Gió kể rằng: ngày xửa ngày xưa có một anh học trò, khăn gói từ quê lên tỉnh, định dự một kỳ thi tìm kiếm người tài. Chàng thuê một căn phòng nhỏ trong một góc phố heo hút nghèo nàn, sớm tối bút nghiên chăm chỉ, đợi ngày lên đường.
Chàng tiêu xài tằn tiện, mỗi ngày ăn một lần, nhưng dường như lúc nào cũng ở trong tâm trạng lâng lâng, bởi những giấc mơ tương lai đẹp đẽ như màn sương bao phủ lúc ẩn lúc hiện quanh chàng.
Vậy mà một hôm, chàng bỗng nhận ra mình buồn bã. Chàng cần phải nói điều này điều nọ với một ai chứ?
Thế là chàng buông sách, đi vào phố. Chàng đi qua những dãy hàng rào xén trơ trụi bao quanh những ngôi nhà xám xịt, cây cối trong công viên giơ những cánh cây gầy guộc lạnh lẽo lên trời, vài con quạ đen vật vờ lượn từ ống khói ngả xuống bãi đất suộm màu đen đúa bởi đám lá mục đang ruỗng.
Mùa xuân còn xa lắm.
Trong phố lơ thơ người đi lại, ai nấy cố gắng rảo bước thật nhanh để tránh những làn gió lạnh không hiểu từ đâu vẫn thông thốc thổi về. Đất thở dài như muốn ấn sâu hơn những mầm cây khao khát định trồi lên, khiến chàng học trò âu yếm dụi mũi giày vào đất, và thì thầm:”Đừng vội, đừng vội, ngủ yên đi! ngủ yên!”
Chuyện kể tiếp rằng: tối hôm đó, sau một ngày trò chuyện với ông chủ quán rượu cuối phố, chàng trở về phòng trọ với một bức tranh lụa cuộn tròn trong tay.
Người thì bảo chàng đã mua bức tranh đó bằng những đồng tiền dành dụm cuối cùng. Kẻ lại nói ông chủ quán đã tặng chàng, sau những cơn miên man thổ lộ những nỗi cô đơn và những nỗi buồn xa vắng. Chỉ đám lửa nhảy nhót trong lò và những bọt rượu vang sủi tăm trong cốc mới kiểm chứng được điều này…
Chàng trai treo bức tranh lên tường trước bàn, kê sát cạnh cửa sổ.
Êm ái từ góc ngồi, chàng có thể ngắm bức tranh khi tạm nghỉ giữa những dòng chữ, hoặc lim dim đôi mắt, vừa ngước lên tranh, vừa lắng nghe tiếng vọng thì thầm của dòng suối hoang rì rào chảy dưới chân một chiếc cầu nhỏ trong công viên, gần nơi chàng trọ.
Bức tranh vẽ một nàng tiên với xống áo lượt là, những dải váy uốn cong như mây trăm sắc cầu vồng sà xuống sát thân hình mảnh dẻ mềm mại, nàng như đang rảo bước trên con đường thiên lý, búp chân thoăn thoắt, nhưng mái đầu nhỏ xinh ngoảnh lại phía sau, nhìn kẻ ngoài tranh với đôi mắt long lanh đượm nắng chiều tà và một nét cười lưu luyến.
Nàng chẳng có thể chỉ là tiên, vì chàng thư sinh sau khi có bức vẽ đã không bao giờ cần ra khỏi nhà lâu, hoặc mất thời gian vào việc kéo rèm, mở toang những cánh cửa lúc nào cũng im ỉm đóng của căn phòng trọ.
Cuộc sống chỉ được chứng thực trong nụ cười hạnh phúc và nét mặt sáng bừng, đôi mắt long lanh dõi xa xăm của chàng trai mỗi khi người ta bắt gặp chàng vội vã trong thành phố, bắt buộc phải rời bỏ phòng trọ vài ba tiếng đồng hồ…
Và cứ thế mùa đông trôi đi, mùa xuân ùa đến.
Một ngày, điều kỳ diệu đã xảy ra, hay đấy là nỗi bất hạnh ập đến?
Một ngày xuân xinh đẹp, chim hót véo von trên cành, những mầm cây dưới đất nhú lên thành biển Tulipan đỏ rực góc công viên, mảnh vườn khuất nắng e ấp một dải vàng dịu dàng của đám hoa lá dại, và tiếng bồ câu gù gù ngọt ngào trên những mái nhà tha thướt khói…
Cánh cửa sổ phòng trọ của chàng thư sinh bỗng mở toang.
Người ta chỉ kịp nhìn thấychàng trai nhoài người ra cửa sổ, đôi mắt chứa chan hạnh phúc lẫn thấp thoáng lo âu và tìm kiếm của chàng ẩn hiện sau những bức rèm…
Rồi cũng từ khung cửa sổ ấy, một bức tranh lụa vụt bay lên trên không trung, một nàng tiên với xống áo lượt là, những nếp dải váy uốn cong như mây trăm sắc cầu vồng sà sát thân hình mảnh dẻ mềm mại bước ra khỏi tranh, bay vút lên những đám mây trắng lang thang, những búp chân thoăn thoắt, nhưng mái đầu nhỏ xinh ngoảnh lại phía sau, để lại trần gian một nét cười lưu luyến và ánh mắt long lanh đượm nắng chiều tà…
Từ đấy về sau cũng không ai còn nhìn thấy chàng học trò nữa.
Người đời cứ thêm vào những tình tiết ly kỳ cho một bí ẩn truyền thuyết, nào là: đấy là nàng tiên bước ra từ tranh để an ủi những người đàn ông ưa thích chia xẻ, nào là: đấy chỉ là chuyện kể mùa đông của những đêm giá băng, khi gió gào thét trên mái, không len được vào cuộc sống bị nhốt kín của con người trong các căn nhà.
Người ta hầu như chỉ tin vào một người duy nhất trong thành phố: ông chủ quán, kẻ đồn rằng có dính líu đến bức tranh. Người đàn ông úp mở rằng: chàng trai trẻ đã vi phạm một lời nguyền.
Trong một phút nửa tỉnh nửa mơ của hạnh phúc ngày xuân, chàng đã nhất mực tin rằng mình nghe thấy đâu đây một tiếng gọi tha thiết:” Hãy đến với em! hãy đến với em!”- tiếng gọi như linh hồn nàng Catherin từ Đồi Gió Hú cất tiếng, bất chấp lúc đó là hoàng hôn hay bình minh, từ cửa sổ phòng ngủ, hay từ những cụm mây, từ ngọn gió lang thang trên sườn đồi hay từ chính trái tim những người đang ao ước…
Chàng thoắt quên nàng con gái vẫn đứng nguyên trong bức tranh treo trên tường, từ thuở nàng xuất hiện, chàng chỉ luôn âu yếm bằng đôi mắt và ngọn bút, muốn gần nàng, chàng cần câm lặng, để nghe trọn vẹn tín hiệu tích tắc của trái tim.
Vậy mà chàng đã mở toang cửa sổ, để tìm và ôm gọn người mình yêu trong tay, từ phút ấy nàng thôi hiện hữu…
Truyền thuyết muốn bỏ đi cùng bốn mùa và năm tháng cho trọn lẽ. Nhưng gió cứ níu kéo chúng lại, kế cho đất nghe, để kiếp sống nào của người đời cũng vương vất những mảnh rơi của nó.
II.
Góc phố hẻo lánh xưa nay đã thành trung tâm của một thành phố hiện đại.
Còn ngôi nhà chứa căn phòng trọ hôm nào của chàng thư sinh biến thành tòa nhà một trăm tầng sừng sững, toàn cửa kính ốp sát tường đá xám, để mỗi sáng mang sắc tím hy vọng khi mặt trời bình minh chiếu vào, mỗi trưa mang sắc đỏ của những nỗi ồn ào lo toan bên trong tỏa ra, và chiều tà mệt mỏi màu ghi, dấu ấn cuối cùng của đám đông dòng người vợi đi một ngày sống.
Chỉ có khu vườn công viên với rẻo cầu bắc ngang, dòng suối hoang róc rách là vẫn như xưa.
Từ của sổ căn phòng trong một tầng nào đó của tòa nhà, đôi khi vào lúc nửa đêm, hoặc lúc một cư dân bị ốm, tai không thể nghe rõ tiếng ồn ào của xe cộ, của nhịp sống dưới lòng đường, nhưng chợt nghe rất rõ những tiếng róc rách dịu dàng từ con suối dội đến.
Một hôm, có một người đàn bà từ xa dọn đến một căn phòng trong một tầng nào đấy của tòa nhà.
Giữa tài sản ít ỏi mang theo của nàng, người ta nhìn thấy một chiếc laptop. Giữa đám người tấp nập lên xuống từ những đầu thang máy, nàng hiện ra như một dấu phẩy.
Sáng sáng, đoàn người tỏa ra từ khu nhà ấy tím biếc hy vọng như một sao chổi khổng lồ rắc những hạt sáng năng lượng vô tận, tối tối đoàn người lại chui vào khu nhà chầm chậm bền bệt, hệt những bước di chuyển nặng nề của một mụ phù thủy già nua vô hình.
Người đàn bà không có nổi một giây để đếm xem mình đang ở quãng ngắt nào của một đời sống, thế giới của nàng gói gọn trong một vài món đồ, trong đó có chiếc laptop, sáng nàng mang thế giới đi, chiều nó theo nàng về nhà, chỉ cần mở nắp, bấm nút, vũ trụ bừng lên như màn diễn của các vì sao, dưới những tên gọi khác nhau, thi nhau mời chào nàng đến với chúng.
Mê mải, mệt mỏi, đằng đẵng, bấu víu, hụt hẫng, tan biến, vịn bàn, làm lại từ đầu, nàng ngạc nhiên thấy các định danh tinh thần từ từ đến với mình từ lúc nào không rõ
Rồi đến một hôm, nàng nhận ra là mình buồn bã. Cần phải nói gì với một ai chứ?
Nhưng thay vì lùa bước chân ra đường, ngắm những bụi hoa xuân đã bắt đầu li ti sắc trắng, ngắm những ông bà già vàng úa như lá thu rơi từ năm ngoái, hay đơn giản hơn, ngắm một ống khói xám xịt nhô lên trên bầu trời thành phố, nàng ngồi lại trong phòng, bâng quơ bấm nút laptop. Những ký hiệu dày đặc hiện ra, nàng bâng quơ đọc.
Đúng lúc ấy khu nhà mất điện. Nàng đốt nến, cắm thẻ vào laptop đọc tiếp, và bỗng ngây người khi thấp thoáng hiện ra bóng một người giữa những dòng chữ, dáng một người đàn ông.
Không thể lầm được, anh đứng lên, đi lại, cười nhẹ, châm thuốc hút, rồi đi về phía cửa sổ… Không một tiếng động, một âm thanh, chỉ có dáng hình, dáng hình anh thay đổi theo những con chữ, những cụm từ, những âm sắc luyến láy mơ hồ khác nhau của các dấu chấm phảy…, lúc anh có màu đỏ, khi màu trắng, lúc chỉ một màu sữa bình yên.
Người đàn bà sửng sốt nhìn những dòng chữ. Và quen dần với bóng hình ấy. Nàng nghiêng tai, có thể có âm thanh nào chăng, vì anh đang cười mà…
Không, chẳng có gì cả, hình như có một tiếng suối chảy róc rách dịu dàng đâu đây, trong màn đêm, hình như có cả mùi hương thơm gắt của chùm hoa đinh tử hương tím mà nàng ưa thích nữa.
Người đàn bà ngủ quên bên chiếc laptop, ngon lành, không mộng mị, không mong ước, không bồn chồn, không hoài ước…
Nàng thấy mình chân trần chạy giữa khóm tầm xuân, băng ra cánh đồng bắp cải ẩm ướt ban mai, thấy một mặt trời đỏ như cái lòng trứng gà đang từ từ tách ra khỏi vầng mây hồng nhạt, chiếu tia nắng ấm áp đầu tiên lên má…
Ta đã biến thành đọt đòng đòng lúa non ngọt lịm dưới cánh đồng bùn lội bì bõm, ta đã biến thành một chú cua ghếch đôi càng định đe dọa đôi tay người túm chặt, nhưng muộn rồi lại biến thành đôi càng chắp lại lạy van, và đâu rồi những giọt mưa rơi lặng lẽ trên cánh đồng lúa mỳ, cạnh những hàng bạch dương thu muộn bát ngát? …
Giá không cần tái hiện sự sống đã đi qua trong đời, như mỗi lần ấn nút laptop, chữ, ký hiệu lại hiện ra?
Nhưng thế giới đã thu mình vào đó, mỗi sáng thức dậy ta phải làm nốt nghĩa vụ với đời bằng cách trải nó ra?
Từ lúc gặp một người đàn ông giữa những hàng chữ, người đàn bà cảm thấy mình đã tìm thấy lý do để giải thích những định danh tinh thần ngày ngày thường bắt gặp. Nhưng nỗi mệt mỏi mơ hồ không sao gập được cái thế giới ảo ấy để cất đi, kể cả trong giấc ngủ, bắt đầu làm nàng bối rối.
Một lần, không đừng được, nàng bấm vào một nút nào đó, tìm khóa mở cội nguồn những dòng chữ kia ra, màn hình hiện lên dòng chữ: Mật khẩu?
Nàng làm sao biết được anh ẩn náu dưới mật khẩu gì? Bằng ký hiệu nào?
Có thể là: tôi thấp? tôi béo? Tôi gầy? tôi nói lắp? tôi sợ ánh sáng? Tôi hay cười? tôi không thích ăn đồ chua?vv…Hay chỉ đơn giản: hãy để cho tôi yên! Tôi mệt! tôi muốn một mình!
Nếu anh hiện hữu giữa những dòng chữ, hẳn phải hiện hữu trong không gian nàng sống?
Vậy là nàng mơ màng tưởng đến một âm mưu.
Không hiểu sao nàng nhớ đến cuốn sách nhỏ bằng bàn tay, có tấm bìa màu đỏ mà thuở lên mười nàng cứ đọc đi đọc lại: „Một chút mặt trời trong nước lạnh”, cao hơn chút nữa là ba từ xám lặng yên: F. Sagan
Tại sao thuở đó cuốn sách thu hút nàng đến thế, dù nó trải ra trước mặt nàng một nỗi kinh sợ bình yên, đúng như cái chết, thuở đó nàng đã biết đích xác đấy là sự chết.
Tại sao người đàn bà đến với cái chết tự nguyện đến thế? Theo cái triết lý thông thường của thế gian lỗi này hẳn tại sự buồn chán.
Sau này nàng hiểu cái mà người đàn bà thiếu là sự vô hình. Bởi đời đàn bà là những nỗi cụ thể, cụ thể đến mức thành rutin, nhắm mắt lại cũng nhào được bột thành bánh, nghe một âm thanh đầu tiên cũng đã hiểu sắp gặp một lời nói từ một linh hồn đáng yêu hoặc đáng ghét nào đây.
Vậy mà có tóm được trong tay một đám mây đâu, cho dù ngày nào ta cũng ngắm nhìn nó mỏi mắt bay ngang khung trời?
Chả lẽ chỉ bằng những âm mưu mới gặp được những nỗi vô hình? Như gặp anh? Như gặp người đàn ông của cuốn sách, giữa một hotel Paris xa lạ?
„Một chút mặt trời trong nước lạnh”
Vậy cần phải có thêm một chiếc máy bay cho một âm mưu, chiếc máy bay ấy phải rơi, hoặc nổ tung, để người sống không được quay trở lại, vì cuộc đời là cụ thể, và hình như những thứ khác, như linh hồn thì không…
Thế là trong một giây vô thức, cái gì đó dâng lên trong họng khiến nàng buột miệng kêu lên tha thiết:” Hãy đến với em! hãy đến với em!”.
Âm thanh trào ra khỏi thể xác là biến liền thành tiếng gió, người đời dù muốn hay không cũng phải lắng nghe, có thể là truyền thuyết, có thể là phút sống ngay bây giờ đây, nhưng có thể chỉ là sự hiện hữu của một thế giới ảo, với ảo tưởng gập nắp laptop xuống người ta sẽ quên đi…/.