuẩn để hạ thành phần cho những người bị quy vào các thành phần bóc lột đến việc minh oan cho những cán bộ đảng viên bị quy vào thành phần phản động các loại.6
Sự kiện chấn động đời sống chính trị miền Bắc này, tuy vậy, chỉ làm gián đoạn chốc lát chứ không làm thay đổi chiều hướng phê phán nhằm vào 5 số báo Nhân văn và 5 tập Giai phẩm; tất nhiên trên một số vấn đề sẽ xuất hiện một vài khía cạnh sẽ được biện luận thêm, ví dụ sự “phê bình” được phân chia thành “phê bình xây dựng” và “phê bình phá hoại”.
Ngày 8/11/1956, báo Nhân văn bị Sở báo chí trung ương cảnh cáo vì vi phạm quy chế lưu chiểu.
Ngày 15/11/1956, Ủy ban hành chính TP Hà Nội ra quyết định đình bản báo Nhân văn đồng thời cấm lưu hành tất cả 5 số Nhân văn đã phát hành trước đó.
Các tập Giai phẩm cũng không được cấp giấy phép để ra tiếp, nhà Minh Đức chỉ ra thêm được một tập sách cũng có dạng “giai phẩm” (gồm các sáng tác thơ văn của nhiều tác giả, chỉ không có bài nào là nghị luận) tuy mang tên Sách Tết 1957, với kích cỡ gần như một số báo (32 trang 30 x 40 cm).