1. Khái niệm
1.1. Thể loại Đường luật
Thơ Đường là khái niệm khá co dãn, có khi chỉ tất cả những bài thơ được sáng tác vào đời Đường ở Trung Quốc (bất kể thuộc thể thơ nào), có khi lại chỉ tất cả các bài thơ làm theo thể Đường luật (bất kể được sáng tác vào lúc nào, ở Trung Quốc hay Việt Nam).
Cách dùng sau chỉ là theo tập quán.
Thơ Đường luật còn gọi là thơ cận thể
Thơ Đường luật là thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất ngôn được đặt ra từ thời nhà Đường ở Trung Quốc. Thơ Đường luật có ba dạng chính: thơ bát cú (mỗi bài tám câu); thơ tuyệt cú (mỗi bài bốn câu) và thơ bài luật (dạng kéo dài của thơ Đường luật), trong đó thơ bát cú, nhất là thất ngôn bát cú (mỗi bài tám câu, mỗi câu bảy chữ) được coi là dạng cơ bản, vì từ đó có thể suy ra tất cả các dạng khác của thơ Đường luật.
Thơ Đường được du nhập vào nước ta từ khá sớm, khi văn học viết Việt Nam (thế kỷ XI) hình thành thì thơ Đường đã có mặt. Ngay từ những bài kệ của các vị sư đời Lý đã có sự ảnh hưởng và chi phối của thơ Đường. Hầu như tất cả các nhà thơ nổi danh của văn học trung đại Việt nam, ai cũng có thơ Đường. Và mãi đến ngày nay, vẫn còn nhiều người ưa thích, thuộc thơ Đường, và làm thơ Đường.
Thơ Đường luật ở Việt Nam có các dạng văn bản cơ bản: văn bản Hán; văn bản Nôm; văn bản Quốc ngữ và cả hiện tượng liên văn bản Hán – Nôm.
1.2. Tính quy phạm trong văn học trung đại Việt Nam
Sách giáo khoa Văn học lớp 10 (chỉnh lý hợp nhất năm 2000), trình bày trong bài Khái quát văn học Việt Nam từ TK X – hết TK XIX, có mục III: Mấy yếu tố lớn về hình thức.
Ở đó, có ba ý:
1. Yếu tố Hán và yêu cầu dân tộc hóa hình thức văn học
2. Tính quy phạm và việc phá vỡ tính quy phạm
3. Phạm vi và quy mô kết tinh nghệ thuật của văn học
Trong đó, mục 2, tác giả sách giáo khoa viết:
Tính quy phạm thể hiện ở quan điểm nghệ thuật rất coi trọng mục đích giáo huấn của văn học, ở tập quán và tư duy nghệ thuật là quen nghĩ và phải nghĩ qua những kiểu mẫu nghệ thuật có sẵn, đã thành công thức. Về mặt hình thức, tính quy phạm đó thể hiện ở việc sử dụng các thể loại văn học có lối kết cấu định hình, có niêm luật chặt chẽ và thống nhất, ở cách sử dụng văn liệu, thi liệu đã thành những motif quen thuộc. Tính quy phạm còn là việc đề cao phép đối (…), tính quy phạm như trên đã tạo ra một kiểu ước lệ mang đặc điểm riêng là thiên về công thức, trừu tượng, nhẹ về tính cá thể, cụ thể trong nghệ thuật.
Nhưng cha ông cha ta trên đường sáng tạo văn học, đã từng bước tìm cách phá vỡ tính quy phạm đó để cho hồn thơ, tài thơ, hồn văn, tài văn của mình nở hoa kết trái tự nhiên lắm màu sắc hơn, ngọt dịu hơn. Việc sáng tạo ra ba thể: thơ lục bát, song thất lục bát và hát nói, việc tăng cường khai thác kho tàng ngôn ngữ dân gian, việc phát huy ý thức văn học phản ánh cuộc sống, cùng với khuynh hướng dân chủ hóa trong văn học, … tất cả đã dần dần phá vỡ tính quy phạm của văn học trung đại [89 – 90]
Trong Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, chuẩn kỹ năng môn Ngữ Văn 10, do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, phần Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, chương trình nâng cao trình bày:
(…) Những đặc điểm cơ bản về nghệ thuật: tính sùng cổ, tính tượng trưng và ước lệ; sáng tác với tính quy phạm chặt chẽ nhưng cũng luôn phá vỡ tính quy phạm để tạo nên những sáng tạo độc đáo. [trang 139, NXB Giáo dục, 2010]
Trong Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, GS. Lê Trí Viễn dùng một lượng trang khá lớn để làm sáng tỏ khái niệm này. Ông cho rằng: Quy phạm với nghĩa thường nhất là đảm bảo ở một nơi nào đó hoạt động có tổ chức, nề nếp đạt hiệu quả cao. Nó là biểu hiện của văn minh, văn hoá ở mỗi con người, ở một cộng đồng, ở cả một xã hội. Dùng một thuật ngữ xưa thì nó là biểu hiện của chữ “lễ”. [227], đến phần “quy phạm trong văn học”, tác giả viết “quy phạm có mặt từ cái nhỏ đến cái lớn, bất kỳ đâu cũng có khuôn phép”; sau đó, ông dành nhiều trang viết để phân tích tính quy phạm trong thơ “cận thể” (Đường luật).
Từ điển thuật ngữ văn học, không khái niệm này. Từ điển văn học (bộ mới), và 150 thuật ngữ văn học mục quy phạm nghệ thuật, đều của tác giả Lại Nguyên Ân, ông viết: Khái niệm chỉ hệ thống những biểu trưng và ngữ nghĩa nghệ thuật được quy chuẩn, cố định hóa. Quy phạm nghệ thuật có vai trò lớn đối với những thời đại văn hóa được tổ chức nghiêm ngặt, chủ yếu là văn học cổ đại và trung đại, trước thời đại chủ nghĩa lãng mạn.
Sau đó, ông viết tiếp: Vấn đề lý giải một cách phi quy phạm là vấn đề thường mang tính thời sự và có tác dụng tích cực trong văn học thế giới (…) Khi các cơ sở hệ tư tưởng mất đi, khi các chuẩn mực thẩm mỹ chung bị tan rã, quy phạm sẽ không còn tồn tại như một chỉnh thể thống nhất. [1485 – 1486]
Từ những vấn đề trên chúng tôi đưa ra những nhận xét bước đầu sau đây:
Thứ nhất, khái niệm tính quy phạm và sự phá vỡ quy phạm chỉ mang tính tương đối. Bởi đời sống văn học Việt Nam trung đại vốn rất phức tạp và nó coi sự hỗn dung như là một điều hiển nhiên tất yếu. Cũng chính vì thế, nhiều học giả phải dùng hai khái niệm song hành để cùng chỉ một hiện tượng, mà tính quy phá và sự phá vỡ quy phạm là một ví dụ điển hình sinh động nhất.
Thứ hai, như trên đã nói, chúng tôi cũng xin nhấn mạnh thêm rằng tuy về đề tài hay quan niệm nghệ thuật về con người nếu cố sức ta cũng có thể ít nhiều phân biệt được đâu là biểu hiện của tính quy phạm và đâu là những biểu hiện quy phạm, song rạch ròi như vậy là không nên và khó có thể mang tính chính xác khoa học. Bởi khi ấy, ta muốn tách biệt những điều mà cả nội hàm lẫn ngoại diên của nó đã rất khắng khít.
Thứ ba, chúng tôi cho rằng ngay trong một thể loại, thơ Đường luật chẳng hạn vừa có tính quy phạm, nhưng cũng vừa có sự phá vỡ tính quy phạm. Ta cũng không thể nó thể lục bát, hay song thất lục bát, hát nói (những thể loại nội sinh) là hoàn toàn phá vỡ tính quy, tính quy phạm trong từng thể loại này cũng được biểu hiện ở những mặt nhất định.
Để tiện theo dõi chúng tôi lập bảng tổng hợp nhằm đối sánh giữa tính quy phạm và phi quy phạm trong thơ Đường luật của văn học Việt Nam trung đại
2. Những biểu hiện của sự phá vỡ tính quy phạm trong thể thơ Đường luật văn học trung đại Việt Nam
2.1. Quan niệm nghệ thuật trong thơ Đường luật văn học Việt Nam trung đại
2.1.1. Thứ nhất, thơ là để nói tâm, chí, đạo
Thế kỷ XIII, vua Trần Thái Tông đã khẳng khái tuyên bố: Văn bút tảo thiên quân chi trận, Trần Quang Khải thì hào hứng:
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san
(Tụng giá hoàn kinh sư)
Đến thế kỷ XV, Nguyễn Trãi quan niệm rằng:
Văn chương chép lấy đôi câu thánh
Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung
Trừ độc trừ gian trừ bạo ngược
Có nhân, có trí, có anh hùng
(Bảo kính cảnh giới, số 5)
Nhìn sâu thêm trong các câu thơ được gọi là tuyên ngôn giáo huấn, tỏ chí là hình ảnh của thiên nhiên, là những câu thơ tự tình, tự thuật:
- Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma
(Cảm hoài – Đặng Dung)
- Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
(Nhàn – Nguyễn Bình Khiêm)
- Son phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Độc Tiểu Thanh ký – Nguyễn Du)
- Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp đọng dưới chân bào
(Thu điếu – Nguyễn Khuyến)
Hay như Nguyễn Công Trứ, khẳng định chí làm trai của mình:
- Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Chí làm trai)
- Trong lăng miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương
(Nguyễn Công Trứ)
v.v…
Nguyễn Đình Chiểu, ở thế kỷ XIX, cũng học theo ngòi bút chí công mà khẳng định:
Chở bao nhiêu đại thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Phạm Nguyễn Du nhận định: Thơ là một loại hình nghệ thuật đấy thôi, …Các vị hiền triết xưa có đủ đạo, đức, nhân nhưng đôi khi kém về bên nghệ thuật. Có lẽ nghệ thuật phần nhiều tự năng khiếu mà ra (Bạt Tồn Am di thảo)
2.1.2. Thứ hai, thơ để tự trào, châm biếm, mỉa mai, đả kích, …
Bên cạnh những quan niệm chính thống, cùng với sự suy thoái của chế độ phong kiến Việt Nam, sang thế kỷ XVIII – XIX, quan niệm về văn chương trong thơ Đường luật ở Việt Nam cũng sự chuyển biến, nó không theo sự chuẩn mực định sẵn của các thế kỷ trước đó nữa. Ngay cả hình tượng tác giả của nó cũng không còn là những bậc túc Nho “tháng ngày bao quản sân Trình lao đao” nữa: Hồ Xuân Hương nhắn gửi:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây chị dạy học làm thơ
Sang cuối thế XIX, đầu thế kỷ XX, khi mà:
Còn có ra gì cái chữ Nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co
Thì Tú Xương cũng ngậm ngùi, đau đớn: Vứt bút lông đi, lấy bút chì!
Và ở đó, thơ được thể hiện như những cách tự bạch, tự trào
Quả cau nhỏ nhỏ quả trầu hồi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
(Mời trầu – Hồ Xuân Hương)
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Độc Tiểu Thanh ký – Nguyễn Du)
Hay:
Cũng cờ cũng biển cũng cân đai
Cũng gọi ông Nghè có kém ai
(…) Ghé tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi
(Tiến sĩ giấy – Nguyễn Khuyến)
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng
(Giễu người thi đỗ – Trần Tế Xương)
2.2. Quan điểm thẩm mỹ
Người trung đại thể hiện quan điểm thẩm mỹ của mình trong thơ ca.
Thứ nhất, quan hệ ngòi bút với lý tưởng
Trần Thánh Tông cho rằng: Vạn tượng sinh hào đoan (Muôn nghìn hình ảnh đều nảy sinh dưới đầu ngọn bút), Trần Nhân Tông, trong Đại giác thần quang tự, viết:
Thập nhị lâu đài khai họa trục
Tam thiên thế giới nhị thi mâu
Nguyễn Trãi thì tinh tế với hình ảnh:
Ngư ca tam xướng yên hồ khoát
Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao
Sang thế kỷ XV, khi Đại Việt đang phát triển hùng cường, Lê Thánh Tông bày tỏ quan niệm về cái đẹp trong thi ca:
Hùng từ lạn lạn lăn tiêu hán
Diệu cú dương dương khấp quỷ thần
Trên đây là những ý kiến thể hiện một khía cạnh, một quan điểm chính thống về cái đẹp thời trung đại:
Đạo bút phải dùng tài đã vẹn
Chỉ thư nấy chép chuyện càng chuyên
Vệ Nam mãi mãi ra tay thước
Điện Bắc đà đà yên phận tiên
(Bảo kính cảnh giới, bài 6, Nguyễn Trãi)
Thứ hai, quan hệ giữa nghệ thuật với tính chân thật trong đời sống
Ngay trong thời dùng thơ để nói tâm, thể hiện chí, đạo, vẫn không thiếu những ý kiến nhận thức về cách tả chân, tả thực của ngòi bút và những giá trị của nó. Đinh Củng Viên trong Cổ đường đồ, viết:
Thế thượng hữu thùy cùng biến diệt
Bút đoan vô khẩu ngữ hưng vong
Phạm Nhữ Dục trong Tân mai kiều ngoạn nguyệt cũng viết:
Nhân gian thử cảnh thùy miêu đắc
Tá dữ thi ông vị tả chân
Ngô Thời Sĩ nói: Văn chương có quan hệ với vận đời (Thượng tứ điêu khải). Ngô Thời Nhậm thì cho rằng Làm thơ phải gửi tâm tình vào sự vật (Bàn về thơ cùng Phan huy Ích)
Trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Đồ Chiểu bày tỏ:
Mặc dù hai chữ tả hoài
Việc xưa, được mất, bởi ai, có gì?
Thứ ba, chúng tôi muốn đề cập đến quan niệm chính thống của các triều đình phong kiến với việc “khinh Nôm, trọng Hán”. Tiêu biểu nhất cho các “sắc chỉ” ấy là 47 điều giáo hóa, được Nhữ Đình Toản diễn Nôm để thông báo cho toàn dân, nho sĩ, … theo “lệnh” của chúa Trịnh Doanh:
Ngũ kinh chư sử xưa nay
Với chư tử tập cùng rày văn chương
Dại bèn có ích đạo thường
Mới nên san bản bốn phương thông hành
Kì như Thích, Đạo, phi kinh
Lời tà, mối lạ, tập tành truyện ngoa
Cùng là truyện cũ nôm na
Hết thơ tập ấy, lại ca khúc này
Tiếng dâm dễ khiến người say
Chớ cho in bản hại ngay thói thuần, …
Như vậy, theo quan niệm chúng thống thì đúng là “nôm na cha mách qué”!
2.3. Đề tài
Theo “Thơ Nôm Đương luật”, của Lã Nhâm Thìn (Nxb Giáo dục, H. 1998), chúng tôi dẫn lại các bảng thống kê về đề tài trong thơ Nôm Đường luật để làm căn cứ đối sánh:
Như vậy, phần còn lại ở các tập thơ là những đề tài, chủ đề khác. Nó có thể mang những chủ đề như tự trào, chế giễu, … Tương tư, Bỡn cô đào già, Bỡn nhân tình, … (Nguyễn Công Trứ), Hang Cắc Cớ, Mắng học trò dốt, Vịnh cái quạt, Sư hổ mang,… (Hồ Xuân Hương), Giễu người thi đỗ, Bỡn tri phủ Xuân Trường, Hễ mai thi hỏng, … (Tú Xương), Tặng Bà Hậu Cẩm, Hỏi thăm quan tuần mất cướp, … (Nguyễn Khuyến), … Các chọn đề tài như vậy theo chúng tôi cũng là một biểu hiện của sự phá vỡ tính quy phạm thể loại.
2.4. Yếu tố tự sự
Theo Wellec và Warren, vấn đề chủ yếu của phương pháp tự sự là ở cách xử lý mối quan hệ giữa người kể chuyện và câu chuyện của anh ta, ở cách tổ chức lời văn kể chuyện để tạo ra một chuyện mới [theo Trần Đình Sử, 128]. Trần Đình Sử còn cho biết thêm: “nói đến nghệ thuật kể chuyện, ngày nay người ta không còn giản đơn nới tới cách kể theo ngôi thứ nhất hay thứ ba một cách bề ngoài, mà tìm vào những yếu bên trong đã chi phối đặc điểm và chất lượng của các ngôi kể ấy. Ngôi kể vẫn có ý nghĩa riêng trong việc tạo thành giọng điệu kể, một điều không thể coi nhẹ. Nhưng lý thuyết tự sự hiện đại đã nói đến điểm nhìn, tiêu cự, tức là nói đến phương pháp cảm nhận, nhìn thấy con người và sự vật được kể. Phương pháp tự sự thực chất là phương pháp nhìn thấy sự việc và con người, phương pháp phát hiện về con người” [128, 182].
Từ trước đến nay, ít công trình nghiên cứu nào đề cập đến yếu tố tự sự trong thơ Đường luật. Chúng tôi cũng đồng quan niệm cho rằng thơ Đường luật là thơ tự tình (như cách nói của Trần Đình Sử trong Mấy vấn đề về thi pháp văn học trung địa Việt Nam). Song qua khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy có bốn tác phẩm viết theo thể thơ Đường thể hiện rõ những yếu tố tự sự như lý luận đã nêu trên.
Ở tác phẩm bằng Hán tự, Hương miệt hành có thể xem là một truyện thơ. Với thể hành, thơ cổ phong Trung Quốc, tác phẩm gồm 102 câu thất ngôn. Đây là thiên diễm tình tự do, phóng khoáng, ngọt ngào, trung hậu. Truyện có nguồn gốc từ cổ tích, tạp kịch, ca khúc, … ở Trung Quốc.
Truyện không nói đến luân lý lễ giáo của đạo Nho, mà dùng thuyết “an bài”, “thiền định” của đạo Phật để biện minh cho tình yêu tự do. Xin trích một đoạn như minh chứng cho yếu tố tự sự trong thể thơ này:
(…) A nương độc bãi động phương tâm
Lục sầu hồng tiêu bất tự câm
Hoa ảnh bán liêm xuân tịch tịch,
Hương yên cô trướng dạ trầm trầm
Ngọc chỉ tài thành thư bán bức
Tại linh Hồng Hạnh truyền tiêu tức
Lý lang đạp nguyệt đáo hoa viên
Hân nhiên nhất kiến như cựu thức,
Đê thanh thâu ngữ phạn nhân tri,
Khoản khúc tình hoài tưởng biệt kỳ. (…)
Tô Công phụng sứ là tác phẩm gồm 24 bài thơ Đường luật, không ghi tác giả và thời đại xuất hiện. Tác phẩm thuật chuyện Tô Võ (Vũ) đời Hán đi sứ Hung Nô, bị bắt giữ và gần 20 năm sau mới được tha về. Khi đó râu tóc bạc phơ, cờ mao tiết chỉ còn trơ cán. Yếu tố tự sự trong cách bài thơ Đường luật là cách dùng thơ dựng chuyện của tác giả:
GỬI THƯ MƯỢN NHẠN
Khôn lấy mỗi thơm dỗ tiết ngay,
Cho nên lưu lạc nước non này
Bốn mùa đắp đỗi kho trăng gió
Một áng thừa lưa lộc tháng ngày
Chẳng những lòng vàng trên bể Bắc
Đã nguyền lầu bạc dưới đền tây
Tấc niềm bộc bạch hàng thư lụa,
Phó mặc bên trời chiếc nhạn bay
Truyện Vương Tương (Truyện Chiêu Quân cống Hồ) là một truyện Nôm khuyết danh viết bằng thể thơ Đường luật gồm cả bát cú và tứ tuyệt. Đây là một trong những truyện Nôm sớm nhất hiện còn được biết đến. Yếu tố tự sự qua 46 bài thơ Đường luật đã cho người đọc dựng lại câu chuyện về người con gái tài sắc tên là Vương Chiêu Quân cung nhân đời Hán Nguyên Đế. Vì nhan sắc mà nàng được tuyền vào cung, nhưng vì không có tiền đút lót cho tên Mao Diên Thọ, nên y vẽ nàng rất xấu dâng lên vua. Vua không ngó ngàng tới. Đến khi vua Hung Nô buộc Hán Đế phải gả mỹ nhân, Chiêu Quân được chọn cống Hồ. Trước khi lên đường, vua cho nàng vào bệ kiến. Thấy nhan sắc khuynh thành của nàng, vua Hán quyến luyến muốn hủy lời với Hung Nô, triều thần can gián, vua buộc phải cho Chiêu Quân đi. Sang đất khách, Chiêu Quân tự tử. Xin dẫn lại một bài trong truyện:
VƯƠNG TƯỜNG BÁI YẾT
Từ nan khôn chối việc quân vương
Dòi dõi thêm đau nỗi đoạn trường
Khúm núm cúi đầu ngoài bệ ngọc
Thẹn thùng ra mặt trước nhà vàng
Mặt hoa rười rượi dường đeo tuyết
Mày liễu rầu rầu dáng ủ sương
Hang thẳm phen này xuân nỡ phụ
Lòng quỳ khôn xiết hướng về vương
(Quỳ: Hoa hướng dương)
Lâm tuyền kỳ ngộ là truyện thơ Nôm Đường luật chưa rõ tác giả. Tác phẩm này xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVI – XVII, gồm 146 bài thất ngôn bát cú, 1 bài thơ tứ tuyệt và một bài Thạch tuyền ca khúc.
Lâm tuyền kỳ ngộ miêu tả cuộc tình duyên giữa nho sinh Tôn Các với một nàng tiên bị đày xuống trần gian trong lốt con vượn trắng (Bạch Viên). Song, vượn trắng đã hóa thành người, chủ động đón Tôn Các, kết hôn với chàng, yêu chông, thương con đến nỗi hết hạn về trời, nàng đã xin ở lại trần gian để trọn kiếp làm mẹ, làm vợ, …
Xin dẫn một bài Đường luật bát cú trong truyện.
VIÊN THỊ MUỐN LẤY CHỒNG
Nghĩ ngợi càng thêm vấn mọi đường
Chạnh lòng vì bởi khách đông sàng
Ruột tằm chín khúc vò tơ đỏ
Giấc bướm năm canh diễn khắc vàng.
Cửa động những mong người mối lái
Bên nguồn luống đợi khách tìm hương
Kìa ai se chỉ trong cung nguyệt
Chỉ để hồng nhan phận lỡ làng
Tam Quốc thi, đây là tác phẩm vừa mới được phát hiện gần đây. Truyện Nôm Tam quốc thi có đến 340 bài thơ Đường luật vừa bát cú, vừa tứ tuyệt, kể lại một đoạn của truyện Tam quốc diễn nghĩa, từ khoảng Hồi thứ 24 đến Hồi thứ 28. Tuy trích đoạn một trong những tiểu thuyết lịch sử trường thiên nổi tiếng trong văn học Trung Quốc, song Tam quốc thi dường như cũng phảng phất cái cấu trúc kết cấu có hậu của thể loại truyện Nôm, và tất nhiên, yếu tố tự sự của nó là không phải bàn cãi. Chẳng hạn như, đoạn kể về cuộc đối đáp giữa Quan Cũ và nhà sư Phổ Tĩnh khi mới gặp nhau; bấy giờ Quan Vũ không nhận ra Phổ Tĩnh là người cùng quê, Phổ Tĩnh nói: Nhà tôi và nhà tướng quân chỉ cách nhau một con sông (Tam quốc diễn nghĩa, Hồi thứ 27). Tình tiết này được diễn đạt trong Tam quốc thi như sau:
Nhà bần tăng với tướng quân nhà
Chỉ cách con khe nhỏ chạy qua
Pháp hiệu rày xưng là Phổ Tĩnh
Tu hành ngày tháng niệm Di Đà
Chúng tôi cho rằng, yếu tố tự sự cũng là một sự cách tân nhằm thoát khỏi tính quy phạm về chức năng tự tình, trữ tình của thơ Đường luật Việt Nam trung đại.
2.5. Cấu trúc tác phẩm, nghệ thuật tổ chức câu thơ, nhịp thơ
2.5.1. Cấu trúc tác phẩm
Luật thơ: trong các lối này thì bát cú là bài chính. Ta xét cách cấu tạo của nó.
Vần:
Thơ Đường luật thường dùng vần bằng (thanh huyền hoặc thanh ngang) ít khi dùng thanh trắc (các thanh: hỏi, ngã, nặng, sắc). Suốt bài thơ chi gieo một vần gọi là độc vận. Trong bài thơ bát cú, có năm vần được gieo: vào chữ cuối các câu 1;2;4;6;8.
Lạc vận và cưỡng áp: Làm thơ Đường thì phải hiệp vận (gieo vần) cho đúng, nếu không gieo vần được thì gọi là lạc vận, hoặc có gieo được mà gượng gạo thì gọi là cưỡng áp. Cả hai cách ấy đều không thể chấp nhận được.
Đối:
Đối là đặt hai câu đi song đôi cho ý và chữ trong hia câu ấy cân xứng với nhau. Trong phép đối: vừa có đối ý (là tìm hai ý tưởng gì đó cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau); vừa có đối chữ (về thanh: bằng đối với trắc, trắc đối với bằng; về từ loại: những chữ cùng từ loại mới đối nhau được)
Trong bài thơ Đường bát cú hai cặp câu thực (câu 3-4) và cặp câu luận (câu 5-6) đối nhau.
Luật
Luật thơ là cách sắp xếp đặt tiếng bằng và tiếng trắc trong các câu của một bài thơ. Luật ấy được xem như là một công thức nhất định, buộc người làm thơ đời sau phải tuân theo.
Luật bằng (hai chữ đầu tiên của câu thơ thứ nhất là vần bằng) và luật trắc (hai chữ đầu tiên của câu thơ thứ nhất là vần trắc)
Các luật thơ cụ thể như sau:
Luật bằng, vần bằng: Thất ngôn bát cú:
I. b B t T t B B (V)
II. t T b B t T B (V)
III. t T b B b T T
IV. b B t T t B B (V)
V. b B t T b B T
VI. t T b B t T B (V)
VII. t T b B b T T
VIII. b B t T t B B (V)
KIỀU TRẦM MÌNH
Trời xanh thăm thẳm thấu hay không?
Bỗng chốc xui nên phụ tấm lòng
Trăm trận xông pha đèn trước gió
Ngàn năm công nghiệp bọt ngoài sông
Trần ai thương hại người xương trắng
Đất nước bơ vơ phận má hồng
Sự thế đã dành dâu hoá bể
Thôi thời quyết một thác cho xong.
Chu Mạnh Trinh
Luật trắc, vần bằng, thất ngôn bát cú:
I. t T b B t T B (V)
II. b B t T t B B (V)
III. b B t T b B T
IV. t T b B t T B (V)
V. t T b B b T T
VI. b B t T t B B (V)
VII. b B t T b B T
VIII. t T b B t T B (V)
VỊNH ĐÈO NGANG
Bãi thẳm ngàn xa cảnh vắng teo
Đèo Ngang lợi bể nước trong veo
Thà là cúi xuống cây đồi sụt
Xô xát trông lên sóng muốn trèo
Lánh chánh đầu mầm chim vững tổ
Lanh đanh cuối vụng cá ngong triều
Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả?
Non nước trông qua vẫn bấy nhiêu.
Lê Thánh Tông
Luật trắc, vần trắc, thất ngôn bát cú:
I. t T b B b T T (V)
II. b B t T b B T (V)
III. b B t T t B B
IV. t T b B b T T (V)
V. t T b B t T B
VI. b B t T b B T (V)
VII. b B t T t B B
VIII. t T b B b T T (V)
KỶ NIỆM ĐỘNG HUYỀN KHÔNG
Cảnh trí hồn nhiên tài tạo hoá
Công trình tạc điểm tinh kỳ lạ
Hương trời sẵn ướp bốn mùa hoa
Gấm lục khôn bì năm sắc đá
Biển Phật chầu quanh núi Ngũ Hành
Hang thần lộ giữa vòm Tiêu Xá
Về đây ngồi nghỉ sập Quần tiên
Thế sự ngậm ngùi đời hoạn trá.
Hải Tâm
Trong các biểu kể trên, chữ nào viết in hoa, thì phải theo đúng luật; còn những chữ in lối chữ thường theo đúng luật hoặc không theo đúng luật cũng được.
Bất luận: Nếu đúng luật bằng; trắc như trên đã định thì nhiều khi bó buộc cứng nhắt quá, nên các thi gia đặt ra lệ bất luận (không kể) nghĩa là trong dòng thơ có một vài chữ không cần đúng luật:
Trong bài ngũ ngôn thì chữ thứ nhất và chữ thứ ba không cần đúng luật: nhất, tam bất luận
Trong bài thất ngôn thì chữ thứ nhất và chữ thứ ba và chữ thứ năm, không cần đúng luật: nhất, tam, ngũ bất luận.
Khổ độc: Khổ độc nghĩa là khó đọc, đọc lên nghe trúc trắc, không được êm tai. Tuy theo lệ bất luận có thể thay đổi luật mấy chữ trong câu thơ, nhưng đáng trắc mà đổi ra bằng thì bao giờ cũng được, nhưng đáng bằng mà đổi ra trắc thì trong một vài trường hợp sẽ làm cho câu thơ khổ độc, là không được. Những trường hợp ấy là:
Trong bài thơ ngũ ngôn chữ thứ nhất các câu chẵn và chữ thứ ba các câu lẽ đáng là bằng mà đổi ra trắc là khổ độc.
Trong bài thơ thất ngôn chữ thứ ba các câu chẵn và chữ thứ năm các câu lẽ đáng là bằng mà đổi ra trắc là khổ độc.
Thất luật: Trong bài thơ Đường chữ nào đáng là bằng mà đặt ra trắc hoặc đáng là trắc mà đổi ra bằng thì gọi là thất luật (sai luật thơ), không chấp nhận được. Bài thơ ấy sai, hoặc không phải thơ Đường.
Niêm
Niêm là sự liên lạc về âm luật của hai câu thơ trong bài thơ Đường luật. Hai câu thơ niêm nhau khi nào hai chữ đầu câu cùng theo một luật hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc; thành ra bằng niêm với bằng; trắc niêm với trắc. Trong một bài theo bát cú, những câu sau đây niêm với nhau. Xin lấy một bài thơ thất ngôn luật bằng vần bằng làm
ví dụ:
Luật bằng, vần bằng: thất ngôn bát cú:
Câu I và b B t T t B B (V)
Câu VIII b B t T t B B (V)
Câu II và t T b B t T B (V)
Câu III t T b B b T T
Câu IV và b B t T t B B (V)
Câu V b B t T b B T
Câu VI và t T b B t T B (V)
Câu VII t T b B b T T
Thất niêm: Trong một bài thơ, nếu cả câu thơ đặt sai luật, như đáng lẽ bắt đầu bằn bằng, bằng mà đặt lại làm trắc, trắc hoặc ngược lại làm cho các câu thơ không niêm với nhau thì gọi là thất niêm (mất sự kết dính), như vậy không chấp nhận được.
Trong thơ Đường luật Việt Nam trung đại có khá nhiều bài thơ thất niêm, trong đó nổi tiếng hơn cả là Độc Tiểu Thanh ký – Nguyễn Du (Hán) và Đèo Ba Dội – Hồ Xuân Hương (Nôm). Do khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ phân tích ngắn gọn sự thất niêm trong bài thơ của Hồ Xuân Hương
Bài thơ thất niêm ở chữ thứ hai của dòng 1: đèo, đáng lẽ nó phải mang thanh trắc để tương xưng với gối (chữ 2 câu 8), nó thất niêm vì nữ sĩ đã tránh từ tục mà nói chệch đi, vì vậy, từ bị biến thanh, bị làm cho chệch đi, để người đọc nhận thấy mà chuyển đổi, đưa nó về nguyên dạng!
Các bộ phận trong bài thơ Đường luật:
Một bài thơ bát cú cũng như một bức tranh. Trong cái khung khổ đã nhất định. 8 câu; 56 chữ, làm sao vẻ được một bức tranh toàn bích: hình dung được ngoại cảnh của tạo vật, nội tâm của nhân vật trữ tình, … thì phải sắp đặt một cách khéo léo. Bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú có bốn bộ phận:
Đề: thì có phá đề (câu 1): là câu mở bài, nói khái quát nội dung toàn bài. Và câu thừa đề (câu 2) là câu nối câu phá đề đã được nói đến trong bài.
Thực: (hoặc trạng): gồm câu 3-4): là giải thích đầu bài cho rõ ràng. Nếu là thơ tả cảnh thi thường được chọn những cảnh sắc đặc biệt xinh đẹp để miêu tả; nếu là thư tả tình thì lấy tình cảm của mình mà giải bày ra; nếu thơ ngợi ca công đức thì lấy công trạng, đức hạnh của người mình muốn vịnh mà thể hiện.
Luận (gồm hai câu 5-6): là bàn bạc. Như tả cảnh thì nói cảnh ấy xinh đẹp thế nào; cảm xúc thế nào? Hoặc khen hoặc chê hoặc so sánh người ấy việc ấy với người khác, việc khác.
Kết: (gồm hai câu 7-8): là tóm lại ý nghĩa cả bài, và kết luận mạnh mẽ, rắn rỏi,…
Nhìn chung các nhà thơ có tài năng nhiều khi không để cho bố cục trên gò bó. Do đó, khi phân tích những bài thơ xưa không nên lúc nào cũng sử dụng máy móc công thức trên. Đáng chú ý là nhiều nhà nghiên cứu thơ Đường nổi tiếng đời Minh và đời Thanh mà tiêu biểu là Kim Thánh Thán lúc phân tích bài thơ bát cú, chỉ chia làm hai phần: (nửa trên) thượng bán tiệt và (nửa dưới) hạ bán tiệt.
Nhìn chung các nhà thơ có tài năng nhiều khi không để cho bố cục trên gò bó. Do đó, khi phân tích những bài thơ xưa không nên lúc nào cũng sử dụng máy móc công thức trên. Đáng chú ý là nhiều nhà nghiên cứu thơ Đường nổi tiếng đời Minh và đời Thanh mà tiêu biểu là Kim Thánh Thán lúc phân tích bài thơ bát cú, chỉ chia làm hai phần: (nửa trên) thượng bán tiệt và (nửa dưới) hạ bán tiệt.
Các biến thái – sự phá vỡ quy phạm về hình thức thể loại
Thứ nhất, biến thái về hình thức tổ chức bài thơ
Với kiểu hồi văn kiêm liên hoàn, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã tìm ra cách đọc đến 128 bài (32 bài thất ngôn bát cú, 32 bài thất ngôn tứ tuyệt, 32 bài ngũ ngôn bát cú; 32 bài ngũ ngôn tứ tuyệt).
Xin giới thiệu một bài bát cú:
Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn
Trướng dật phong tiền ngạn biện thanh
Sơn toả ám vân thôi trận trận
Lãng sinh khêu ngọc trích thanh thanh
Sàn sàn thuỷ giả đài tư nhuận
Dạng dạng ba châu liễu mậu vinh
Nhà điếu nhất chu ngư dật tấn
Hướng tâm song tiễn yến phi khinh.
Bài thơ chữ Hán đọc theo âm Nôm: một giai thoại thời trung đại truyền rằng: có một vị khoa bảng chán chốn quan trương về ở ẩn, ông có cô có gái xinh đẹp. Để chơi chữ, ông treo bảng yết chiêu phu cho con mình bằng mấy chữ như sau:
Và truyền rằng ai đọc được sẽ được chọn làm rể quý!
Mãi lâu sau mới có người đọc được bài thơ như thế này:
Ba xuân nho nhỏ, một xuân tròn
Bốn cảnh bằng nhau, một cảnh con
Hồ rộng thênh thênh, ngư lộn ngược
Sơn cao chót vót, điểu nằm ngang
Cách chơi chữ mà vị Nho sĩ kia sử dụng không chỉ nặng về hình thức mà kết hợp nhiều yếu tố thuộc lĩnh vực ngữ nghĩa, luật thơ (thơ tứ tuyệt thất ngôn bát cú, luật bằng vần bằng, ba vần, một đối, đối ở câu 3 và 4)
Thứ hai, biến thái về dạng thức loại thể
Thủ vĩ ngâm: là lối thơ có câu đầu (câu thứ nhất) và câu cuối (câu thứ tám) giống nhau:
KHÓC ÔNG PHỦ VĨNH TƯỜNG
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Cái nợ ba sinh đã trả rồi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Tung hê, hồ thỉ, bốn phương trời
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc,
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Hồ Xuân Hương