(Bài phát biểu nhân dịp nhà thơ Cung Trầm Tưởng ra mắt thi-phẩm “Những Dấu Chân Ngang Trên Một Triền Phiếm Định” tại Westminster, Nam California, ngày 16 tháng 11 năm 2003)
Kính thưa quý vị
Kính thưa nhà thơ Cung Trầm Tưởng
Tôi xin cám ơn anh Viên Linh, chủ bút Tạp chí Khởi Hành, đã có nhã ý mời tôi làm diễn giả khách qua đường để phát biểu đôi lời nhân dịp nhà thơ Cung Trầm Tưởng ra mắt thi phẩm mới của ông tại báo quán nhật báo Người Việt . Đó cũng là nhờ một bài viết trước đây của tôi về thơ Cung Trầm Tưởng đăng trong Tạp chí Khởi Hành ấn hành ở Nam California (số 74, tháng 12 năm 2002, xin đính kèm sau bài phát biểu này). Trong bài đó, tôi nói về những ấn tượng đẹp mà chỉ trong ba bài thơ làm khi du học tại Pháp, và phổ biến khi Cung Trầm Tưởng trở về nước, nhà thơ tạo ra những ấn tượng khó quên trong tâm thức người thanh niên . Chỉ nội ba bài thơ MùaThu Paris, Chưa Bao Giờ Buồn Thế, và Khoác Kín, thi sĩ Cung Trầm Tưởng đã phác họa cả một vòm trời nước Pháp. Tính chất lãng mạn của các thi ảnh Tượng Đá và Lá Mùa Thu, Người Em tóc vàng và màu mắt Tây phương, Nhà ga đèn vàng và đoàn tàu tuyết phủ, Khoác kín áo và la cà quán rươụ, đến nay vẫn còn âm vang trong tâm thức những người ở lứa tuổi từ 55 đến 65, có nghĩa là tâm thức của người thanh niên 45 năm về trước, tâm thức vào thời giữa thập niên 50 cho đến giữa thập niên 60. Nói như vậy không phải khẳng định tuôỉ trẻ hôm nay, thế hệ trưởng thành tại các xứ văn hoá Tây phương, hoặc cả chúng ta ở tuổi trung niên hay quá trung niên nhưng đã sống nơi hải ngoại hơn hai thập niên rôì, tất cả không còn cảm thức các hình tượng đẹp lãng mạn trong ba bài thơ du học và vương vấn môí tình người thiếu nữ Tây phương hiện diện trong thơ Cung Trầm Tưởng. Nhưng tâm thức mỗi thời mỗi khác, vì vậy hôm nay ta thử tìm lại đặc tính của thời kỳ mà ta đã ở trong cuộc, thời kỳ cấu tạo thành cảm thức tiếp nhận thơ du học trở về của Cung Trầm Tưởng. Ta thử nhớ lại đó là thời kỳ gì? Ta nhớ lại đó là thời kỳ đất nước Việt Nam mới bị chia đôi ở vĩ tuyến 17, tiếp theo là cuộc di cư lớn của người miền Bắc đi vào miền Nam, xây dựng Miền Nam Việt Nam thành tiền đồn phòng giữ Đông Nam Á và trong vòng ảnh hưởng Tây phương. Vậy thì có liên hệ gì đến thơ du học với mối tình đẹp ở nước Pháp của Cung Trầm Tưởng? Có liên hệ vì luồng gió đi du học bao trùm thời kỳ này. Pháp có Hội Việt Pháp, Hoa Kỳ có Hội Việt Mỹ, Tây Đức có Hội Việt Đức, Anh mở ra các kỳ thi cấp phát bằng Tài năng Anh ngữ. Thanh niên vừa tốt nghiệp trung học có một số vào ra những nơi này để nghe ngóng các kỳ thi huấn luyện sinh ngữ và cấp học bổng du học. Sách báo tài liệu do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, Tạp chí “Thế Giới Tự Do” của Mỹ phổ biến trong quần chúng, ấn tượng đậm nét đối với giới thanh niên đang muốn tìm hiểu là những trường đại học đồ sộ danh tiếng, chất chứa bao nhiêu là tưởng tượng. Trong khi đó, những gia đình khá giả còn đầy thiện cảm với nền văn minh lâu đời của Pháp vẫn tìm cách gởi con du học Pháp quốc mà bấy giờ điều kiện du học có phần khó hơn, do Miền Nam đang chuẩn bị đối phó với chiến tranh, thanh niên ràng buộc với vấn đề quân dịch. Tuy vậy không khí đi du học vẫn là điều mơ ước, vẫn âm ỉ. Người có điều kiện thì hy vọng một ngày nào đó lên đường, người chắc chắn không bao giờ có điều kiện thì ước mơ. Nhà bên cạnh có anh bạn cùng lớp, được cha mẹ giàu có tìm cách gởi qua Paris, ít tháng sau đã thấy anh gởi hình về, ăn mặc chỉnh tề kiểu học trò xứ lạnh, cho biết anh được thu nhận vào trung học, vào lớp cùng trình độ như khi đang học taị Saìgòn, chuẩn bị sang năm thi Tú Tài. Không rõ anh nói thật hay đùa. Người anh lớn tuổi cuối phố nhờ có người đi trước mách lối, lo học Anh văn, nay đã thi đậu cuộc thi do cơ quan USOM mở ra để cấp học bổng du học Mỹ quốc, chuẩn bị lên đường vào một đại học lừng lẫy ở San Francisco...Vài ví dụ đó để thấy không khí đi du học của thời kỳ cuối thập niên 50 đến giữa thập niên 60. Những người không mảy may hy vọng thì chỉ còn ước mơ. Mà ước mơ được lưu giữ lâu dài, được dự trữ thường xuyên, là nhờ những bài thơ đẹp. Ước mơ tái xuất mỗi lần đọc lại bài thơ, không thoáng qua và mất đi như giấc mộng. Chỉ ba bài thơ, thi sĩ Cung Trầm Tưởng đã khắc sâu vào tâm thức một thế hệ thanh niên vốn ham học hỏi, yêu chuộng văn minh, lại thêm một thời thế gây xúc tác hướng ra thế giới bên ngoài. Ông không khắc vào gỗ đá như một điêu khắc gia, mà khắc vào tâm tư của thế hệ đang ước mơ có dịp đi xa. Thơ ông đã khắc vào tâm hồn ta Tượng đá và thu vàng nơi công trường lá đổ, tóc óng ả mượt mà và màu mắt Tây phương, nhà ga đèn vàng và đoàn tàu tuyết phủ, khoác kín áo và la cà quán rượu; hòa lẫn trong đó tính lãng mạn, lòng hiếu học, tâm hồn nghệ sĩ trước thiên nhiên. Cùng với con sông Seine mặc áo sương mù và bến tàu nhà ga cũng sương mù mênh mông trong thơ Nguyên Sa, cả hai thi sĩ Nguyên Sa và Cung Trầm Tưởng như có cái hẹn cùng thời, cùng một nơi du học, cùng một nơi thi thố tài năng trên Tạp chí Sáng Tạo, cùng một cảm hứng làm đẹp Paris và Pháp quốc.
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng không chỉ gây ấn tượng vòm trời nước Pháp vào tâm hồn thanh niên thời ấy, mà điều đáng kể thứ hai thì ông là người đầu tiên khởi xướng đưa ngôn ngữ tân kỳ vào thơ lục bát. Không hẹn mà Tạp chí Sáng Tạo ra đời vào cuối thập niên 50 đã hân hạnh thành nơi sản xuất bốn nhà thơ tài danh, Thanh Tâm Tuyền với Thơ Tự Do, Nguyên Sa với Thơ Tình Hiện Đại, Tô Thùy Yên với thơ bảy chữ tân kỳ, Cung Trầm Tưởng với lục bát tân kỳ. Bây giờ đọc lại bài thơ lục bát đầu tiên được kể là tân kỳ đăng trong tạp chí âý, bài “Khoác Kín”, ta thấy chỉ có vài từ ngữ tân kỳ như “ buổi chiều tiếp thu trời buồn” hoặc “tâm tư khoác kín”, nhưng hơn 45 năm về trước đã có vẻ khác với ngôn ngữ quy ước trong những bài thơ lục bát chuốt lọc của Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Trần Huyền Trân...Song song với tâm thức đón nhận luồng gió du học là tâm thức đón nhận những đổi mới văn chương, khác với thời Thơ Mới. Cái tâm thức do Tạp chí Sáng Tạo góp công tạo nên nhờ tương phản với những Tạp chí văn chương chừng mực ít gây sôi nổi cùng thời. Do đó thơ Lục bát chỉ mới tân kỳ thấp thoáng của thi sĩ Cung Trầm Tưởng đã được đón nhận tốt. Tiếp theo, ông sáng tác nhiều bài thơ lục bát càng ngày càng thâý rõ chủ tâm sáng tạo từ ngữ tân kỳ. Ta thử đọc lại một số câu thơ lục bát của ông trước năm 1975 để thấy mức độ tân kỳ càng ngày càng gia tăng, nhưng không đến nổi khó hiểu và còn rất thơ mộng:
... Đêm nay trời khóc trời mưa
Gió lùa ẩm mục trời đưa thu về
Trời hay thu khóc ủ ê
Cổ cao áo kín đi về buồn tôi
... Ngày đi, chiều tới không nghiêm
Khoan thai gió cởi phong niêm rũ buồn
Bờ nghiêng nắng giốc đường thuôn
Thiết tha tiếng cũ nghe luồn không trung.
... Ngủ rêu bồn thềm nghìn thu
Hồn, đôi cánh vạc bay tù không gian...
Ta cần nhắc lại một lần nữa là những câu thơ trên của nhà thơ Cung Trầm Tưởng đã xuất hiện hơn 45 năm về trước, lùi lại thời gian xa như vậy để thấy tính chất mấp mé rời xa quy ước so với lục bát đẹp trau chuốt nhưng khuôn khổ về từ nghĩa của các nhà thơ thời lãng mạn tiền chiến. Tuy nhiên, vì chú trọng về thi ảnh thơ mộng, mà thơ mộng nếu muốn độc giả cảm nhận ra thì tác giả như bị lôi kéo vào từ nghĩa quy ước sao cho dễ hiểu, do đó thơ tân kỳ của ông chưa đến mức độ quá tân kỳ. Ấy là ta nói cái tân kỳ thấp thoáng của ông hơn 45 năm về trước, còn thơ lục bát đậm đặc mật độ tân kỳ mới sáng tác gần đây của thi sĩ thì ta cũng cần tìm hiểu chủ trương triệt để hơn nữa của ông. Xin chỉ nói lướt qua vì nằm ngoài đôi lời phát biểu hôm nay, bài nói này chỉ giới hạn thơ Cung Trầm Tưởng trước năm 1975, nhấn mạnh ở chủ điểm “ Tìm lại tâm thức đón nhận thơ du học trở về và thơ lục bát đổi mới” của ông. Lúc đó, tuy bài thơ đầu tiên chỉ mới tân kỳ thấp thoáng, nhưng thơ lục bát của ông đã hé cánh cửa mở đường thoát ra khỏi cái bóng bao trùm đầy hấp lực của lục bát Huy Cận. Tiện đây xin kể lướt qua vài chủ trương triệt để tân kỳ cho lục bát mới sáng tác nơi hải ngoại của Cung Trầm Tưởng, đó là: Tận dụng khai thác mật ngôn ẩn ngữ, ngôn ngữ đôi, ngôn ngữ cầu hồn gọi vía, ngôn ngữ kinh sấm, thậm chí còn mô phỏng tiếng kêu của thú rừng chim muông, những vang vọng từ tiền kiếp xa xăm...Tại sao ngày xưa thấp thoáng tân kỳ mà ngày nay dầy đặc tân kỳ, thiết nghĩ chắc có chủ đích. Thì tác giả bảo rằng làm thơ là luyện ngôn như luyện kim, ngày xưa luyện ít còn bây giờ luyện nhiều, vậy dầy đặc ngôn ngữ tân kỳ là đương nhiên theo hướng đi tới hoài của lịch sử, càng ngày phải càng hơn xưa. Ta thử đọc một đoạn thơ lục bát sau đây để thấy mật độ đậm đặc ngôn ngữ tân kỳ:
... Ngủ xù bách gáy hi hu
Ngỗng tao loạn đấm lồng tù không gian
Ngủ trườn cầu quá biên san
Bóng hươu loãng bạt phiêu ngàn tuyết sa
Ngủ lung liêng đốm lửa phà
Hớ hênh chiếc quán ngủ xa ngoài làng...
Ta thử so sánh đoạn thơ trên với bài thơ lục bát đầu tiên gọi là tân kỳ của ông đăng trong tạp chí Sáng Tạo cách nay hơn 45 năm, bài “Khoác kín”. Như một bàn cân nghiêng lệch, xưa nặng về phía thi ảnh đẹp quy ước, chỉ điểm xuyết một hai thi ảnh tân kỳ; nay thì cán cân lệch về phía tân kỳ, chỉ có hai câu cuối còn vướng chút quy ước. Cũng nhờ hai câu đó mà ta bắt gặp lại cái lúc tiên phong khởi xướng tân kỳ của nhà thơ Cung Trầm Tưởng. “ Hớ hênh chiếc quán ngủ xa ngoài làng” có một chút tân kỳ như “ bâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồn”, và “ Ngủ lung liêng đốm lửa phà” có một chút tân kỳ như “ Tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm”, nghĩa là pha trộn tân kỳ và bình thừơng để taọ nên câu thơ có vẻ mới mà vẫn phảng phất cái đẹp quy ước, dễ được tiếp nhận ngay tức khắc. Cái tân kỳ chừng mực và dễ tiếp nhận ngay tức khắc đó cũng là tâm thức thời ấy đang ước mong một nền văn chương mới, nhưng chưa mường tượng ra được những gì quá cách tân. Tạp chí Sáng Tạo dẫn đường một nền văn chương mới, nhưng cũng là nhờ tâm thức thanh niên yêu văn chương lúc đó đang chờ đợi đón nhận, vì sau 9 năm chiến tranh (1945- 1954) chưa xuất hiện điều gì mới về văn chương, ngoài những bài thơ kháng chiến chống Pháp. Cũng như tâm thức hiếu học, ham đi du học của thanh niên giữa thập niên 50 đến giữa thập niên 60, đã mở ra sẵn sàng do thời thế gây xúc tác. Nhờ vậy, những “ Mùa thu Paris công trường lá đổ, dòng sông Seine sương mù, ga Lyon đèn vàng, người em Tây phương tóc vàng sợi nhỏ, những đường tàu mênh mông nối kết các thủ đô văn minh...” trong thơ Nguyên Sa và Cung Trầm Tưởng được tiếp nhận nồng hậu. Lúc đó còn quá sớm đối với thế hệ du học Hoa Kỳ nên trên tờ Sáng Tạo chưa có những bài thơ đẹp gởi về từ Cựu Kim Sơn hay Hoa Thịnh Đốn.
Bài nói về tâm thức người thanh niên hơn 45 năm về trước khi đón nhận thơ tình du học từ nước Pháp và thơ lục bát hé mở tân kỳ cuả thi sĩ Cung Trầm Tưởng, đến đây xin dứt lời.
Kính chào quý vị,
HÌNH DUNG NƯỚC PHÁP QUA THƠ CUNG TRẦM TƯỞNG
I- TƯỢNG ĐÁ VÀ LÁ MÙA THU
Trước 1975, có những người Việt qua học bên Pháp, lưu lại những bài thơ gợi cảm về miền đất mà khi còn ở quê nhà chúng ta hằng mong ước đi đến. Trong số những bài thơ đẹp về nơi ấy, có thơ của Nguyên Sa và Cung Trầm Tưởng. Cái đẹp của thơ Nguyên Sa phảng phất sương mù của dòng sông Seine. Cái đẹp của thơ Cung Trầm Tưởng phảng phất không khí buốt giá của vòm trời nước Pháp, của thủ đô Paris mà dấu vết chúng ta thường gặp là tượng đá công viên. Tượng đá công viên, sản phẩm của văn hóa Tây Phương. Chúng ta biết như thế từ khi còn ở thời học sinh, một là qua bài hồi ký Pháp du hành trình của học giả Phạm Quỳnh trong đoạn nói về vườn Luxembourg, hai là qua bài hồi tưởng thời cắp sách đi học của nhà văn Anatole France, trong đó nhà văn nhớ lại bóng dáng của mình hai mươi lăm năm về trước, cái bóng đang nhảy tung tăng như con chim sẻ trong ngày khai trường, cái bóng dáng trên đường đi học thường qua một công viên nhìn lá thu vàng lả tả trên những pho tượng trắng. Nguyên Sa cũng đã từng ước ao làm một pho tượng trắng để đêm đêm chứng kiến những cặp tình nhân hò hẹn trên những ghế dài, dưới bóng sao và những hàng cây. Cái lối tình tự, khung cảnh để tình tự, mang nét Tây Phương, hiện diện trong thơ Cung Trầm Tưởng:
- Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục xâm
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm.
- Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút giờ
(Trích bài: Mùa Thu Paris)
II- TÓC VÀNG VÀ MÀU MẮT TÂY PHƯƠNG
Không hiểu vì mặc cảm dân tộc hay vì một lý do nào khác, chúng ta thường trầm trồ những cặp vợ chồng: chồng Việt vợ Pháp, nhất là khi người vợ Pháp lại là một người đàn bà trẻ đẹp, có học thức. Khi qua Pháp, Cung Trầm Tưởng là một sinh viên du học, ông có người tình nhân là một cô gái Pháp mà chúng ta mường tượng là phải đẹp và cũng học trường Đại Học như ông, như thế mới đáp ứng lòng ngưỡng mộ có tính chất thơ mộng của ta. Đã là người con gái Tây Phương thì đặc điểm là tóc vàng và mắt nâu. Mắt đen lay láy cũng đẹp lắm, nhưng hình như để dành cho người Đông Phương. Chúng ta nhận thấy trong thơ Cung Trầm Tưởng dáng dấp người sinh viên Việt Nam du học vào ra một quán rượu mùa đông có người tình là nữ sinh viên Pháp học ở Paris, nhưng nơi cư trú là một tỉnh lỵ, cứ mỗi mùa hè ba tháng hay một trăm ngày thì nàng lại trở về gia đình cha mẹ:
- Mùa thu nơi đâu
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Người em gác trọ
Sang anh gót nhỏ thầm thì
(Tích bài: Mùa Thu Paris)
- Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
(Trích bài: Chưa Bao Giờ Buồn Thế)
III- NHÀ GA ĐÈN VÀNG VÀ ĐOÀN TÀU TUYẾT PHỦ
Trong thời kỳ đất nước bị chiến tranh tàn phá, chúng ta muốn tìm lại hình ảnh của những chuyến xe lửa "chở người đi nhớ, kẻ về thương" (thơ Nguyễn Bính). Những đường xe lửa ấy của người Pháp làm ra trên đất nước ta. Trước năm 1975, muốn tìm lại, chúng ta thường nhìn về góc trời nước Pháp hiển hiện trong thơ Cung Trầm Tưởng. Cũng là những sân ga đèn vàng; cũng là tiếng vọng của chuyến tàu ầm ầm rồi mất hút; cũng người này đưa tiễn người kia; cũng nhà ga mái giọt âm thầm trong những ngày mưa. Chỉ có một cái khác là tuyết phủ đầy chuyến tàu trong những tháng mùa đông. Vị trí của Cung Trầm Tưởng khi ở bên Pháp đứng nghe chuyến tàu chạy là một nơi khá cao, thời gian là lúc sẩm tối, nhà cửa dưới thung lũng ẩn hiện những ánh đèn điện nhạt nhòa trong gió bay:
Mùa đông tuyết lũng âm u
Bâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồn
Nhớ ngày tàu cũng đi luôn
Ga thôn trơ nỗi băng nguồn héo hon
Phương xa nhịp sắt bon bon
Tàu đi dưới tỉnh núi còn vọng âm
Sân ga mái giọt âm thầm
Máu đi có nhờ hồi tâm đêm nào
Mình tôi với tuyết non cao
Với cồn phố tịnh buốt vào xương da
Với mây trên nhạt ánh tà
Với đèn xóm hạ cũng là tịch liên
Tôi về bước bước đăm chiêu
Tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm. (Bài thơ: Khoác Kín)
- Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng
Tàu em đi tuyết phủ
Toa em lạnh gió đầy…
(Trích bài: Chưa Bao Giờ Buồn Thế)
IV- KHOÁC KÍN ÁO VÀ LA CÀ QUÁN RƯỢU
Hễ nói về đời sinh viên du học, chúng ta thường gắn liền với một mối tình gặp gỡ trên đất người, và đời sống là một chuỗi ngày rất nghệ sĩ. Ít khi chúng ta nghĩ đến trường hợp du học tự túc nghèo nàn, như trong cuốn "Mây Ngàn" nhà văn Vi Ta Lê Văn Vị đã mô tả về một sinh viên nghèo, nghèo đến nỗi đi vào thư viện đã sơ ý để khoai tây đựng trong cặp da rơi rớt trước mắt những người con gái Tây Phương, nghèo đến nỗi phải mướn nơi trọ học thật cao trên từng lầu, và mỗi khi đói phải đem đi bán từng pho sách quý.
Tôi là sinh viên nghèo
Bữa có bữa không
Tôi là sinh viên nghèo
Trong giới lao công
Ở tầng lầu cao ngất
Mùa đông lạnh như cắt
Mùa hè nóng như thiêu
Lúc nào cũng túng rối
Sống đầu tắt mặt tối
Thân vất vả trăm chiều
Áo quần rách rưới mạng nhiều chỗ
Sách học mang đi bán từng pho
Thân mây ngàn đâu xứ sở
Thương nỗi mẹ luống trông chờ
(Vi-Ta Lê Văn Vị)
Hình ảnh người sinh viên du học hào hoa nghệ sĩ thì có rất nhiều, ở trong văn của Phạm Công Thiện, trong thơ của Nguyên Sa và Cung Trầm Tưởng. Họ thường la cà nơi quán rượu, trong xóm nghệ sĩ Saint - Germain de Pre's. Tuy rượu đỏ và cà phê đen không có gì là xa hoa nhưng cũng có vẻ nhàn rỗi lắm. Cà phê đen cho Phạm Công Thiện những giây phút tĩnh mịch trong khung cảnh "Bay đi những cơn mưa phùn", còn rượu đỏ dành cho Cung Trầm Tưởng đỡ bồn chồn tấc dạ khi chưa thấy người yêu đến nơi hò hẹn:
- Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly.
Một đặc điểm nữa của vòm trời nước Pháp nơi xứ sở lạnh, là cách ăn mặc. Về mùa đông buốt giá thì người nào cũng co ro khoác kín, khoác kín tấm thâm và khoác kín tâm sự của mình:
- Tôi về bước bước đăm chiêu
Tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm
Một vài đặc điểm có thể nào đại diện cho cả một vòm trời nước Pháp không? Có thể lắm. Theo tinh thần nghệ thuật chấm phá thì chỉ cần vài nét. Cũng như một cành trúc la đà, một con thuyền nhỏ trên sông lam, có thể hình dung cả một vòm trời và tâm hồn Đông Phương mà nay ta đã lâu rồi xa cách./.