Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.275
123.159.452
 
Xuân Diệu, Trong Những Năm 1954-58 -2
Lại Nguyên Ân

Ngày 14/12/1956, Chủ tịch nước VNDCCH ban hành sắc lệnh về chế độ báo chí; văn kiện này đã đề ra những nội dung mà sau này người ta sẽ gọi là “vùng cấm” trong hoạt động thông tin ngôn luận của báo chí:

 

“a/ Không được tuyên truyền chống pháp luật của nhà nước. Không được cổ động nhân dân không thi hành hoặc chống lại những luật lệ và những đường lối, chính sách của nhà nước. Không được viết bài có tính chất chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chia rẽ nhân dân và chính quyền, nhân dân và bộ đội. Không được gây ra những dư luận hoặc những hành động có hại cho an ninh trật tự của xã hội.

 

b/ Không được tuyên truyền phá hoại sự nghiệp củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ của nước Việt Nam, làm giảm sút tinh thần đoàn kết, ý chí phấn đấu của nhân dân và bộ đội.

 

c/ Không được tuyên truyền chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa nhân dân các nước, làm tổn hại tình hữu nghị giữa nhân dân nước ta với nhân dân các nước bạn, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa đế quốc, không được tuyên truyền cho chiến tranh.

 

d/ Không được tiết lộ bí mật quốc gia như: những bí mật quốc phòng, những hội nghị cơ mật chưa có công bố chính thức của cơ quan có trách nhiệm, những vụ án đang điều tra chưa xét xử, những bản án mà tòa án không cho phép công bố, những tài liệu, số liệu và những cơ sở kiến thiết về kinh tế tài chính mà ủy ban kế hoạch nhà nước hoặc các cơ quan có thẩm quyền chưa công bố.

e/ Không được tuyên truyền dâm ô, trụy lạc, đồi bại.”

(Sắc lệnh về chế độ báo chí // Nhân dân, 15/12/1956, tr. 1)  

 

 

 

Giữa tháng 12/1956, Trung ương Đảng triệu tập hội nghị đảng viên văn nghệ, thống nhất nhận thức tư tưởng trước khi bước vào đại hội văn nghệ, tại đó hiện tượng Nhân văn – Giai phẩm đã bị lên án.

 

Tại kỳ họp lần thứ 6 của Quốc hội (khoá I), ngày 18/1/1957, dân biểu Nguyễn Đình Thi đã chính thức phát biểu trước Quốc hội: “Trong khi chúng ta phê bình những sai lầm khuyết điểm, đã có một vài khuynh hướng xấu len vào vu khống chế độ của ta, đả kích sự lãnh đạo của đảng và chính phủ, đối với những người trí thức, tìm cách gây hoang mang chia rẽ. Những khuynh hướng xấu đó gần đây đã được vạch ra, cuộc đấu tranh tư tưởng chung quanh vấn đề văn nghệ hiện nay đang làm cho những người trí thức nước ta trưởng thành lớn thêm một bước nữa”…(7)     

 

Ngày 20/2/1957, Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai khai mạc và tiếp diễn trong 8 ngày; đại hội này đã quyết định chấm dứt Hội Văn nghệ Việt Nam để thành lập Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, khuyến khích các ngành văn nghệ thành lập Hội của ngành mình, đặt trong khuôn khổ Hội Liên hiệp VHNTVN. Trong thời gian đại hội, với tư cách đại diện Đảng Lao động Việt Nam, ông Trường Chinh, được Ban chấp hành hội Văn nghệ giới thiệu như “người bạn thân mến của văn nghệ sĩ Việt Nam” và mời đến nói chuyện tại Nhà hát Lớn trong ngày nghỉ của đại hội (chủ nhật 24/2/1957), với đầu đề: “Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội”; trong bài nói chuyện này có những đoạn nhận định và lên án Nhân văn – Giai phẩm rất gay gắt; văn bản bài nói chuyện này của Trường Chinh, khoảng 4-5 tháng sau mới được công bố (trên 2 kỳ đầu Tạp chí Văn nghệ, cơ quan của Hội LHVHNTVN, xuất bản từ tháng 6/1957). (8)  

 

 

***

 

 

3b. Suốt thời gian kể trên, từ 1/8/1956 đến đại hội văn nghệ toàn quốc lần 2, Xuân Diệu hầu như ít đăng đàn; ông rất ít đăng thơ, hình như chỉ một lần, với bài Gieo mùa ở báo Văn nghệ số Tết Đinh Dậu (số kép 156&157, ra ngày 18/1/1957); loại ông viết nhiều hơn ở thời gian này là một số bút ký hoặc giới thiệu, điểm sách, chẳng hạn, bút ký Những tâm hồn đổi mới (báo Độc lập, s. 152, ngày 14/1/1956) viết về trường đại học nhân dân, mở cho giới trí thức từng sống và làm việc dưới chế độ cũ trong thành Hà Nội thời tạm chiếm; bút ký Thăm một làng miền bắc Hung-ga-ri (Nhân dân, 30/3/1956), bút ký Một thành phố xã hội chủ nghĩa ở Hung (tạp chí Tổ quốc, s. 32, ngày 5/4/1956), bút ký Cảm tưởng Mat-scơ-va (Nhân dân, 10/11/1956), bút ký Mùa xuân thắng (Nhân dân, 3/2/1957), giới thiệu Vài hình ảnh văn học Hung-ga-ry (Văn nghệ số 115, ngày 5/4/1956), đọc sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (Văn nghệ số 121, ngày 17/5/1956), giới thiệu và dịch thơ Nazim Hitmet (Văn nghệ số 150, ngày 7/12/1956), đưa tin về hội nghị các nhà văn châu Á (Văn nghệ số 153, ngày 27/12/1956). Đáng kể nhất có lẽ là lần Xuân Diệu xuất hiện trên diễn đàn Đại hội Văn nghệ ở ngày họp thứ sáu, 26/2/1957, với tham luận về bệnh sơ lược trong văn nghệ (trích đăng Văn nghệ số 162, ngày 1/3/1957). Tại đại hội này, Xuân Diệu là một trong số 15 nhà văn (Nguyễn Văn Bổng, Hồ Dzếnh, Vân Đài, Bảo Định Giang, Nguyễn Công Hoan, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Tú Mỡ, Hoàng Ngọc Phách, Võ Huy Tâm, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân,  Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Trần Hữu Thung), cùng với nhiều văn nghệ sĩ thuộc các ngành khác, được bầu vào BCH Hội Liên hiệp VHNTVN.

 

Xin dừng lại đôi chút ở bài tham luận của Xuân Diệu; đây là lần duy nhất ông bộc lộ ý kiến trong suốt thời gian trên dưới nửa năm (tháng 8/1956 – tháng 2/1957), giữa một đời sống văn nghệ sôi động, đầy những va chạm về tư tưởng và quan niệm văn nghệ.

 

Về căn bệnh trong sáng tác đang được nêu ra và phân tích, Xuân Diệu cho rằng:

 

“Những tác phẩm mắc bệnh sơ lược gây tai hại là làm cho người ta hiểu sai thực tế, tưởng cách mạng là toàn hồng, gây bệnh chủ quan và thiếu lý tưởng”.

 

Song, theo Xuân Diệu:

 

“bệnh sơ lược không ở trong bản chất nền văn học mới chúng ta”,

… “chúng ta không độc quyền về bệnh sơ lược. Văn dở thì cổ kim đông tây, đời nào và ở đâu cũng có”.

… “Số người quy bệnh sơ lược cho Đảng và cho chế độ cũng thường trách Đảng và chế độ sinh ra bệnh công thức. Họ nói đến những con người máy, những con người rập khuôn do chế độ ta sinh ra. Theo tôi nhớ, thì luận điệu này, bọn tư bản và đế quốc đưa ra đã lâu lắm rồi…”

 

Xuân Diệu nói đến những cái mà nhiều người gọi là “khuôn” trong đời sống mới:

 

“Những con người máy đã phá kho bom Tân Sơn Nhất chăng?(9) Bế Văn Đàn đã hy sinh rập khuôn với Phan Đình Giót chăng? Hay là trong phe XHCN, liệt sĩ Việt Nam Phan Đình Giót đã rập khuôn với anh hùng Liên Xô Matrosov, cũng lấy mình lấp lỗ châu mai một cách công thức chăng? Vâng, chúng ta rất giống nhau, chúng ta người nào cũng được Đảng giáo dục yêu nước yêu dân, cũng được Đảng dặn dò: khi cần thiết thì hy sinh quyền lợi cá nhân cho cho quyền lợi dân tộc, […..] Vâng! Nếu có một cái khuôn nào, thì đó là một cái khuôn cao cả vĩ đại, phong phú, cái khuôn con người mới biết tự cường, chiến đấu, hy sinh!”

 

Đối với những cái “sáo” hình thành trong văn nghệ cách mạng, thái độ của Xuân Diệu là bảo vệ:

 

“Bệnh công thức của ta rất đáng ghét, nhưng động cơ của nó là muốn nói cái mới cái hay, chỉ vì thiếu nghiên cứu, thiếu sáng tạo mà rơi vào chỗ sáo, ít nhất là nó có hảo ý; chứ còn cái công thức cuả tư sản phản động, của văn hoá Mỹ thì ác ý và ghê tởm vô cùng…”

 

“Chúng ta chống và chữa những bệnh ấu trĩ của nền văn nghệ non trẻ của chúng ta, nhưng chúng ta cũng khẳng định rằng: không có chân trời mới nào hết ngoài cái văn nghệ xã hội chủ nghĩa của phe ta và cái văn nghệ tiến bộ của thế giới; chúng ta không đi tìm hang sâu vực thẳm nào khác!”   

 

Về cách chữa bệnh sơ lược, Xuân Diệu cho là có “cách chữa chân chính” và  “cách chữa giả tạo”, cách thứ hai này, ông chống kịch liệt:

 

“Cách chữa giả tạo là dựa vào hình thức, vào kỹ thuật, tránh sự tẻ nhạt bằng cách bịa ra những trò chơi quái ác, bằng cách bẻ quặt thực tế khách quan [….] Chữa giả tạo bằng cách quá đề cao cá tính siêu nhân của người văn nghệ; bằng cách đem “tiếng sáo tiền kiếp” ra thổi giữa những bản đàn của thời đại mà mình cho là chán. Bằng cách phục hồi nguyên xi những ý tình cũ kỹ đã bị cách mạng thải ra. Chữa giả tạo trên hình thức  bằng cách làm thơ leo thang hay xuống dốc, cắt nát câu thơ ra và xuống dòng nhiều quá sự cần thiết…”

 

Cách chữa chân chính, theo Xuân Diệu, là “nghiên cứu sâu thực tế cách mạng”, vì “cái mới căn bản nằm trong đời sống cách mạng”, “ta phải nói được cái mới căn bản đó, chứ không phải rơi vào một thứ ‘mới chủ nghĩa’, đi tìm những cá tính lập dị nào”. 

 

“Tôi tưởng tượng rằng: nếu bà Thị Điểm mà sống lại và viết một bản Chinh phụ ngâm mới về phong trào hoà bình thế giới hiện nay, thì Hồng Hà nữ sĩ cũng phải nghiên cứu đời sống quần chúng đau khổ gây ra bởi chiến tranh đế quốc. Nếu Nguyễn Du còn sống và muốn viết về cuộc đấu tranh và lao động hiện tại của nhân dân ta, Nguyễn Du cũng tự nguyện đặt mình dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, và cũng phải thâm nhập vào quần chúng hiện tại!”

 

Đọc lại những lời lẽ trên đây, không khó để thấy thành phần nghị luận chủ yếu trong đó là ngụy biện, tuy được phát ngôn một cách không kém nồng nhiệt nhưng vẫn là kết quả những suy tính kỹ lưỡng, − không nhiều suy tư về chân lý, nhưng chắc chắn là ngầm chứa rất nhiều suy tính về cách ứng xử, cách “diễn ngôn” (discours, như cách gọi sau này) ra sao để tồn tại; đối với tác giả Thơ thơ  đến lúc này thì vấn đề không chỉ là cần sống sót mà là cần được sống tốt, bất kể thời thế ra sao.

***

 

 

4a. Chúng ta tiếp tục dõi theo những nét chính trong đời sống văn nghệ từ đầu năm 1957, sau Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai. Đối với giới nhà văn, đây là một năm đáng nhớ với sự ra đời lần đầu tiên ở Việt Nam một hội mang tên Hội Nhà Văn Việt Nam với những cơ sở trực thuộc nó sẽ dần dần hình thành: câu lạc bộ, tờ tuần báo, nhà xuất bản, quỹ văn học …

 

Việc thành lập các hội chuyên ngành cho các giới: nhà văn, hoạ sĩ và nhà điêu khắc, nhạc sĩ, kiến trúc sư, nghệ sĩ sân khấu, nghệ sĩ điện ảnh, − là chủ trương được thông qua tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần II. Hội nhà văn được xúc tiến sớm nhất.

 

Tất nhiên đặt trong đời sống tinh thần ở miền Bắc đương thời, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật VN hoặc Hội nhà văn VN và các hội chuyên ngành cùng loại, đều là những tổ chức được thành lập theo chủ trương của Đảng cầm quyền, đều là những hội được hưởng quy chế tương đương cơ quan nhà nước (biên chế và lương cán bộ nhân viên đều do nhà nước đảm bảo), − nói bằng ngôn ngữ của thời “hậu bao cấp” thì đó là những hội “quốc doanh”, hội “độc quyền”, hội “bao cấp”…   

 

Hội nghị thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam họp từ ngày 1 đến ngày 4/4/1957, có 278 đại biểu tham dự, thảo luận và thông qua bản điều lệ trong đó nói rõ: “Trên cơ sở Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam đoàn kết mọi nhà văn yêu nước và tiến bộ, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, xu hướng chính trị, xu hướng nghệ thuật” (điều III).(10) Đại hội bầu ra ban chấp hành khoá đầu gồm 25 nhà văn, và nhất trí coi 25 nhà văn trong ban chấp hành này là những hội viên sáng lập và sau đấy sẽ bắt tay vào việc kết nạp hội viên vào Hội.(11)  25 nhà văn đó gồm: Nông Quốc Chấn, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thi, Tú Mỡ, Anh Thơ, Mộng Sơn, Cầm Biêu, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Cầm, Sao Mai, Tố Hữu, Hoàng Tích Linh, Nguyên Hồng, Bửu Tiến, Xuân Diệu, Đoàn Giỏi, Phạm Huy Thông, Tế Hanh, Nam Trân, Vũ Tú Nam, Hoàng Trung Thông, Xuân Miễn, Tô Hoài, Nguyễn Tuân.

 

Ngày 10/4/1957, hội nghị BCH lần 1 cử ra ban thường vụ gồm: chủ tịch Hội: Nguyễn Công Hoan, phó chủ tịch: Tú Mỡ, tổng thư ký: Tô Hoài, phó tổng thư ký: Nguyễn Xuân Sanh, và 3 uỷ viên: Nguyên Hồng, Tế Hanh, Đoàn Giỏi.

 

Ngày 25 và 26/4/1957, hội nghị BCH lần 2 thông qua đề án xuất bản báo Văn và lập Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tuần báo Văn  với Chủ nhiệm Nguyễn Công Hoan, Thư ký toà soạn Nguyên Hồng và 2 uỷ viên ban biên tập là Tú Mỡ và Tế Hanh. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn với Giám đốc Tô Hoài và 3 uỷ viên ban biên tập: Hoàng Cầm, Đoàn Giỏi, Nguyễn Văn Mãi. Hội nghị này cũng quyết định lập ra ban kết nạp hội viên (trưởng: Tú Mỡ, phó: Nguyên Hồng, có một tiểu ban giúp việc), ban chế độ công tác sáng tác (trưởng: Nguyễn Công Hoan, phó: Nguyễn Xuân Sanh, có một số uỷ viên), ban nghiên cứu sáng tác (trưởng: Tô Hoài), ban văn học nước ngoài (trưởng: Nguyễn Xuân Sanh, uỷ viên: Nguyễn Tuân, Phạm Huy Thông). Ban thường vụ Hội quyết định lập cơ quan Hội, quy định biên chế cơ quan gồm một số nhà văn và một số cán bộ hành chính.

 

Tuần báo Văn xuất bản vào ngày thứ sáu hằng tuần, số 1 ra ngày 10/5/1957, và, − ngoài mong muốn và dự liệu của giới lãnh đạo văn nghệ hay chăng (hay vẫn nằm trong số những dự liệu ấy?), − chính tờ báo này đã làm nên một đoạn phiêu lưu nữa, như giọt nước không mấy to hoặc nặng, nhưng lại là giọt nước làm tràn ly: với nó và sau nó, sự đấu tranh giữa những khác biệt trong nội bộ nền “văn nghệ cách mạng” này được công nhiên chuyển thành đấu tranh giữa “ta” với “địch”, một số “đồng chí” trong hàng ngũ được chuyển thành những “kẻ thù” và bị trừng phạt, bị trục xuất khỏi hàng ngũ, bị làm cho ô nhục bằng ngôn từ và bằng áp đặt sự phân biệt đối xử.

 

Ta hãy quan sát kỹ hơn những gì xảy ra với tuần báo Văn.

 

Văn là tuần báo ra ngày thứ sáu, chuyên về “sáng tác, phê bình, giới thiệu, sinh hoạt văn học, tin văn thơ”. Thành phần bài vở chính trong mỗi số là đăng sáng tác thơ văn, phê bình tiểu luận, chuyện nghề văn, thời sự văn hóa văn nghệ; một phương diện phục vụ chính trị không thể thiếu của báo là mảng hoạt kê và châm biếm chính trị: tranh đả kích, thơ trào phúng trong các mục “mũi nhọn”, “bia miệng”, đối tượng luôn luôn là “đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm”.

 

Văn có nét thông thường ở hầu hết các tờ báo của giới nhà văn: phần trang nhiều nhất dành đăng sáng tác thơ văn, dư luận văn nghệ. Có lẽ nét mới thấy rõ ở nó so với tuần báo Văn nghệ  trước đấy là việc phản ánh sinh hoạt câu lạc bộ Hội nhà văn, hoặc những thông tin khá hồ hởi xung quanh những ngày đầu hoạt động của Hội nhà văn, nhất là những động thái triển khai việc xét kết nạp hội viên đợt đầu tiên…

 

Tuy nhiên, vào lúc đã ra được 10 số đầu, tờ tuần báo của Hội Nhà văn như bị dội nước lạnh khi trên tạp chí Học tập, cơ quan lý luận chính trị của trung ương Đảng Lao động VN, số 7/1957, xuất hiện bài Tuần báo Văn và con người thời đại  của tác giả Thế Toàn (Trịnh Xuân An), theo đó, những sáng tác đăng tải trên 10 số Văn đầu tiên được đánh giá khá tiêu cực: chủ đề của nhiều văn, thơ đăng ở đây “toàn là những thứ lượm lặt ngoài rìa cuộc sống”, “không ăn nhập gì với cuộc sống, không dính dáng gì đến những con người vĩ đại và dũng cảm của thời đại chúng ta”; tóm lại, theo Thế Toàn, “Tờ báo hầu như xa rời thực tế, xa rời cuộc sống, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng”.   

 

 

Trước sự phê bình của tạp chí Học tập, ban biên tập tuần báo Văn  và không ít nhà văn đã có phản ứng khá gay gắt. Lần lượt, các ý kiến của thư ký tòa soạn Nguyên Hồng (Tuần báo Văn và một số bài của báo cần được nhận định như thế nào? // Văn số 15, ngày 16/8/1957), của Nguyễn Văn Bổng (Nhận lại phương hướng qua việc phê bình tuần báo Văn // Văn số 20, ngày 20/9/1957), Lê Minh (Xây dựng con người thời đại // Văn số 21, ngày 27/9/1957), Tô Hoài (Góp thêm vài ý kiến về con người thời đại // Văn số 22, ngày 4/10/1957), Nguyễn Tuân (Phê bình nhất định là khó // Văn số 23, ngày 11/10/1957), Tế Hanh (Cùng đặt một số vấn đề // Văn số 26, ngày 1/11/1957), ở những mức độ khác nhau, hầu hết (đúng ra, trừ một số ý trong bài của Nguyễn Văn Bổng) đều bộc lộ thái độ không tán đồng sự phê bình của tạp chí Học tập.

 

Việc những người chủ trì báo Văn coi sự góp ý của tạp chí Học tập chỉ như sự phê bình của tờ “báo bạn”, của “đồng nghiệp” − có lẽ đặc biệt gây tự ái nơi tâm lý những người nhân danh báo chí của Đảng cầm quyền. Dưới dạng một bài đọc sách, − đây là bài nói chuyện của Trường Chinh tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần II được in thành sách riêng, − hai nhà báo của tạp chí Học tập, Hồng Chương và Trịnh Xuân An, lên tiếng nhắc nhở các nhà văn và Ban biên tập tuần báo Văn; nhan đề bài viết (Học tập, số 8, tháng 8/1957) được hai ông này đặt bằng mệnh lệnh thức: Phải thấu suốt đường lối văn nghệ của Đảng. Bút ký sau khi đọc cuốn “Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc phong phú dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội” của đồng chí Trường Chinh, trong đó đặc biệt nhấn mạnh việc cần phê phán ảnh hưởng của tư tưởng tư sản trong sáng tác văn nghệ. Ý nghĩa cảnh cáo lộ rõ trong đoạn kết:

 

“Chúng ta cần kiên quyết đấu tranh chống những thiên hướng lệch lạc đi trệch ra ngoài đường lối văn nghệ của Đảng. Chúng ta cũng kiên quyết phản đối thái độ của một số cán bộ đảng viên phụ trách văn nghệ phạm khuyết điểm sai lầm được báo chí Đảng giúp đỡ phát hiện khuyết điểm sai lầm mà không chịu khiêm tốn kiểm điểm và thành tâm sửa chữa, trái lại, lại đả kích và mạt sát báo chí Đảng. Thái độ đó rõ ràng là không lợi cho việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn nghệ.”

 

Nhận xét về cách phê bình của hai ký giả trên tạp chí Học tập, Nguyễn Tuân (báo Văn số 23) nhắc lại mấy câu hỏi của Nguyên Hồng (thư ký tòa soạn báo “Văn” ): “Có phải vì giáo điều, sơ lược, công thức, nên mới có sự nhận thức và phê phán như thế? Có phải vì tác phong quan liêu, trịch thượng và cái lối đao to búa lớn nên mới có sự nhận xét như thế?”, và Nguyễn Tuân tỏ rõ ý kiến mình:

 

“Trong việc đánh giá, đặc biệt nhất là ba ông Thế Toàn, Hồng Chương và Trịnh Xuân An đã có những “thái độ trịch thượng và cái lối nói đao to búa lớn”. Tôi cũng đồng ý với ông thư ký tòa soạn báo Văn về cái nhận xét này. Thêm nữa, cá nhân tôi lại còn cảm thấy mấy ông đó đã làm cho người đọc phải hiểu rằng các ông đang lấy Đảng ra để “dọa” anh em viết bài báo”.

 

Đáp lại sự nhận xét trịch thượng cho rằng giới nhà văn chưa biểu hiện được “con người thời đại”, Nguyễn Tuân lên tiếng như là tiếng nói chung của giới mình:

 

“Theo chỗ tôi biết thì đã có một số hiện tượng hách dịch đối với văn nghệ phẩm, xuất phát từ một số người phê bình cũng như từ một số cán bộ chính trị. Tôi rất đồng ý là văn nghệ sĩ, mà nhất là văn nghệ sĩ có tài, càng cần phải khiêm tốn. Nhưng chung quanh, nhất là những người có trách nhiệm về phán đoán cái này cái kia, đề nghị cũng làm như vậy cho. Tôi tán thành cái ý kiến là những “sĩ” của các ngành văn nghệ chúng ta chưa có gì là ghê gớm lắm đâu, về trình độ tư tưởng trình độ văn hóa trình độ nghề nghiệp còn phải học cho nát xương lòi da ra, học cho đến chết mà chắc gì đã nắm hết được quy luật của sự sống. Nhưng cũng không nên vì nó chỉ là “sĩ” của Việt Nam mà đánh giá nó quá thấp quá tồi về khả năng nhạy cảm đối với thực tế khách quan, cho nó là mít là xoài tất trong mọi cảm xúc phiền toái và vĩ đại của thời đại vừa gieo neo vừa lớn lao hiện nay của chúng ta. Trong mọi thực tiễn Việt Nam nói chung các mặt, nếu đã có những tác giả còn non nớt, nếu đã có những tác phẩm yếu xoàng, thì cũng đã có một số cán bộ thực hiện chính trị một cách cũng không được cao tay gì lắm. Đối với nghệ phẩm, anh đến với nó (nhất là thứ tạo ra ở bản xứ) mà anh tham lam quá đáng hoặc hung hăng một cách không cần thiết, thì nó biến mất….”

 

 

Lúc này, đến lượt Tạp chí Văn nghệ vào cuộc. Tạp chí này, chủ nhiệm là Đặng Thai Mai, thư ký tòa soạn là Nguyễn Đình Thi, đã tái xuất hiện từ tháng 6/1957 với tư cách cơ quan của Hội Liên hiêp Văn học nghệ thuật Việt Nam, ra hàng tháng, đánh số từ số 1 nhưng ghi rõ trên manchette là tờ tạp chí “xuất bản từ 1948 trong kháng chiến”. Chính trên tạp chí này, dù chỉ vừa mới xuất hiện trở lại, cũng đã kịp có những bài phê phán những sáng tác bị coi là có những lệch lạc về tư tưởng, ví dụ Thao thức của Đoàn Giỏi (bài phê bình của Nguyễn Văn Bổng, TCVN s. 5, th. 10/1957), Một ngày chủ nhật của Nguyễn Huy Tưởng (bài phê bình của Vũ Đức Phúc, TCVN s. 7, th. 12/1957).

 

Bài báo dài Tuần báo Văn với phương hướng sáng tác và phê bình hiện nay (Tạp chí Văn nghệ số 5, tháng 10/1957, tr. 113-136) của nhà phê bình Nguyễn Đình Thi, thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ, tất nhiên là không tách rời tư cách Tổng thư ký Hội LHVHNTVN của ông khi đó (cũng như Nguyễn Tuân khi lên tiếng ủng hộ Nguyên Hồng thì ông Tuân vẫn đang là Phó chủ tịch Hội LHVHNTVN).

 

Có phần tán thành nhận định của Thế Toàn và Nguyễn Văn Bổng, đề cập đến các sáng tác đăng 10 số đầu báo Văn, Nguyễn Đình Thi cho rằng “Chúng ta chưa nhìn rõ cái thực tế tiến dần lên chủ nghĩa xã hội của đời sống chung quanh ta được báo Văn phản ánh lên thế nào” … “Tình hình đó không thể coi là bình thường được”.  Nguyễn Đình Thi còn phân tích đánh giá về một số bài đăng trên các số Văn, trong đó đặc biệt tỏ rõ dị ứng với các bài thơ Một giọng đàn, một dòng sông (Hoàng Yến, s. 5), In dấu chân (Hoàng Cầm, s. 15), Lời mẹ dặn (Phùng Quán, s. 21), hoặc ý kiến của Trần Dần Nhìn lướt qua thơ văn gần đây (s. 12). Tuy vậy, cũng có phần chia sẻ với Nguyên Hồng trong phản ứng trước sự phê bình đầy công thức và máy móc của tạp chí “Học tập”; Nguyễn Đình Thi viết:

 

 

 

 



(7) Nguyễn Đình Thi: Mấy việc làm để xây dựng nền văn hoá văn nghệ của nhân dân ta (phát biểu trong phiên họp Quốc hội khoá thứ 6 ngày 18/1/1957) // Văn nghệ,  s. 158 (1/2/1957), tr. 1, 2. Lưu ý: báo chí đương thời gọi đây là “khoá họp” (QH) thứ 6”; theo cách gọi ngày nay, phải là “kỳ họp thứ 6” mới đúng; vì khi đó QH vẫn đang trong nhiệm kỳ I (nay cũng gọi là khoá I), được bầu cử từ 1946.

 

(8) Theo các bài tường thuật của Huyền Kiêu (VN. s. 161) và Bàng Sĩ Nguyên (VN. s. 162), có thể tóm tắt tiến trình Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, họp tại Nhà hát Lớn Hà Nội từ 20/2/1957 đến 28/2/1957 như sau:

 

Chiều 19/2/1957: Họp trù bị, bầu Chủ tịch đoàn Đại hội, 25 người: Đặng Thai Mai, Hoàng Ngọc Phách, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Tú Mỡ, Hoài Thanh, Nguyễn Xuân Khoát, Lương Xuân Nhị, Phan Thao, Thế Lữ, Nguyễn Phương Danh (Tám Danh), Nông Quốc Chấn, Lưu Quý Kỳ, Nguyễn Cao Luyện, Văn Cao, Ái Liên, Thái Thị Liên, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Văn Tỵ, Y Dơn, Nguyễn Tuân, Nguyễn Nho Tuý (Đội Tảo), Trần Văn Lắm, Lưu Hữu Phước, Trần Huyền Trân

 

20/2/1957: phiên khai mạc; ngày họp thứ nhất

- Chủ tịch đoàn giới thiệu Đặng Thai Mai chủ toạ phiên họp đầu tiên. Chủ tịch đoàn giới thiệu bổ sung nhạc sĩ quân đội Đỗ Nhuận vào chủ tịch đoàn, đại hội biểu quyết bằng vỗ tay thông qua.

- Tổng thư ký Hội Văn nghệ VN Nguyễn Tuân giới thiệu thành phần đại hội và khách của đại hội: Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Trường Chinh đại diện Đảng Lao động VN; trên 600 văn nghệ sĩ; các vị khách Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận tổ quốc, Quân đội nhân dân, đảng xã hội, đảng dân chủ, bộ văn hoá, các sứ quán, các phóng viên…

- Tổng thư ký Nguyễn Tuân đọc diễn văn khai mạc.

- Lời chào mừng của Mặt trận tổ quốc, của anh em văn nghệ sĩ đang công tác ở giới tuyến, nhà văn và trí thức Ru-ma-ni.

- Nguyễn Đình Thi thay mặt Ban chấp hành Hội đọc báo cáo chính: Văn học và nghệ thuật Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.

- Chiều: Nguyễn Đình Thi đọc tiếp báo cáo

- Ô. Trường Chinh đọc Thư của BCH TƯ ĐLĐ VN gửi đại hội.

 

21/2/1957: ngày họp thứ hai

- Lưu Quý Kỳ đọc báo cáo bổ sung về: Phong trào văn nghệ miền Nam trong chín năm qua và nhiệm vụ đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.

- Nông Quốc Chấn đọc báo cáo bổ sung về: Phong trào văn nghệ các dân tộc miền núi.

- Nguyễn Xuân Sanh đọc báo cáo bổ sung về: Dự thảo điều lệ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

 

22/2/1957: ngày họp thứ ba

các đại biểu thảo luận theo ngành tại Nhà hát Lớn, CLB Đoàn Kết, CLB Thống Nhất; tối: đoàn bình kịch Cáp-nhĩ-tân (Trung Quốc) biểu diễn chào mừng đại hội với vở Đào hoa nhân diện.

 

23/2/1957: ngày họp thứ tư

- họp chung tại Nhà hát Lớn nghe các tham luận

- Chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND VN Nguyễn Chí Thanh phát biểu, mời văn nghệ sĩ sáng tác về các đề tài quân đội.

- Đại diện Ban liên lạc nông dân toàn quốc phát biểu hoan nghênh những sáng tác về nông thôn.

- Tham luận: Vũ Ngọc Phan về dân ca VN; Cầm Biêu về thơ dân tộc Thái; Tú Mỡ về trào phúng; Tô Vũ về vốn nhạc cổ; Cù Huy Cận về học tập vốn cũ dân tộc; Đào Duy Anh về vốn cũ dân tộc; Nguyễn Văn Tỵ về phổ biến tranh dân tộc; ngoài ra còn tham luận của Hoàng Châu Ký, Lã Văn Lô, Nhật Lai, Chi Lăng…

 

24/2/1957: chủ nhật, đại hội nghỉ,

Ban chấp hành hội Văn nghệ VN “mời đồng chí Trường Chinh, người bạn thân mến của văn nghệ sĩ VN” nói chuyện tại Nhà hát Lớn, với đầu đề: “Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội” .

 

25/2/1957: ngày họp thứ năm

- đại diện Tổng Liên đoàn lao động VN Nguyễn Duy Tính, đại diện Hội LH Phụ nữ VN Đinh Thị Cẩn, đại diện Hội LH Thanh niên VN Hồ Trúc phát biểu những ước mong của giới mình với văn nghệ.   

- đại hội thảo luận về kinh nghiệm sáng tác và biểu diễn. Phạm Văn Đôn: về kết quả triển lãm hội hoạ VN tại Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên; Đào Duy Kỳ: Khai thác vốn dân tộc; Nguyễn Công Hoan: kinh nghiệm viết tiểu thuyết; Nguyên Hồng: ý thức nhà văn; Bàn Tài Đoàn: tôi học làm thơ như thế nào; Hồ Dzếnh: một ý nghĩ về sáng tác; Y Dơn: tôi làm văn nghệ; Đội Tảo: Người diễn tuồng cổ; hoạ sĩ Nguyễn Hiêm: đi vào quần chúng; Nông Quốc Chấn: thơ và đời sống; Thuý Ngần: tâm sự diễn viên…

 

26/2/1957: ngày họp thứ sáu

- Thứ trưởng bộ văn hoá Đỗ Đức Dục nói về trách nhiệm văn nghệ sĩ với việc nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân; Nguyễn Khánh Toàn (bộ giáo dục) nói về mối quan hệ của ngành giáo dục và văn nghệ sĩ.

- Các tham luận: Nguyễn Xuân Khoát: những khuyết điểm trong phê bình và tự phê bình; Lưu Công Nhân: chống lối phê bình thiếu nâng đỡ đối với hoạ sĩ trẻ; Nguyễn Đình Phúc: sáng tác lâu dài; Phùng Quán: nhận biết “mùi” trăm hoa là khó; Đỗ Nhuận bác lại ý Phùng Quán: “trăm hoa đua nở” không có nghĩa người trồng hoa có thể không có chủ định gì cả…; Xuân Diệu: về bệnh sơ lược trong văn nghệ; Lưu Trọng Lư: về con người mới; Bửu Tiến: tư tưởng tính trong sáng tác; Nguyễn Thành Long: vấn đề phê bình; Lan Sơn: tâm trạng người văn nghệ sĩ tiểu tư sản; Trần Thanh Mại: Đảng, sự thật  và văn học.

 

27/2/1957: ngày họp thứ bảy

- Tham luận và thảo luận về các nhiệm vụ. Phan Thị Nga: văn nghệ với phụ nữ; Phạm Hổ: văn nghệ với thiếu nhi; Trần Hoàn: lực lượng văn nghệ trẻ; Thái Thị Liên và Bích Được: hoàn cảnh khó khăn của diễn viên…

- Buổi chiều, đại biểu các ngành nghệ thuật trẻ: điện ảnh, nhiếp ảnh, múa rối, xiếc…đọc tham luận; Phan Thao: bàn về đâu tranh cho thống nhất nươc nhà.

 

28/2/1957: ngày họp thứ tám

- điện mừng đại hội của nhà văn Pháp André Still và Pierre Courtade

- Các tiểu ban báo cáo: Hoàng Như Tiếp báo cáo công việc của tiểu ban điều lệ; Đặng Thai Mai: công việc của tiểu ban nghị quyết; Nguyễn Đình Thi: nghị quyết của đại hội; Tú Mỡ (tiểu ban hiệu triệu): thư đại hội gửi các nhà văn nghệ miền Nam, thư đại hội gửi nhà văn trong nước và ngoài nước, thư gửi Trung ương Đảng LĐVN.

- Thông qua nghị quyết của đại hội. Nguyễn Tuân tuyên bố Hội Văn nghệ VN hết nhiệm kỳ. Đại hội bầu cử (bằng bỏ phiếu kín) Ban Chấp hành chính thức của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Chiều, công bố kết quả: có 45 văn nghệ sĩ trúng cử. BCH ra mắt.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh đến mừng thành công của đại hội và nói chuyện với văn nghệ sĩ. 

- Tố Hữu trong đoàn chủ tịch đại hội đọc diễn văn bế mạc.

 

Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam

(do đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai bầu ra)

ngành văn: Nguyễn Văn Bổng, Hồ Dzếnh, (bà) Vân Đài, Bảo Định Giang, Nguyễn Công Hoan, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Tú Mỡ, Hoàng Ngọc Phách, Võ Huy Tâm, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân,  Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Trần Hữu Thung

ngành mỹ thuật: Trần Văn Cẩn, (bà) Nguyễn Thị Kim, Trần Văn Lắm, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Văn Tỵ, Huỳnh Văn Thuận

ngành kiến trúc: Nguyễn Cao Luyện

ngành nhạc: Văn Cao, Lưu Quang Duyệt, Vũ Tuấn Đức, (bà) Thương Huyền, Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước

ngành múa: Hoàng Châu

ngành sân khấu: Nguyễn Phương Danh (Tám Danh), (bà) Ái Liên, Thế Lữ, Tống Văn Ngũ (Năm Ngũ), Nguyễn Thị Lan (bà Cả Tam), Nguyễn Nho Tuý (bác Tảo), Sĩ Tiến

ngành múa rối: Huỳnh Văn Cát

ngành xiếc: Phạm Xuân Thư

ngành điện ảnh: Phạm Văn Khoa, Mai Lộc

ngành nhiếp ảnh: Nguyễn Văn Phú

văn nghệ sĩ dân tộc thiểu số: Cầm Biêu, Nông Quốc Chấn, Y Dơn

(ngoài ra còn 10 ghế dành cho anh chị em văn nghệ hiện ở miền Nam).

 Phiên họp đầu tiên của Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, ngày 1/3/1957 tại trụ sở Hội số 51 Trần Hưng Đạo Hà Nội, dưới sự chủ toạ của nguyên Tổng thư ký Hội Văn nghệ VN Nguyễn Tuân, có mặt 39 uỷ viên chấp hành, đã bầu:

- Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật VN: Đặng Thai Mai

- 8 Phó chủ tịch: Nguyễn Tuân, Tú Mỡ, Nguyễn Xuân Khoát, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Cao Luyện, Nông Quốc Chấn, Nguyễn Phương Danh (Tám Danh), Thế Lữ

- Tổng thư ký: Nguyễn Đình Thi

- 3 phó tổng thư ký: Văn Cao, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Văn Bổng

- 13 vị trên đây họp thành Ban Thường vụ của Hội.

 

(9) “người phá kho bom Tân Sơn Nhất” ở đây ý nói nhân vật thiếu niên họ tên Lê Văn Tám, theo báo chí từ 1946 và nhiều năm về sau, là người đã tẩm xăng vào mình xông vào đốt kho bom ở địa điểm trên; do đây đã có một số truyện ký và kịch viết về đề tài này, trong số đó có kịch “Lửa cháy lên rồi” của Phan Vũ, được giải nhì về kịch trong giải thưởng văn học của Hội Văn nghệ VN 1954-55. Sau này đã xác minh đây không phải là sự kiện và con người có thực, nhưng điều này cũng chưa hề được thông tin chính thức.

(10) Nội dung điều III trong Điều lệ Hội Nhà văn 1957 nói trên là dẫn theo tường thuật của Đào Vũ, Hội nghị thành lập Hội nhà văn Việt Nam, đăng Tạp chí Văn nghệ, số 1, tháng 6/1957, tr. 109-118.

(11) Về các chi tiết liên quan đến Đại hội I Hội nhà văn VN và những người được coi là “hội viên sáng lập”, tôi căn cứ vào tường thuật của báo VănTạp chí Văn nghệ  đương thời, theo đó số người tham dự đại hội I là 278; còn chuyện tư cách hội viên thì tại đại hội đã được bàn thảo và đi tới nhất trí: chỉ 25 nhà văn được bầu vào ban chấp hành khoá I được coi là “hội viên sáng lập” mà thôi. Sau đại hội, ban chấp hành đã tiến hành xét kết nạp hội viên trong một thời gian dài; một tiểu ban được lập ra để giúp việc này; phiên họp BCH từ 15 đến 18/8/1957 đã xét (bằng bỏ phiếu kín, lấy các trường hợp 50% + 1phiếu) được 127 người, sau đó xét kết nạp thêm 6 trường hợp là nhà văn các dân tộc thiểu số, cộng với 25 nhà văn là uỷ viên chấp hành; như vậy có 158 hội viên dự định được kết nạp. Phiên họp thứ 3 trong tháng 7/1957, Ban thường vụ xét kết nạp thêm 14 tác giả kịch bản cải lương tuồng chèo, đưa tổng số hội viên được kết nạp lần thứ nhất lên con số 172 người (“Văn” s. 22, ngày 4/10/1957, tr. 7). Trong khi đó, một số tài liệu do cơ quan Hội Nhà văn biên soạn sau này (cuốn sách mang tên Nhà văn Việt Nam hiện đại, biên soạn và in 1992; và 2 cuốn cũng mang tên ấy, soạn lại và in vào các năm 1997, 2007) thường nêu thông tin: có 165 đại biểu dự đại hội I và tất cả số người đó đều là “hội viên sáng lập”. Điều này không phù hợp với các thông tin từ báo chí đương thời. Chưa rõ con số 165 hội viên đợt I (những người được ghi bằng ký hiệu A từ A 1 đến A 165 trong cuốn sách trên, bản in 1992) có xuất xứ từ đâu?

 

Xem tiếp phần 3

Lại Nguyên Ân
Số lần đọc: 2389
Ngày đăng: 26.07.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Trò Chơi Ẩn Dụ Trong Tháp Nghiêng - Hoàng Thụy Anh
Nguyễn Hồng Quang Trong Bóng Tối Nhìn Ra Ánh Sáng - Lương Văn Chi
Người “sục tìm trong khoảng biếc” thi ca - Nguyễn Hoàng Sơn
Ám ảnh thời gian trong thơ Trương Đăng Dung - Hoàng Thụy Anh
Đến Với “Điềm Nhiên Cỏ” Của Hoàng Công Hảo - Võ Thị Như Mai
Thơ ẩn hiện giữa đời (*) - Huỳnh Như Phương
Món Quà Của Tình Yêu - Trần Hữu Dũng
Mưa Hai Mặt - "Nơi Sấp Ngửa Những Trò Chơi" - Hoàng Thụy Anh
Cô Gái Bị Bịnh Cùi Thoát Y Dưới Trăng - Bùi Công Thuấn
Đọc “Lục Bình Ngẫu Khúc” Của Nguyễn Văn - Nguyễn Tam Phù Sa
Cùng một tác giả