Khi đang theo học năm thứ nhất tại Khoa Ngữ Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1971-1972), Nguyễn Duy đã lọt vào “Con Mắt Xanh” của nhà Phê bình Hoài Thanh và được ông chọn một chùm thơ giới thiệu trên Tuần báo Văn Nghệ. Đó chính là chùm thơ sau đó đã đoạt giải nhất cuộc thi thơ 1972-1973 của Tuần báo Văn nghệ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt nam (sau đó in trong tập Cát trắng). Và Hoài Thanh đã nhận xét về thơ Nguyễn Duy: “…Thơ Nguyễn Duy đưa ta về một thế giới quen thuộc. Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những con người, những cuộc đời cần cù gian khổ, không tuổi không tên. Đọc thơ Nguyễn Duy thấy anh hay cảm xúc, suy nghĩ trước những chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở người khác thì có thể chỉ là chuyện thoáng qua thì ở anh, nó lắng sâu và dường như đọng lại…” (Báo Văn nghệ, ngày 14-4-1972). Lời nhận xét đó của Hoài Thanh vừa như là nói ra cái đặc điểm của thơ Nguyễn Duy vừa như là một định hướng nghệ thuật cho thơ Nguyễn Duy…
Sau vài lần làm những tuyển thơ theo từng chủ đề do yêu cầu của nhiều Nhà xuất bản (Sáu & Tám - tuyển thơ Lục bát, NXB Văn học, 1994, Vợ ơi - tuyển thơ tặng vợ, NXB Phụ Nữ, 1995, Tình Tang - tuyển thơ, NXB Văn học, 1995, Thơ với tuổi thơ - tuyển thơ, NXB Kim Đồng, 2002, Thơ trữ tình - Tuyển thơ, NXB Hội Nhà văn, 2004, 36 bài thơ - Tuyển thơ, NXB Lao động, 2007), lần này là một Tuyển thơ có tính chất tổng kết đời thơ, cho nên cuốn sách có nhan đề là chính tên nhà thơ Nguyễn Duy (1). Cuốn sách được in rất trang trọng và cố nhiên trình bày đẹp: 420 trang in trên giấy tốt, khổ 15x23cm. Phần cuối sách, Nguyễn Duy cho in bài “Nguyễn Duy thi sĩ thảo dân” của Chu Văn Sơn (2), bài viết tới 26 trang in. Qua bài viết này, bạn đọc có thể thấy được những nét chính của cuộc đời cũng như thành tựu của thơ Nguyễn Duy. Tác giả bài viết tỏ ra là một nhà phê bình thơ khá tinh tế và “có duyên”. Cũng có một số bài viết khác về thơ Nguyễn Duy từ trước và nhân tập Tuyển thơ này ra mắt (3). Mỗi người, ở một giác độ của mình, cũng mới chỉ đưa ra được những nhận định, bình giá về mặt nào đó của thơ Nguyễn Duy. Thơ Nguyễn Duy rất phong phú về nội dung, rất đa dạng về bút pháp. Song, chưa có một sự nghiên cứu toàn diện, đầy đủ nào về thơ Nguyễn Duy. Hi vọng sẽ có thêm những sự nghiên cứu Thơ Nguyễn Duy công phu và kỹ lưỡng hơn tại cuộc Tọa đàm thơ Nguyễn Duy vào buổi tối ngày 11-10-2010 tại Hội trường Trung tâm Văn hóa Pháp, 24 Tràng Tiền, Hà Nội.Trong bài viết này, tôi sẽ cố gắng đưa ra một sự nhìn nhận bao quát về thơ Nguyễn Duy, cho đến tập Tuyển thơ này.
*
Chúng ta đang có một tập thơ Tuyển của cả một đời thơ Nguyễn Duy - “tập thơ của cuộc đời” - rất nặng tay, in rất đẹp. Song, sự ra đời của nó không phải dễ dàng. Trong buổi gặp gỡ giữa những người bạn thơ, người hâm mộ với Nguyễn Duy nhân tập thơ ra mắt tại báo Sài Gòn Tiếp Thị ngày 08/07/2010, Nguyễn Duy cho biết: “Bản thảo Thơ Nguyễn Duy tôi hoàn thành năm 1997, nhân kỷ niệm 30 năm làm thơ, 50 tuổi đời. Đây là tuyển tập những bài tôi đã in rải rác trong suốt cuộc đời thơ của mình, nhưng chẳng hiểu sao các NXB đều rất ngần ngại. Đầu tiên tôi đưa cho NXB Hội Nhà Văn, NXB đề nghị bỏ… mười bài, toàn những bài tôi viết về hồn dân, tình dân, lòng dân và lời dân, như Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, Nhìn từ xa… Tổ quốc, Đánh thức tiềm lực… trong đó có bài Đá ơi: “Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh/ Phe nào thắng thì nhân dân đều bại…”. Tôi buồn quá, bèn đưa sang NXB Văn Học, các anh đề nghị bỏ… bảy bài, thế là tôi đành rút lại. Năm 2002, tôi đưa cho NXB Hải Phòng, các anh ấy chỉ đề nghị bỏ bốn câu trong Nhìn từ xa… Tổ quốc, tôi đành đồng ý, nhưng đến lúc vào nhà in rồi lại bị thu hồi. Từ 2002, tập thơ bị “om” đến bây giờ, và số phận run rủi thế nào nó lại được ra đời từ NXB Hội Nhà Văn. Đời thơ của tôi, “chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Gặp gỡ với bạn đọc báo Sài Gòn Tiếp Thị, nhà thơ Nguyễn Duy rất xúc động khi biết nhiều trí thức trẻ thuộc thơ mình. Tiến sĩ Trần Nam Dũng, khoa toán - tin đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM thổ lộ: “Từ hồi học sinh tôi đã mê và thuộc Sông Thao. Có hai câu tôi thích nhất là “Xin chớ hỏi tại làm sao như vậy/Tôi vốn không rành mạch bao giờ”. Sau này lớn lên, tôi thích những bài thơ mang tâm sự thời cuộc như Đánh thức tiềm lực. Xin hỏi nhà thơ: bây giờ ông đã rành mạch chưa? Ông nghĩ gì về vai trò của trí thức Việt Nam trong xây dựng và cải tạo xã hội?” Nhà thơ bật cười thú vị: “Hai câu hỏi của bạn thật khó trả lời… Ngày xưa không rành mạch, bây giờ càng không rành mạch! Đánh thức tiềm lực tôi viết trong hai năm 1980 - 1982, chứa đựng bức xúc của mình và của người dân. Trong lòng mình dằn vặt cái gì thì viết ra như thế, nên có lẽ được bạn đọc cảm thông. Thực ra mình thích viết những gì lãng mạn, còn chuyện thế sự, lý sự thì đâu có thích, nhưng có những lúc đau quá thì phải kêu lên!”.
Tiếp sau là một Đêm thơ Nguyễn Duy ở Hà Nội tại “Không gian sáng tạo Trung Nguyên” - Café vườn 36B Điện Biên Phủ, Hà Nội. Hãy nghe vài lời tâm sự của Họa sĩ Ba Tỉnh (Đinh Quang Tỉnh), một người bạn của Nguyễn Duy ở Hà Nội: “Đận ấy, vào trung tuần tháng 10 năm 2004, nhà thơ Nguyễn Duy ra Hà Nội rồi vù đi Hải Phòng mất tăm mấy ngày liền. Khi trở lại thủ đô với bộ mặt tuyệt vọng, nhợt nhạt như màu tấm vé máy bay của Vietnam Airlines mà anh mệt mỏi cầm trên tay để chuẩn bị trở vào Sài Gòn như chạy trốn hơn là từ bỏ niềm hy vọng mà anh ấp ủ cả một đời thơ.
Phút chia tay, Nguyễn Duy tặng tôi bản thảo tập thơ này (bị ách lại tại NXB Hải Phòng - Đ.N.T) như là sẻ chia một nỗi buồn - một nỗi đau nhân thế và cũng là một nỗi đau không phải của riêng ai…“Giấc mơ không đến hai lần” nên từ đấy Nguyễn Duy dường như không làm thơ nữa mà chuyên tâm vào một thú chơi mới, lại kiếm được đồng tiền nuôi con: “Lịch thơ Nguyễn Duy” như một đóa hoa Xuân mới lạ làm đẹp cho đời mỗi thi Tết đến, Xuân về.
Thoắt đã 7 năm, tập bản thảo Nguyễn Duy tặng tôi vẫn nằm im trong tủ sách như một số phận đã an bài. Nhưng, “Thiên hữu mục” - Ông trời có mắt. Số phận run rủi thế nào mà tập thơ bị “om” suốt ngần ấy năm bỗng lại được ra đời ở ngay NXB Hội Nhà văn Việt Nam vào đúng năm 2010 - Năm có nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước. Tôi cầm đầm tay tập thơ rất trang nhã, rất là thơ và cũng rất Nguyễn Duy. Cũng ngần ấy con chữ đề tặng với chữ ký điệu đàng của Nguyễn Duy, mà sao lần này đối với tôi nó lại tưng bừng và ngọt ngào đến thế.
NXB Hội Nhà văn, Công ty Văn hóa truyền thông Nhã Nam và tác giả cho ra mắt tập thơ “Nguyễn Duy - Thơ”, đây là tập thơ dầy dặn nhất của đời thơ Nguyễn Duy từ trước đến nay, được xem như tuyển tập thơ Nguyễn Duy cũng gần như chính xác. Một hành trình thơ của hơn 40 năm vất vả, trong đó có nhiều năm thấp thỏm mong chờ đứa con tinh thần ra đời nguyên vẹn hình hài, chứa đựng tâm tình với những lời thơ chất ngất niềm đau thế sự nhân tình…”.
*
Tập thơ Tuyển này của Nguyễn Duy được cấu tứ từ bốn phần:
1. Đường làng (từ trang 9 đén 56)
2. Đường nước (từ trang 59 đến 236)
3. Đường xa (từ trang 239 đến 308)
4. Đường về (từ trang 311 đến 393)
Nhìn vào tên gọi của từng phần, kết hợp với cách ghi tên sách ta có thể hình dung ra tác giả của cuốn sách muốn thể hiện cuộc hành trình vào địa hạt Thi ca của Nguyễn Duy. Đó là cuộc hành trình từ truyền thống đến hiện đại của một nhà thơ đương đại là Nguyễn Duy: từ con Đường Làng bé nhỏ, anh đã tới con Đường lớn của đất nước để làm việc nước khi vận nước kêu gọi; và trên con đường Thiên lý của Lịch sử, của Thời đại anh phải làm những cuộc chinh phục Đường xa để minh định chân lý, kiếm tìm những giá trị mới mang tầm nhân loại; đoạn cuối của cuộc hành trình vạn dặm đó là anh tìm Đường về cội nguồn, hoàn thiện nhận thức về cuộc đời…
Vì thế, tôi dùng từ “Cấu tứ” (mà không phải là “Cấu tạo”) là muốn nói tới ý tưởng này của tác giả: Toàn bộ tập thơ là một Bài Thơ Lớn - Bài thơ cuộc đời - mà trong Bài Thơ Lớn đó, Nguyễn Duy đã hóa thân trọn vẹn vào Thơ - tức Nguyễn Duy là Nhân vật Trữ tình của Bài Thơ Lớn này. (Nguyễn Duy có điểm rất gần với nhà thơ người xứ Daghestan Rasun Gamzatop là rất chú trọng đặt tên cho những “đứa con tinh thần” của mình, tức tên các bài thơ. Rasun Gamzatop có nói đại ý rằng, tên gọi một tác phẩm giống như cái mũ người ta thường đội đầu. Nhìn vào cái mũ đội đầu, ta có thể biết tính cách người đội mũ!).
1.Ra đi từ làng quê nghèo
Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo
quen cái thói hay nói về gian khổ
dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm
Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách đất
bãi tha ma không một cái mả xây
mùa gặt hái rơm nhiều, thóc ít
lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày
thuở tới trường cũng đầu trần chân đất
chữ viết loằng ngoằng củ sắn ngọn khoai…
Lại cũng là nhà thơ Rasun Gamzatop đã nói một câu rất hay: “Chúng ta không thể lựa chọn Quê hương, nhưng Quê hương thì ngay từ đầu đã lựa chọn chúng ta!”. Dường như Nguyễn Duy chấp nhận rất thành tâm sự lựa chọn của Quê hương, dù đó là một Làng quê nghèo. Những bài thơ làm lay động lòng người mạnh nhất là những bài thơ Nguyễn Duy viết về Quê hương với người bà, người cha, người mẹ…Thật khó mà nói những bài thơ ấy như Đò Lèn, Cầu Bố, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa…thì bài thơ nào hay nhất? Tốt nhất là hãy đọc lại một bài về cha, một bài về mẹ - đấng sinh thành của ta:
Cầu Bố
1. Ai qua Thanh Hóa về Quảng Xá
men rượu là hương vị của làng tôi
nhắc cầu Bố chắc nhiều người còn nhớ
đình nhà Lê rêu phủ đã bao đời
2. Nhà tôi đó không cổng và không cửa
ai ghé qua cứ việc hút thuốc lào
cha tôi chạm rất nhiều cửa sổ
gió nồm nam cứ thoải mái ra vào
3. Đường làng tôi tiếng xe thồ lọc xọc
chiếc xe thồ từng đẩy tới Điện Biên
ngược dòng sông Mạ lên Tây Bắc
ai xuôi về cũng sốt kinh niên
4. Những năm bom đạn như gieo mạ
lại chiếc xe thồ đi về nam
cha tôi qua cầu Bùng cầu Ghép
tôi nhìn theo chớp lửa nhập nhoằng
5. Cỏ đã mọc ai còn thấy nữa
vết xe thồ vẹt đỉnh Trường Sơn
ai thấy nữa ông già đầu bạc xóa
đẩy xe thồ ngang dọc lũng Tà Cơn
6. Cha tôi đó, dân làng tôi vậy đó
xả hết mình khi nước gặp tai ương
rồi thanh thản trở về với ruộng
sống lặng yên như cây cỏ trong vườn
7. Ngày họp mặt cha già như trẻ lại
bếp rượu giữa nhà và bè bạn vây quanh
con đường chiến tranh còn ngoằn ngoèo trong ruột
càng thêm say hương rượu nếp thanh bình.
(Cầu Bố - Quê Nội, mùa Thu, 1983)
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
1. Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào
2. Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa
3. Cái cò... sung chát đào chua ...
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.
4. Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao
5. Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi
6. Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ... mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng
7. Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búm lưỡi lừa cá xương
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa - Sài Gòn, 1986)
2. Vận nước hưng vong thất phu hữu trách
Phàm đã là “Sĩ phu Bắc Hà” không thể không biết tới câu “Vận nước hưng vong thất phu hữu trách”. Song thực hiện câu nói đó như thế nào thì không phải ai cũng làm tốt. Phải nói ngay rằng Nguyễn Duy đã làm rất tốt: Khi có chiến sự, anh đã có mặt ở những nơi “sục sôi bom lửa chiến trường” (như Quảng Trị mùa hè đỏ lửa 1972, chiến tranh biên giới phía Bắc thì anh tới tận những điểm chốt ác liệt). Phần thơ chiến trận này của Nguyễn Duy cũng khá đặc sắc và có phong cách riêng: không ùng oàng bom đạn hoặc xếp câu chữ thành những Sư đoàn quân mà chỉ vài câu thơ thánh thót như giọt nước nhểu trong hang động nhưng lắng đọng vào tận tầng sâu của tâm tư người lính nơi cái chết luôn rình rập:
"Thắng rồi - trận đánh thọc sâu
lại về với mái tăng - bầu trời vuông
...
Vuông vuông chỉ một chút này
mà che tròn vẹn ngàn ngày quân đi"
(Bầu trời vuông - Quảng Trị 1971)
Những vấn đề sau chiến tranh (còn gọi là “hậu chiến”) bao giờ cũng rất gay cấn và đòi hỏi bản lĩnh Thi nhân còn gắt gao hơn cả vấn đề bom đạn trong chiến tranh. Nguyễn Duy đã không “thoái ẩn” hoặc “ngậm miệng ăn tiền” như không ít những kẻ cơ hội mà anh đã dũng cảm nhập cuộc. Chùm ba bài "Nhìn từ xa... Tổ quốc", "Đánh thức tiềm lực", "Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ" đã khiến tầm cỡ Thi nhân của Nguyễn Duy lớn vụt lên và cũng khiến anh gặp “rắc rối” không ít! Vấn đề này thực ra chưa có sự phán định trên diễn đàn văn học công khai mà chỉ là “chuyện nội bộ”, “chuyện tế nhị”. Chúng ta phải chờ hậu thế phán xét vậy! Nhưng dù sao, tôi thấy cũng cần phải nói thêm rằng, với chùm ba bài "Nhìn từ xa... Tổ quốc", "Đánh thức tiềm lực", "Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ" Nguyễn Duy đã trở thành người ca sĩ quả cảm của thời đại mình! (M. Gorki có nói một câu nói nổi tiếng: Nhà thơ không thể chỉ là vú em của tâm hồn mình mà phải là ca sĩ của thời đại mình!). Hình ảnh này chính là chân dung rất cao đẹp của Thi sĩ thời đại ngày nay:
Tôi muốn được làm tiếng hát của em
tiếng trong sáng của nắng và gió
tiếng chát chúa của máy và búa
tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai
tiếng trần trụi của lưỡi cuốc
lang thang
khắp đất nước
hát bài hát
Đánh thức tiềm lực! (4)
3. Dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong lòng
cột biên giới đóng từ thương đến nhớ…
Nếu như ở trên đã nói chùm ba bài "Nhìn từ xa... Tổ quốc", "Đánh thức tiềm lực", "Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ" đã khiến tầm cỡ Thi nhân của Nguyễn Duy vụt lớn lên thì với Phần thứ ba “Đường xa” đã nâng Nguyễn Duy lên tầm nhân loại. Hai bài mở đầu (Đá ơi) và kết thúc Phần Đường xa (Nhìn từ xa…Tổ quốc) đều “gặp rắc rối” khi đem in chứ nếu không thì tập thơ này đã có năm sinh là 2004 chứ không phải là 2010 như đã nói trên! Nhà thơ gặp rắc rối vì đã “nói chuyện chính trị”! Vì thế, tôi chỉ xin dẫn lại vài câu “lý sự” của hai bài thơ trên mà chưa bình luận gì:
“…Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh
Phe nào thắng thì nhân dân đều bại…”
(Đá ơi…- Campuchia, 29-8-1989)
“…Dù có sao
vẫn Tổ quốc trong lòng
mạch tâm linh trong sạch vô ngần
còn thơ còn dân
ta là dân – vậy thì ta tồn tại”
(Nhìn từ xa…Tổ quốc – Matxcơva, 5-1988 - TP.Hồ Chí Minh, 19-8-1988)
4. Đường về của thơ Nguyễn Duy
Trong suốt hành trình thơ của mình, cho dù Nguyễn Duy đã tìm tòi, sáng tạo đủ kiểu theo những xu hướng “mô- đec”, tân kỳ nhất thì những câu thơ đạt hiệu quả thẩm mỹ mạnh nhất, “Nguyễn Duy nhất” vẫn lại chính là những câu thơ dân dã nhất, có nhiều hương đồng gió nội nhất…nhưng với một tầm vóc cao rộng hơn :
“…Mai rồi lại hát à ơ
Con cò lặn lội bên bờ đại dương…”
(Lời ru con cò biển – Mũi Cà Mau, 1977)
Tháng 8 - 1994, Nguyễn Duy cho in tập thơ chỉ có một chữ VỀ và đến tháng 10 -1994 lại in tiếp tập SÁU VÀ TÁM (tuyển 99 bài thơ viết theo thể lục bát từ trước đến 1994) . Tập thơ VỀ (tập hợp những bài viết từ 1990 đến 1994) , nhà thơ Nguyễn Duy đã thể hiện rất rõ quan điểm mỹ học “Về với cội nguồn “ của thơ Nguyễn Duy và đó cũng là sự khẳng định rõ phong cách thơ Nguyễn Duy :
Rơm rạ ơi ta trở về đây
Xin cúi lạy vong linh làng mạc
Bà và mẹ hóa cánh cò cánh vạc
Ông và cha man mác kiếp trâu cày
Rơm rạ ơi ta trở về đây
Ngôi chùa cũ mái đình xưa khuất bóng
Cỏ áy vàng bãi tha ma vắng
Lòng ngổn ngang gò đống tổ tiên nhà
( Về đồng – Quê nhà mùa hạ, 1992 )
Những câu thơ nặng trĩu hồn quê, lay động tận trong sâu thẳm tâm linh và như từ lúc nào đưa người đọc trở về với bản ngã, với những gì con người nhất. Còn tập SÁU VÀ TÁM, theo như Nguyễn Duy cho biết thì đó là sự liều lĩnh vì đây là thể thơ người ta xếp xó từ lâu ! Nhưng, sự tập hợp 99 bài thơ như là sự nhìn lại mình đó của Nguyễn Duy đã khiến cho người đọc ngạc nhiên về sự tài hoa của anh với những câu thơ lục bát biến hóa khôn lường. Không ít người đã phải thốt lên : “ Thật dân gian mà cũng thật hiện đại !” …Có thể nói, Nguyễn Duy đã khai thác được rất nhiều điều bí ẩn của thơ lục bát dân gian và đã một lần nữa khẳng định sức sống muôn đời của thể thơ lục bát !
Tôi nhớ mãi ngày 4 -11 -1994, nhà Văn hóa Thanh Niên TP.HCM đã tổ chức đêm “Thơ Nguyễn Duy” . Công chúng văn học đã đến với thơ Nguyễn Duy thật nhiệt thành. Những bó hoa, những tràng pháo tay không ngớt trong đêm thơ chính là những nhà phê bình công minh nhất. Lúc đó tôi đang làm cho báo Lao Động-Xã Hội và đã làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng Nguyễn Duy. Cuộc phỏng vấn đó như sau :
- Hỏi : Tại sao một con người có máu lang bạt kỳ hồ rất mạnh như anh lại ra hẳn một tập thơ VỀ ?
- Trả lời : Đường “về” trên đồ thị thời gian của thơ tôi như một vòng luân hồi . Tôi đã thử theo nhiều nẻo đường thơ mong đi tìm cho mình một giọng điệu lạ, lòng vòng mãi, lại lần mò về chính cái điểm khởi đầu cuộc hành trình của mình, đó là thơ sáu tám. Kế đó là đường về trên đồ thị không gian thơ tôi, lang bạt hết miền đất này sang vùng trời nọ, rồi lại trở về với vũ trụ chính mình nơi có tất cả những gì gần gũi, thân thuộc, máu thịt nhất của mình. Thêm nữa là sự trở về trong tâm linh, làm thức dậy ký ức cùng những giá trị tinh thần đang rũ rượi ngủ mê hoặc đang chết dần trong lòng mình. Thêm nữa là… về già, về vườn, về nhà với vợ…Nhiều thứ về lắm !
- Hỏi : Còn tập thơ SÁU VÀ TÁM, sao lại chọn 99 bài? Có thể hơn nhiều chứ?
- Trả lời: Tất nhiên là có thể tuyển chọn nhiều hơn nữa. Nhưng, tôi tự thấy, một tập thơ toàn thơ sáu tám, đọc dễ chán, không nên tham. Một trăm bài đã là nhiều rồi. Bớt một bài cho nó ít đi tí tẹo. Bớt nữa thì tiếc.
- Hỏi: Sau hai tập thơ cùng phát hành này, anh sắp cho in gì nữa không?
- Trả lời: Chưa có thơ để in thêm. Thơ khó lắm, không biết tôi còn làm thơ nổi không. Có chăng, sẽ là tập bút ký, chọn lại các bài báo từ thời “Đông Âu du ký” tới nay.
- Hỏi: Nghe nói, anh định làm triển lãm “Thơ Nguyễn Duy”?
- Trả lời: Tôi đang làm. Chép lại một số bài thơ ngắn, chủ yếu vẫn là thơ sáu tám, lên giấy dó, giấy xuyến chỉ, giấy thường, lụa tơ tằm và bao tải, chiếu cói. Phóng lớn một số bức ảnh nghệ thuật của tôi. Một số tranh của các họa sĩ bạn bè minh họa thơ tôi hoặc gần gũi thi tứ các bài thơ của tôi. Sẽ trưng bày vào cuối năm nay tại Thành phố Hồ Chí Minh và đầu năm sau tại Hà Nội, Thanh Hóa, Huế.
- Hỏi: Đang có cuộc tranh luận về thơ khá sôi nổi. Anh có thể cho biết một số ý kiến về thơ hiện nay và về cuộc tranh luận?
-Trả lời: Không dám đâu. Tôi có biết làm thơ, nhưng tự biết không dám bàn về thơ. Có những câu thơ, tôi làm ra mà còn chưa hiểu hết những ý nghĩa khách quan của nó. Huống chi, thơ của người khác. Xin nhường việc tranh luận thơ cho những người am hiểu thơ hơn tôi.
Như trên ta đã thấy, cái sự VỀ của Nguyễn Duy có cái đích rất cụ thể là về với vợ! Vì thế, liền sau hai tập VỀ và SÁU VÀ TÁM là tập thơ VỢ ƠI… Tập thơ VỢ ƠI…(tập hợp 18 bài viết từ 1971 đến 1994 do NXB Phụ nữ xuất bản cuối năm 1995) là sự về với vợ trăm phần trăm của thơ Nguyễn Duy. Những bài thơ này đã in rải rác trong các tập thơ trước đó của Nguyễn Duy, lúc đó, đặt bên cạnh những bài thơ có tính thời cuộc bức xúc, nóng bỏng khác, những bài thơ về với vợ có vị trí khiêm nhường, tĩnh lặng, giản dị… Nhưng khi được tập hợp lại thành một chủ đề về với vợ thì tập thơ “VỢ ƠI…” khiến người đọc giật mình về độ lớn cũng như chiều sâu của hình tượng văn học NGƯỜI VỢ trong thơ Nguyễn Duy. Xin dẫn lại nguyên văn bài thơ “Vợ ơi…” và tôi tin rằng bất kỳ bậc mày râu nào cũng sẽ thấy mình bé nhỏ trước người vợ bình dị mà vô cùng lớn lao khi trở về với vợ :
Khi trong túi có mấy đồng ngọ nguậy
Ta chạy rông như gì nhỉ - quên đời
Lúc xơ xác bờm xơm từng sợi tóc
Đói lả mò về
cơm đâu
vợ ơi!...
*
Và tao tác bạn bè cơn hoạn nạn
Đòn du côn tóe máu tâm hồn
Và tung tóe cả bướm vàng bướm trắng
Này giọt cay giọt đắng giọt buồn nôn
Móc họng mửa ra cầu vồng bảy sắc
Vợ dìu ta
từng bậc
thang mòn…
*
Đêm huyền ảo một kinh kỳ se lạnh
Một mình ta cô quạnh giữa muôn người
Mặt sông lạ gợn nếp nhăn đuôi mắt
Bủn rủn buồn
ta thầm kêu
vợ ơi…
(Praha,7-1990 – Hà Nội,12-1990)
“Về với vợ” là một nẻo về có vị trí đặc biệt quan trọng trong tâm linh thơ Nguyễn Duy được viết bằng những câu thơ ấn tượng mạnh. Nếu như ở tập thơ VỀ vừa nói ở trên con có gì đó trừu tượng, mông lung, huyền ảo thì ở đây vợ là Cõi về cụ thể:
Mải nưng nứng mộng siêu nhân
Lên cơn giá vũ đằng vân giang hồ
Cuộc chơi hành hiệp lơ ngơ
Vắt mình ra mấy giọt thơ nhạt nhèo
Dần mòn con chữ tong teo
Liêu xiêu lều quán lèo tèo ven đê
Cánh buồm mây tướp chiều quê
Ruỗng tênh hênh bịch rơi về cõi em
( Cõi về - Đầu năm con gà, 1993)
Ta mơ màng ta uốn éo ta lả lơi
Để mặc kệ mái nhà xưa dột nát
Mặc kệ áo quần thằng cu nhếch nhác
Mặc kệ bàn tay mẹ nó xanh xao
Ta rất gần bể rộng với trời cao
Để xa cách những gì thân thuộc nhất
Nồi gạo hết lúc nào ta chả biết
Thăm thẳm nỗi lo trong mắt vợ u sầu
Viên thuốc nào dành để lúc con đau
Vợ nằm đó xoay xở mần răng nhỉ
Cơn hoạn nạn bỗng làm ta tĩnh trí
Ngọn gió tha hương lạnh toát gia gà…
( Bán vàng - Tháng Tám năm Canh Thân, 1980)
Trong cuộc đời Nguyễn Duy, cái nạn lớn nhất là vợ ốm và có lẽ qua cái đại hạn này, nhà thơ mới hiểu hết vị trí cũng như giá trị của người vợ trong cuộc đời thi nhân:
Vừa một xuân lại một xuân
Vợ ơi đại hạn đã gần một năm
Một nhà là sáu mồm ăn
Một thi nhân hóa phăm phăm ngựa thồ
Cái lưng em sụm bất ngờ
Tứ chi anh lõng thõng quơ rụng rời
Thông thường thượng giới rong chơi
Trần gian choang choác sự đời tùy em
Nghìn tay nghìn việc không tên
Mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng
Thình lình em ngã bệnh ngang
Phang anh xát bát xang bang sao đành
Cha con chúa Chổm loanh quanh
Anh như nguyên thủ tanh bành quốc gia
Việc thiên việc địa việc nhà
Một mình anh vãi cả ba linh hồn…
( Vợ ốm - Tết con Tuất, 1994)
Nguyễn Duy thường có những câu thơ mạnh cả về ngữ nghĩa và âm thanh và thường là thiên về cách nói cay độc, nhiều khi thái quá. Nhưng khi về với vợ, nhũng câu thơ của anh như được chuốt ra từ bàn tay diệu kỳ của người vợ thành những vần thơ lung linh - đó là những vần thơ “thi trung hữu họa” về chân dung người vợ :
Mùa xuân trở dạ dịu dàng
Hoa khe khẽ hé nhẹ nhàng hương bay
Nhẹ nhàng lộc cựa nách cây
Dịu dàng vương dải tím mây ngang chiều
Nhẹ nhàng tiếng bóng xiêu xiêu
Em ngồi chải tóc muối tiêu dịu dàng
Má hồng về xứ hồng hoang
Tóc rơi mỗi sợi nghe ngàn lau rơi
Dịu dàng vang tiếng mắt cười
Bỏ qua sấm chớp một thời xa xăm
Bỏ qua tội tháng nợ năm
Tự nhiên giọt nước mắt lăn nhẹ nhàng…
( Dịu và nhẹ - Cuối năm con ngựa, 1990)
Mỗi độ xuân về Tết đến Nguyễn Duy đều có thơ cho vợ và phải nói đó là nhũng cảm hứng thi ca đẹp nhất của hồn thơ Nguyễn Duy và cũng là những bài thơ được đông đảo bạn đọc đồng cảm nhất, bởi khi nhà thơ về với vợ là về với tình yêu vợ chồng bình dị mà vô hạn - đó mới chính là THƠ TÌNH trọn vẹn nhất, cao đẹp nhất:
ứa nước mắt mà yêu nhau trọn vẹn
khấp khểnh đường dài thập thễnh bon chen
lắm lúc chữ nghĩa vô nghĩa tuốt
bàn tay bé con phủi bụi ưu phiền
trời cho sống ta cũng già em ạ
con thương cha không bằng bà thương ông
tình như rượu chôn lâu đằm lịm lại
cuối đời đem ra nhấm mới mềm lòng…
*
Trong bài của Chu Văn Sơn có viết rằng: Thơ yêu của Nguyễn Duy thuộc tạng nào đây? Thì còn tạng nào ngoài tạng... tình tang. "Ai sinh ra thói tình tang / để ai hóa gió lang bang quê nhà. Ai làm ra lúng liếng sông / để đưa tu hú sổ chồng sang ngang". Theo tôi ở đây cần trao đổi hai ý: 1/ Thơ Yêu (Thơ Tình) của Nguyễn Duy chính là thơ tặng vợ - Thơ tặng vợ của Nguyễn Duy có thể nói là “Siêu thơ tình”, độc nhất vô nhị! Điều đáng chú ý ở đây là: Nguyễn Duy là một trong số không nhiều lắm nhà thơ rất chung tình với vợ, không có chuyện “đa tình” như phần lớn các nhà thơ khác! 2/ Phần thơ gọi là “Tình tang” của Nguyễn Duy thực ra chỉ là sự “thư giãn”, “sả sú-pap” mà thôi. Những câu thơ của Nguyễn Duy mà Chu Tiến sĩ gọi là “Yêu bằng mắt” như:
1. "Người con gái chợt qua đường
2. áo em mong mỏng màn sương núi đồi
3. Chợt rơi lại một nụ cười
4. và... sương rười rượi một trời phía sau
5. Đem nhan sắc tặng cho nhau
6. em giăng cái đẹp ngang cầu ban mai
7. chả riêng ta... chả riêng ai
8. để heo hút gió thở dài trên cây".
Gợi cho tôi nhớ đến Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến: ông rất chuẩn mực mà cũng cân có lúc “thư giãn” bằng cách nhìn ngắm, thưởng thức vẻ đẹp nữ tính như hai bài thơ sau:
Gái rửa bờ sông
Thu vén giang sơn một cặp tròn,
Nghìn thu sương tuyết vẫn không mòn.
Biết chăng chỉ có ông Hà bá,
Mỉm mép cười thầm với nước non.
Đề Tranh Tố Nữ
Bao tuổi xuân xanh hỡi chị mình?
Xinh sao xinh khéo thực là xinh!
Hoa thơm chẳng muộn hương mà ngát,
Tuyết sạch không nề nước mới thanh.
Ngoài mặt đã đành son với phấn,
Trong lòng nào biết đỏ hay xanh?
Người xinh, cái bóng tình tinh cũng...
Mỗi bút một thêm một điểm tình!
Sài Gòn, tháng 10-2010
----
Chú thích:
(1)Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1947, tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965, từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ trong những năm chiến tranh Việt Nam. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường đường 9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, Nam Lào, chiến trường miền Nam, biên giới phía Bắc (năm 1979). Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam và là Trưởng Đại diện của báo này tại phía Nam.
Năm 1973, Nguyễn Duy đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt nam (trong tập Cát trắng). Năm 1997 ông tuyên bố "gác bút" để chiêm nghiệm lại bản thân rồi tập trung vào làm lịch thơ, in thơ lên các chất liệu tranh, tre, nứa, lá, thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhiều thơ trên giấy dó. Năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó (gồm 30 bài thơ thiền thời Lý, Trần do ông chọn lọc) khổ 81cm x 111 cm có nguyên bản tiếng Hán, phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và ảnh minh họa của ông.
Nguyễn Duy được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Tác phẩm: Thơ: Cát trắng (1973); Ánh trăng (1978); Đãi cát tìm vàng (1987); Mẹ và em (1987); Đường xa (1989); Quà tặng (1990); Về (1994); Bụi (1997);Thơ Nguyễn Duy (2010, tuyển tập); Thể loại khác: Em Sóng (kịch thơ - (1983); Khoảng cách (tiểu thuyết - 1986); Nhìn ra bể rộng trời cao (bút ký - 1986)
(2) Chu Văn Sơn: sinh năm 1962, Quê Thanh Hóa, Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại Học Sư Phạm Hà Nội.
Bài đã đăng trên Tạp chí Nhà văn, số 2-2003, nhân Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất. Bài viết này cũng đã đăng tải hai kỳ trên eVan - Nguyen Duy thi si thao dan [1/2].
(3) Xin xem thêm một số bài viết sau:
- Nguyễn Duy thi chỉ - Mai Linh (Vanvn.net, 24-7-2010)
(4) Xin xem nguyên văn bài ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC
(Tiễn đưa anh S.D (*) đi làm kinh tế)
Hãy thức dậy đất đai
Cho áo em tôi không còn vá vai
Cho phần gạo mỗi nhà không còn
thay bằng ngô, khoai, sắn...
Xin bắt đầu từ cơm no áo ấm
Rồi đi xa hơn - đẹp và giàu,
và sung sướng hơn.
Khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non
châu bắu vô biên dưới thềm lục địa
rừng đại ngàn bạc vàng là thế
phù sa muôn đời như sữa mẹ
sông giầu đằng sông, bể giầu đằng bể
còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào
lòng đất rất giầu, mà mặt đất cứ nghèo sao?
Lúc này ta làm thơ cho nhau
đưa đẩy làm chi những lời ngọt lạt
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên...
Tôi lớn lên: bên bờ bãi sông Hồng
trong mầu mỡ phù xa máu loãng
giặc gĩa từ con châu chấu, con cào cào
mương máng, đê điều ngổn ngang chiến hào
trang sử đất ngoằn ngoèo trận mạc
giọt mồ hôi nào có gì to tát
bao nhiêu đời mặn chát các giòng sông
bao nhiêu thời vỡ đê trắng đất, mất đồng
thuyền vỏ trấu mỏng manh ba chìm bẩy nổi
khúc dân ca cũng bèo dạt, mây trôi
hột gạo nõn nà hao gầy đi vì thiên tai
đói thâm niên
đói truyền đời
điệu múa cổ cũng chậm buồn như đói...
Tôi đã qua những chặng đường
miền Trung bỏng rát
và dai dẳng
một bên là Trường - sơn - cây - xanh
bên còn lại: Trường - sơn - cát - trắng
đồng bằng hình lá lúa gầy nhẳng,
cơn bão chưa qua, hạn hán đổ tới rồi
ngọn cỏ nhọn thành gai mà trốn không khỏi úa
đất nứt nẻ ngỡ da người nứt nẻ
cơn gío Lào rát ruột, lắm em ơi !
Hạt giống ở đây chết đi, sống lại
hạt gạo kết tinh như hạt muối
cây luá đứng lên cũng đạp đất đội trời,
Tôi về quê em châu thổ sáng ngời
sông Cửu Long giãn mình ra biển
đất cuồn cuộn sinh sôi và dịch chuyển
cây mắm cây tràm lặn lội mở đường đi
Đất tận sinh ngỡ ngọt ngào trên mặt
lòng còn chát chua nào mặn, nào phèn
mà sung sức và ba cường tráng thế
man mác âu sầu trong câu hát ru em
Đã đi qua những huyền thoại cũ mèm
những đồng lúa không trồng mà gặt
những ruộng cá không nuôi mà sẵn bắt
những gểnh cẳng, vuốt râu làm chơi ăn thật
miếng ăn nào không nước mắt mồ hôi!
Ruộng bát ngát đó thôi, và gạo đắt đó thôi
đất ghiền phân vô cơ như người ghiền á phiện
con rầy nâu khoét rỗng cả mùa màng
thóc bỏ mục ngoài mưa,
thiếu xăng dầu vận chuyển
phà Cần Thơ lê lết người ăn xin
cây đàn hát rong não nề câu vọng cổ
quán rượu lai rai - nơi thừa thiếu trốn tìm
Này, đất nước của ba miền cầy ruộng
chưa đủ no cho đều khắp ba miền
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên.
Lúc này tôi làm thơ tặng em
em có nghĩ tôi là đồ vô dụng
vô dụng lấy đi của cuộc sống những gì?
và trả lại được gì cho cuộc sống?
em có nghĩ tôi là con chích chòe
ăn và gại mỏ
Em có nghĩ
tôi là tay chuyên sản xuất hàng giả?
Em có nghĩ tôi là kẻ thợ chữ
đục đẽo nát cả giấy
múa võ, bán cao trên trang viết mong manh?
tình nghĩa nhập nhằng với cái hư danh?...
tờ giấy chép văn thành tờ giấy bạc?
Em có nghĩ...
mà thôi!
Xin em nhìn kìa - người cuốc đất
(tôi cũng từng chai tay cuốc đất)
cái cuốc theo ta đời này, đời khác
lưỡi cuốc nhỏ nhoi liếm sạch cánh đồng rồi
dướn mình cao
chĩa cuốc lên trời
bổ xuống đánh phập
đẹp lắm chứ cái tạo hình cuốc đất!
Xin em nhìn - người gánh phân gánh thóc
(tôi cũng từng gánh phân gánh thóc)
kẽo kẹt hai vai một nhịp cầu vồng
đẹp lắm chứ cái tạo hình gồng gánh
Những cái đẹp thế kia...
em có chạnh lòng không?
cái đẹp gợi về thuở ngày xửa ngày xưa
nhịp theo tiết tấu chậm buồn
cái đẹp ấy lẽ ra không nên tồn tại nữa !
Em có chạnh lòng chăng?
giữa thành phố huy hoàng
bạt ngàn quán nhậu
bỗng hiện lù lù chiếc xe hơi chạy than
vệt than rơi tóe lửa mặt đường
Em có chạnh lòng chăng ?
xích lô đạp càng ngày càng nghênh ngang
Xích lô máy và xe lam chạy dầu
vừa nã đại liên vừa
phun khói độc
người đi bộ vừa đi vừa nghĩ về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên...
Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo
quen cái thói hay nói về gian khổ
dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm
Làng tôi xưa toàn nhà tranh vách đất
bãi tha ma không một cái mả xây
mùa gặt hái rơm nhiều, thóc ít
lũ trẻ chúng tôi vầy đất tối ngày
thuở tới trường cũng đầu trần chân đất
chữ viết loằng ngoằng củ sắn ngọn khoai
thầy giáo giảng rằng
nước ta giàu lắm !....
lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bài
Lúc này
tôi và em không còn là lũ trẻ con nữa
ta biết buồn để biết chuyện lạc quan
và, để nhắn lại sau ta cho lớp lớp trẻ con
(dù sau này dầu mỏ có phun lên)
quặng bô xit cao nguyên
đã thành nồi, thành xoong,
thành tàu bay hay tầu vũ trụ...
dù sau này có như thế... như thế...đi nữa
thì chúng ta vẫn cứ nên nhắn lại rằng:
đừng quên đất nước mình nghèo!
Lúc này
tôi và em chẳng còn là lũ trẻ con nữa
tuổi thanh xuân trọn vẹn cuộc chiến tranh
sau lưng ta là kỷ niệm bi tráng
trước mặt ta vẫn còn đường gập ghềnh
vẫn trắng trong tấm lòng trung thực
dù có thể lỗi lầm - làm thế nào
mà biết được
dù có sao thì vẫn phải chân thành
Xưa mẹ ru ta ngủ yên lành
để khôn lớn ta hát bài đánh thức
có lẽ nào người lớn cứ rủ nhau
ru tiềm lực ngũ vùi trong thớ thịt.
Tiềm lực còn ngủ yên
trong qủa tim mắc bệnh đập cầm chừng
Tiềm lực còn ngủ yên
trong bộ óc mang khối u tự mãn
Tiềm lực còn ngủ yên
trong con mắt lờ đờ thủy tinh thể
Tiềm lực còn ngủ yên
rong lỗ tai viêm chai màng nhĩ
Tiềm lực còn ngủ yên
trong ống mũi khò khè
không nhận biết mùi thơm
Tiềm lực còn ngủ yên
rong lớp da biếng lười cảm giác
năng động lên nào
từ mỗi tế bào từ mỗi giác quan
cố nhiên cần lưu ý tính năng động của cái lưỡi
Cần lưu ý
lời nói thật thà có thể bị buộc tội
lời nịnh hót dối lừa
có thể được tuyên dương
đạo đức gỉa có thể thành dịch tả
lòng tốt lơ ngơ có thể lạc đường
Cần lưu ý
có cái miệng làm chức năng cái bẫy
sau nụ cười lởm chởm răng cưa
có cái môi mỏng hơn lá mía
hôn má bên này, bật máu má bên kia
có trận đánh úp nhau bằng chữ nghĩa
khái niệm bắn ra không biết lối thu về
Cần lưu ý
có lắm sự nhân danh lạ lắm
mượn áo thánh thần che lốt ma ranh
nhân danh thiện tâm làm điều ác đức
rao vị nhân sinh để bán món vị mình
Cần lưu ý
có lắm nghề lạ lắm
nghể mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau
nghề chửi đổng,
nghề ngồi lê,
nghề vu cáo
nghề ăn cắp lòng tin và
chẹn họng đồng bào
có cả nghề siêu nghề,
là nghề không làm gì cả
thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề...
x
Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy
phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ yên
x
Tôi muốn được làm tiếng hát của em
tiếng trong sáng của nắng và gió
tiếng chát chúa của máy và búa
tiếng dẻo dai đòn gánh nghiến trên vai
tiếng trần trụi của lưỡi cuốc
lang thang
khắp đất nước
hát bài hát
ĐÁNH THỨC TIỀM LỰC...
Thành phố Hồ Chí Minh 1980 - 1982
Nguyễn Duy.
(Hết)