Viết cùng ALEC HOLCOMBE
Đông Hiến dịch
từ bản tiếng Anh: The Heart and Mind of the Poet Xuân Diệu: 1954-1958, đăng trong tạp chí
Journal of Vietnamese Studies, vol. 5, no.2, Summer 2010
Xâu chuỗi lại những nhận xét về Xuân Diệu trong thời kỳ Nhân văn-Giai phẩm
Những tài liệu về báo chí thời kỳ Nhân văn-Giai phẩm cho phép chúng ta tổng kết lại những nét chính của dư luận đa chiều xung quanh quá trình phục vụ cách mạng của Xuân Diệu. Trước hết, có vẻ nhà thơ đã lợi dụng uy tín cá nhân của mình và khai thác những mối quan hệ có quyền lực trong đảng để gây sức ép với NXB Văn nghệ vốn đang lưỡng lự, phải sớm in tập thơ Ngôi Sao. Thứ nhì, đại đa số đội ngũ trí thức văn nghệ cho rằng chất lượng của tập thơ kém, khiến quyết định trao giải nhì càng có vẻ bất công hơn. Ba là, Xuân Diệu đã tham gia ban giám khảo xét giải thưởng văn học 1954-1955 mà vẫn nộp tác phẩm dự giải, tạo cho mình lợi thế có thể bỏ phiếu, hoặc ít nhất là vận động sự ủng hộ, cho tác phẩm của chính mình.[1] Bốn là, trong ban giám khảo, Huy Cận, bạn đời của Xuân Diệu, là người vận động tích cực nhất cho tập thơ Ngôi Sao. Năm là, khi Phan Khôi nhận xét thơ cách mạng của Xuân Diệu kém hơn thơ lãng mạn, một thành viên không rõ tên của ban giám khảo đã gần như gợi ý rằng cần phải trao giải cho thơ cách mạng Xuân Diệu để đảng khỏi mất uy tín. Sáu là, sau khi Huy Cận đinh ninh rằng Ngôi Sao sẽ được giải, Xuân Diệu đã tự giúp mình thêm bằng cách yêu cầu tất cả các tác phẩm được giải (trong đó, đương nhiên có Ngôi Sao) phải được quảng bá rộng rãi trên báo chí của đảng (sử dụng ngân sách công) để khuyến khích quần chúng mua tác phẩm (và tiền sẽ vào túi Xuân Diệu). Điểm cuối cùng là, cả Trần Công và Nguyễn Bính đều công khai khẳng định rằng Xuân Diệu và Huy Cận là một đôi, đầy quyền lực trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ.
Việc Xuân Diệu nghĩ như thế nào về những ý kiến tranh luận rất nóng liên quan đến sự nghiệp cách mạng của mình vẫn còn là điều bí ẩn, vì ông không viết một bài nào phản ứng lại những vấn đề do những người phê bình ông đưa ra. Một manh mối cho thấy trạng thái tâm lý của Xuân Diệu là ông không đăng bất cứ một bài vở gì trong suốt năm tháng liền, từ ngày 17 tháng Năm năm 1956 – ông có bài nhận xét về cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch cho đến ngày mồng 9 tháng Mười một năm 1956, bài “Về con người cũ và con người mới”.[2] Bài viết sau là bản dịch các ghi chép của Maksim Gorky về sự chuyển hóa cách mạng. Trong thời gian đó, các rạp ở Hà Nội đang chiếu bộ phim Liên Xô dựa theo tác phẩm nổi tiếng của Gorky “Người mẹ”.[3] Bản dịch các ghi chép của Gorky là một bước đi hết sức thận trọng của Xuân Diệu nhằm tiếp cận lại diễn đàn trí thức sau một thời gian dài im hơi lặng tiếng.[4]
Những sự kiện trong thời kỳ Nhân văn-Giai phẩm làm xáo trộn đời sống chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Phản ứng của chính quyền với phong trào được bắt đầu bằng bài viết “Mấy điểm sai lầm chủ yếu trong báo Nhân Văn và tập Giai Phẩm Mùa Thu” của Nguyễn Chương, một nhân vật bảo thủ, đăng trên báo Nhân Dân, cơ quan của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, số ra ngày 25 tháng Chín năm 1956.[5] Bốn nhân vật bảo thủ khác trong đảng, Xuân Trường, Hoàng Xuân Nhị, Hồng Chương và Quang Đạm, tất cả đều gắn với hai ấn phẩm nhiều quyền lực nhất của chế độ đương thời, báoNhân Dân và tạp chí lý luận Học Tập, tiếp sức liền.[6] Ngoài bài viết của những vị nêu trên, báo Nhân Dân còn đăng khoảng ba mươi bài khác, trong thời gian từ tháng Mười năm 1956 đến tháng Giêng năm 1957, phản hồi về những vấn đề cốt lõi được nêu trong các ấn phẩm của Nhân văn-Giai phẩm, như tự do dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa nhân văn, và quan hệ giữa chính trị và văn hóa.
Là tờ báo chuyên ngành văn hóa của chính quyền, Văn Nghệ – lúc đó Xuân Diệu vẫn có tên trong ban biên tập, chỉ đăng có sáu bài phê phán phong trào Nhân văn-Giai phẩm trong mười hai số xuất bản trong thời kỳ Nhân văn-Giai phẩm, tức là trung bình hai số mới có một bài.[7] Có lẽ điều quan trọng hơn là, chỉ trừ bài cuối cùng do một quan chức văn nghệ gốc Nghệ An tên là Hoàng Trung Thông (bút danh Hồng Vân) viết, tác giả của tất cả các bài còn lại đều là những nhân vật tương đối ít tên tuổi trong đội ngũ trí thức văn nghệ. Đó thực là một phản ứng yếu ớt, nếu so sánh với những đòn tấn công mãnh liệt hồi tháng Ba và tháng Tư tờ báo này đã dành cho tập Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 – một ấn phẩm vô hại hơn nhiều so với những ấn phẩm sau này của phong trào Nhân văn-Giai phẩm. Hồi đó, ba nhà trí thức quyền lực nhất nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Hoài Thanh, Xuân Diệu và Nguyễn Đình Thi cùng tiên phong chỉ đạo đợt tấn công.
Trong con mắt của các lãnh đạo đảng cao cấp, giới trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tờ báo Văn Nghệ lúc bấy giờ hẳn là một đám hỗn loạn. Một vấn đề nhức nhối là ba thành viên quan trọng trong phong trào Nhân văn-Giai phẩm: Văn Cao, Sĩ Ngọc và Chu Ngọc đều có chân trong ban biên tập chín người của báo Văn Nghệ. Điều này đồng nghĩa với việc không thể sử dụng tờ báo này làm vũ khí hữu hiệu để tấn công Nhân văn-Giai phẩm. Trên thực tế, nhiều thành viên quan trọng của phong trào cải cách này còn đăng bài trên báo Văn Nghệ trong thời kỳ Nhân văn-Giai phẩm. Hình như họ không gặp trở ngại nào với cả hai mảng báo chí nhà nước (Văn Nghệ) và tư nhân (Nhân văn, Giai phẩm), và tự do qua lại cả hai bên.[8]
Có ba yếu tố giúp giải thích vì sao báo Văn Nghệ giữ thái độ khá trung lập và không thấy nhiều sự phụ họa của giới trí thức trong chiến dịch tấn công Nhân văn-Giai phẩm. Trước hết, đa số thành viên trong đội ngũ trí thức có vẻ ngầm đồng tình với nhiều đề xuất nhân văn được thể hiện trong các ấn phẩm của phong trào Nhân văn-Giai phẩm. Hai là, dưới góc độ kinh tế đơn thuần, tình trạng lạm phát, thiếu lương thực, và không có chính sách lương chuẩn hóa, ổn định cho các trí thức ở Hà Nội lúc bấy giờ đồng nghĩa với tình trạng các nhà văn phải chật vật mới đủ ăn. Môi trường tự do báo chí sẽ là mang lại nhiều cơ hội kiếm tiền nhuận bút, điều mà các trí thức trong chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang rất khát khao. Và ba là, lãnh đạo đảng ban đầu đã chủ trương xoa dịu các trí thức bất mãn bằng cách để cho họ xả những nỗi tức giận lên đầu những người lãnh đạo chuyên môn trực tiếp. Những quan chức văn hóa này (như Xuân Diệu, Huy Cận, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, thậm chí ngay cả Tố Hữu) đã bị đồng nghiệp trí thức hạ uy tín và tạm thời bị chính quyền thả nổi. Đến lúc thấy nhất định phải loại bỏ Nhân văn-Giai phẩm, lãnh đạo đảng buộc phải trông cậy vào các nhà lý luận Mác-Lê của hai tờ Nhân Dân và Học Tập chứ không phải các quan chức văn hóa, những người đã phải trả giá đắt vì đã đánh tập Giai Phẩm Mùa Xuân 1956 vào đầu năm. Tình thế đó giúp giải thích vì sao Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và các lãnh đạo văn hóa khác phải ngồi im lặng ngoài đường biên gần như suốt thời kỳ Nhân văn-Giai phẩm, không hề tham gia viết bài đánh phong trào này ngay trong chiến dịch.
Khoảng giữa tháng Chạp năm 1956, lãnh đạo đảng bắt đầu ra lệnh đóng cửa các ấn phẩm Nhân văn, Giai phẩm, đầu tiên với tờ báo Nhân Văn. Một bài báo của nhà lý luận cứng rắn Xuân Trường đăng trên Nhân Dân số ra ngày 10 tháng Chạp năm 1956 đã tổng kết quan điểm của chính quyền về tờ báo nói trên: Nhân Văn tuyên bố là đi theo sự lãnh đạo của đảng, nhưng trên thực tế thì không. Tờ báo nói xấu chế độ bằng cách công khai kết tội lãnh đạo đảng tìm cách phá hoại tờ báo, nó “gieo mầm nghi ngờ trong quần chúng về bản chất tự do dân chủ của chế độ ta”; và các bài báo “xuyên tạc, nói xấu, bịa đặt”. Về những suy tư của Nhân Văn đối với Ba Lan và Hungary, Xuân Trường viết:
“[Nguyễn Hữu Đang] lại đặt vấn đề ‘nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba-lan và Hung-ga-ri là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là vì thiếu chuyên chính?’ Chế độ ta là chuyên chính dân chủ nhân dân, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân, của Tổ quốc, của chế độ. Dân chủ và chuyên chính là hai mặt của một vấn đề. …Những biến cố vừa rồi ở Ba-lan và Hung-ga-ri có nguyên nhân khách quan và chủ quan của nó. Kẻ chủ mưu những vụ phiến loạn ở Hung-ga-ri là bọn phản cách mạng gồm những phần tử phong kiến tư sản phản động tay sai của đế quốc. Chúng lợi dụng sự bất mãn của quần chúng mà làm điều phi pháp. Cách hiểu và đặt vấn đề của bạn Nguyễn Hữu Đang về thực tế đã gieo một tâm lý hoài nghi cho một số người chưa thật hiểu ở đường lối và chính sách của Đảng và Chính phủ.”[9]
Đến tháng Chạp, Trung ương đảng tổ chức gặp gỡ các trí thức và phê bình nghiêm khắc những người đã tham gia phong trào Nhân văn-Giai phẩm. Dù những nhà cải cách này vẫn tiếp tục được làm việc cho chế độ, nhưng cuộc sống của tất cả các thành viên từng tham gia phong trào vẫn không thể trở lại bình thường. Bị công an theo dõi là chuyện thường ngày, và đương nhiên khiến cho những người khác trong giới trí thức (bất kể ý kiến riêng của họ về Nhân văn-Giai phẩm như thế nào) ngại bị người khác phát hiện có tiếp xúc với các thành phần Nhân văn-Giai phẩm.[10] Tuy nhiên, bịt miệng phong trào Nhân văn-Giai phẩm đã là một việc làm đau đầu các lãnh đạo đảng, nhưng việc khó hơn (và đòi hỏi những biện pháp mạnh hơn) là phải phá vỡ sự thống nhất của giới trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với xu hướng coi tranh luận thả cửa và sự tồn tại của nhiều luồng ý kiến không đồng thuận là chuyện thường ngày trong giới. Xu hướng dung hòa các quan điểm bất đồng này buộc Đảng Lao động Việt Nam phải siết chặt sự kiểm soát đối với các hoạt động sáng tác. Lãnh đạo đảng cần các trí thức kiểm soát lẫn nhau, chứ không phải dung hòa với nhau.
Giữa Nhân văn-Giai phẩm và Văn: Hai bài phát biểu của Xuân Diệu về Văn học Cách mạng
Sang đến năm 1957, tình hình của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tương đối ổn định so với những năm đầy xáo trộn trước đó, từ cải cách ruộng đất, hóa giải ảnh hưởng Stalin, phong trào Trăm Hoa, những biến động chính trị trong khối xã hội chủ nghĩa (Ba Lan và Hungary) và Nhân văn-Giai phẩm. Tuy nhiên, một văn kiện chính thức của đảng năm 1957 cho người đọc một cảm tưởng rằng chế độ vẫn vững vàng trên đôi chân của mình, dù phải liên tiếp đối mặt với hết sự cố này đến rắc rối khác, cố gắng kiểm soát một xã hội đang rời rạc và thiếu hiệu quả. Vụ đàn áp Nhân văn-Giai phẩm vào tháng Chạp năm 1956 đánh dấu bước đi đầu tiên trong kế hoạch đảo ngược lại chính sách hóa giải ảnh hưởng của Stalin, sẽ được thực hiện trong suốt năm 1957. Đối với vấn đề cải cách ruộng đất – một chiến dịch gây tác động sâu rộng đến đông đảo dân chúng nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh đạo đảng tỏ ra ngày càng hờ hững với việc “sửa sai” – dù trước đó đã hứa sẽ thực hiện triệt để, trong lúc cao điểm của phong trào hóa giải ảnh hưởng của Stalin vào tháng Mười năm 1956. Những bước sửa sai gồm có: phục hồi công tác cho các đảng viên bị đấu tố, bồi thường thích đáng về vật chất cho nông dân lao động có tài sản bị tịch thu, giảm thuế nông nghiệp – vì trong chiến dịch đã bị nâng mức đồng loạt.[11] Về mặt tư tưởng, chính quyền chưa bao giờ thấy dễ chịu với chính sách hóa giải ảnh hưởng Stalin.[12] Về kinh tế, bất kể xu hướng chính sách của lãnh đạo đảng có như thế nào chăng nữa, tình hình kinh tế ngày càng xuống dốc của đất nước không cho phép thực thi chính sách bồi thường toàn diện cho các nạn nhân cải cách ruộng đất. Vào giữa năm 1957, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam nhận xét tình hình kinh tế như sau:
“Hội nghị (Bộ Chính trị tổ chức ngày mồng 6 tháng Tư năm 1957) nhận định từ đầu năm đến nay, tình hình thị trường ngày một gay go: vật giá tiếp tục lên mạnh, thất thu về thuế đang nặng nề, nạn đầu cơ tích trữ trầm trọng hơn, thị trường tự do đang mở rộng và đấu tranh mạnh chống lại sự kiểm soát, quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của kinh tế quốc doanh.
Tình hình đó làm cho đời sống của nhân dân lao động nhất là những người sống bằng tiền lương bị sút kém, việc thực hiện kế hoạch Nhà nước 1957 bị khó khăn, và gây ảnh hưởng chính trị không tốt.”[13]
Để đối phó với tình hình đang xấu đi này, Bộ chính trị chỉ thị đảng phải huy động các nguồn lực và thực thi một số biện pháp, dù việc này chắc sẽ không gây được cảm tình của quần chúng.[14] (Trên thực tế, các biện pháp đó có nét giống với một số tội “bóc lột” mà đảng đã quy cho địa chủ trong hai thập kỷ qua). Những biện pháp đó gồm có “hăng hái đấu tranh chống” thất thu thuế nông nghiệp và công nghiệp, hạn chế số lượng tiền mặt lưu hành trên thị trường, hạn chế cho vay vốn nông nghiệp. Trong một nỗ lực nhằm giảm thiểu nhu cầu vật chất của nhân dân, Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào hãy ghi nhớ những gian khổ hy sinh mà nhân dân Liên Xô đã chịu đựng trong suốt mười bốn năm cách mạng. Trình bày viễn kiến của mình về thời gian sắp tới trước một cử tọa gồm các “đại biểu nhân dân” ở Hải Phòng, lãnh tụ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ôn nghèo kể khổ về quãng thời gian ông chứng kiến tại Liên Xô: “Đàn ông không cần cổ cồn, cravát, đàn bà không cần lòe loẹt; ô tô chỉ cần chạy chuyên chở được, tất cả là cốt để xây dựng đã. Và mua cái gì cũng có vé hết, bất kỳ bánh, thịt, vải, giày. Vì tinh thần hy sinh chịu khó, chịu khổ, thắt lưng buộc bụng và cách tổ chức mua bán như thế là hết đầu cơ tích trữ”.[15]
Trong hoàn cảnh kinh tế căng thẳng này, vào tháng Hai năm 1957, ngay sau kỳ nghỉ Tết, Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần thứ hai diễn ra trong tám ngày (từ ngày 20 đến ngày 27 tháng Hai) tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Trong ngày khai mạc, nhà lý luận văn hóa gạo cội của đảng, Trường Chinh đã đọc bức thư dài của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi Hội nghị. Bức thư khẳng định “nền văn nghệ mới lấy hiện thực xã hội chủ nghĩa làm phương pháp sáng tác tốt nhất.” nhưng vẫn đinh ninh “để phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật cách mạng, cần phát huy tự do sáng tác”.[16] Đại hội chứng kiến việc giải thể Hội Văn nghệ và thành lập một đoàn thể văn hóa mới, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Lãnh đạo đảng chỉ thị cho mỗi ngành văn hóa của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thành lập một hội riêng trong khuôn khổ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật. Xuân Diệu ở trong số mười lăm nhà văn và một vài nghệ sĩ từ các ngành nghệ thuật khác được “bầu” vào ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật. Vậy là sau hàng loạt các bài viết phanh phui những thủ đoạn vận động hậu trường để nâng đỡ tập thơ Ngôi Sao xuất hiện trong thời kỳ Nhân văn-Giai phẩm, dường như lãnh đạo đảng thấy cần phải vun xới lại uy tín cho Xuân Diệu và các lãnh đạo văn hóa cánh hữu khác từng chịu búa rìu phê phán của những trí thức bất mãn trong giai đoạn cuối năm 1956.
Bài diễn thuyết thứ nhất: “Bệnh sơ lược trong văn học” (ngày 26 tháng Hai năm 1957)
Bài tham luận của Xuân Diệu về “bệnh sơ lược trong văn học” tại Đại hội Văn nghệ Toàn quốc lần thứ hai đáng được lưu ý vì đây là lần đầu tiên ông đăng đàn phát biểu về những vấn đề văn học gây tranh cãi trong thời kỳ Nhân văn-Giai phẩm. Theo ý kiến đa số, Xuân Diệu có tài phát biểu trước công chúng, là một người thích đứng trước micro và biết vận dụng thuật hùng biện, như làm điệu bộ, ngắt nhịp, lên xuống giọng để gây hiệu ứng kịch tính.[17] Thử tưởng tượng xem các thành viên của Nhân văn-Giai phẩm, những người từng cộng tác hoặc chủ trương những ấn phẩm vừa bị đóng cửa ba tháng trước sẽ nghĩ như thế nào về Xuân Diệu khi họ ngồi ở trong Nhà hát Lớn nghe ông diễn thuyết: “Những tác phẩm mắc bệnh sơ lược gây tai hại là làm cho người ta hiểu sai thực tế, tưởng cách mạng là toàn hồng, gây bệnh chủ quan và thiếu lý tưởng”.[18]
Về nguyên nhân của căn bệnh sơ lược trong văn học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Xuân Diệu vạch ra rằng “Nhưng có một số nhỏ người cho rằng bệnh sơ lược là do ở bản chất nền văn học mới của chúng ta, cũng như có người nói tệ sùng bái cá nhân là ở bản chất của chế độ Xô-viết. Gián tiếp họ muốn nói rằng: tại vì Đảng lãnh đạo nhúng tay vào văn học, nên văn học mới bị bệnh sơ lược, công thức như thế này; nếu cứ để Văn nghệ sĩ hoàn toàn tự do, thì Văn nghệ đã vô cùng phong phú”.
Thay vì tiếp tục phân tích giả thuyết trên xem đúng sai ra sao, Xuân Diệu giải thích:
“…bệnh sơ lược không ở bản chất nền văn học mới chúng ta… chúng ta không độc quyền về bệnh sơ lược. Văn dở thì cổ kim đông tây, đời nào và ở đâu cũng có… Số người quy bệnh sơ lược ở Đảng và chế độ cũng thường trách Đảng và chế độ sinh ra bệnh công thức. Họ nói đến những con người máy, những người rập khuôn do chế độ ta sinh ra. Theo tôi nhớ, thì luận điệu này, bọn tư bản về đế quốc đưa ra đã lâu lắm rồi…”
Xuân Diệu cũng nói về cái mà mọi người thường gọi là văn hóa “rập khuôn” trong môi trường xã hội mới của cuộc cách mạng:
“Những con người máy đã phá kho bom Tân Sơn Nhất chăng? Bế Văn Đàn đã hy sinh rập khuôn với Phan Đình Giót chăng? Hay là trong phe xã hội chủ nghĩa, liệt sĩ Việt Nam Phan Đình Giót đã rập khuôn với anh hùng Liên Xô Matrosov, cũng lấy mình lấp lỗ châu mai một cách công thức chăng? Vâng, chúng ta rất giống nhau, chúng ta người nào cũng được Đảng giáo dục yêu nước yêu dân, cũng được Đảng dặn dò: khi cần thiết thì hy sinh quyền lợi cá nhân cho quyền lợi dân tộc, […]. Vâng! Nếu có một cái khuôn nào, thì đó là một cái khuôn cao cả vĩ đại, phong phú, cái khuôn con người mới biết tự cường, chiến đấu, hy sinh!”
Ngoài ra, Xuân Diệu còn biện minh cho bệnh sáo mòn rất phổ biến trong văn học và nghệ thuật cách mạng: “Bệnh công thức của ta rất đáng ghét, nhưng động cơ của nó là muốn nói cái mới cái hay, chỉ vì thiếu nghiên cứu, thiếu sáng tạo mà rơi vào chỗ sáo, ít nhất là nó hảo ý; chứ còn cái công thức của tư sản phản động, của văn hóa Mỹ thì ác ý và ghê tởm vô cùng.”
Về cách chữa trị khả dĩ cho căn bệnh sơ lược, Xuân Diệu cảnh báo về sự tồn tại song hành của cả hai cách chữa chân chính và giả tạo, và khuyên thính giả phải cảnh giác với loại giả tạo: “Cách chữa giả tạo là dựa vào hình thức, vào kỹ thuật, tránh sự tẻ nhạt bằng cách bịa ra những trò chơi quái ác, bằng cách bẻ quặt thực tế khách quan […] Chữa giả tạo bằng cách quá đề cao cá tính siêu nhân của người Văn nghệ; bằng cách đem “tiếng sáo tiền kiếp” ra thổi giữa những bản đàn của thời đại mà mình cho là chán. Bằng cách phục hồi nguyên xi những ý tình cũ kỹ đã bị cách mạng thải ra. Chữa giả tạo trên hình thức bằng cách làm thơ leo thang hay xuống dốc, cắt nát câu thơ ra và xuống dòng nhiều quá sự cần thiết…”[19]
Trái lại, cách chữa “chân chính” là “nghiên cứu sâu thực tế cách mạng” vì “cái mới căn bản nằm trong đời sống cách mạng”. Xuân Diệu giảng tiếp “ta phải nói được cái mới căn bản đó, chứ không phải rơi vào một thứ ‘mới chủ nghĩa’, đi tìm những cái tính lập dị nào… Tôi tưởng tượng rằng: nếu bà Thị Điểm mà sống lại và viết một bản Chinh phụ ngâm mới về phong trào hoà bình thế giới hiện nay, thì Hồng Hà nữ sĩ cũng phải nghiên cứu đời sống quần chúng đau khổ gây ra bởi chiến tranh đế quốc. Nếu Nguyễn Du còn sống và muốn viết về cuộc đấu tranh và lao động hiện tại của nhân dân ta, Nguyễn Du cũng tự nguyện đặt mình dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, và cũng phải thâm nhập vào quần chúng hiện tại!”[20]Ba tháng sau khi phong trào Nhân văn – Giai phẩm bị dập tắt, giọng văn bút chiến của Xuân Diệu đã phục hồi.
Bài thứ hai: “Viết sự thật” (tháng Tư năm 1957)
Chỉ một tháng sau, Xuân Diệu có bài diễn thuyết thứ hai tại hội nghị ra mắt Hội Nhà văn Việt Nam ngày mồng 1 tháng Tư năm 1957. Đối với các nhà văn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hội nhà văn là tổ chức thay thế cho Ban Văn thuộc Hội Văn nghệ vừa mới giải thể để chuyển thành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Hội riêng này của giới văn học cũng có tổ chức hội viên riêng, tờ báo riêng, nhà xuất bản riêng và ngân sách riêng. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, không có gì lạ khi Hội Nhà văn, cũng như các chi hội khác của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật được thành lập và cơ cấu như một công cụ chính trị của đảng và nhà nước. Hội được giao độc quyền kiểm soát lĩnh vực chuyên môn, một đội ngũ văn phòng được trả lương và được nhà nước tài trợ để phát triển hoạt động trong toàn quốc. Điều ba trong Điều lệ Hội Nhà văn quy định mục đích của Hội như sau: “Trên cơ sở Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam đoàn kết mọi nhà văn yêu nước và tiến bộ, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, xu hướng chính trị, xu hướng nghệ thuật”.
Bài diễn văn Xuân Diệu đọc tại hội nghị Hội Nhà văn vào tháng Tư, “Một vài ý kiến về viết sự thật”, được đăng lại trên báo Nhân Dân số ra ngày 21 tháng Tư năm 1957. Trong trích đoạn dưới đây, ta có thể tìm thấy cách lập luận biện hộ cho việc kiểm duyệt mà đảng vẫn tiếp tục áp dụng ở Việt Nam cho đến tận hôm nay:
“Chúng ta nói những sự thật là có một mục đích, mục đích làm công tác tư tưởng bằng văn học, nên ta không phải là một người cầm cái máy ảnh tốt rồi bạ cái gì cũng chụp ảnh, cũng in ra. Chúng ta không hoàn toàn đi theo cái chủ nghĩa thành thật, vì chủ nghĩa đó chỉ đúng có một nửa. Nhất định những thơ văn nào chúng ta viết ra đều là huyết của ta, đều là thiết tha, thành thật, mà có thiết tha thành thật thì mới hay được. Nhưng không phải những tình cảm nào thiết tha thành thật đều nên đưa vào thơ văn.”[21]
Tại sao phải như vậy? Theo Xuân Diệu, nhà văn vừa là “kỹ sư tâm hồn” vừa là “bác sĩ tâm hồn”. Vì vậy, họ phải đấu tranh không để cho những nỗi khổ tâm riêng của mình ảnh hưởng đến người khác, đồng thời phải tạo cảm hứng và dìu dắt (mọi người) theo các mục tiêu của đảng và nhà nước:
“Nhà văn hiện nên phát hiện nhiều vấn đề mới; nhưng nêu vấn đề ra, nếu chưa giải quyết dứt khoát được, thì ít nhất cũng bao hàm một hướng giải quyết, một thái độ giải quyết. Nếu chỉ nêu vấn đề rồi vứt giữa xã hội thì chỉ tổ gây hoang mang. Vào trong xã hội mà chỉ tin ở sự thành thật theo cảm tính của mình, thậm chí cố tình không mang theo những thứ mà mình cho là tầm thường, như lập trường, nhưđảng tính, v.v…, thì càng tưởng rằng viết theo sự thật lại càng sai lạc.”[22]
Trong đoạn này, Xuân Diệu thể hiện quan điểm về chức năng và tác dụng của văn học rập khuôn theo lý luận của lãnh đạo đảng đã đề ra trước đó. Trong phần sau của bài diễn văn, ông kết hợp lý luận này với những ý kiến phê bình gay gắt Nguyễn Tuân vì viết văn như “bác sĩ gọi ra bệnh của bệnh nhân” nhưng không “kê đơn bốc thuốc”. Xuân Diệu cũng lên án một số tác phẩm của Nhân văn-Giai phẩm mang đậm nét nhân văn của phong trào cùng tên, cụ thể như “Tiếng sáo tiền kiếp” của Trần Duy, “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” của Lê Đạt và “Một trò chơi nguy hiểm” của Nguyễn Thành Long.[23]
(còn tiếp)
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, vol. 5, no.2, Summer 2010.
Bản tiếng Việt © 2010 Đông Hiến
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
[1] Điều thú vị là, hiện tượng đó đã xảy ra với giải thưởng năm 1951-1952, khi Tú Mỡ, Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi đều tham gia tự trao giải cho mình. Xem “Kết quả giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1951-1952”, Văn nghệ, số 39, tháng 2/1953.
[2] Xem Xuân Diệu, “Đọc Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”,Văn nghệ, số 121, 17/5/1956. Maksim Gorky, “Nói về con người cũ và con người mới”, Xuân Diệu dịch và biên tập, Văn nghệ, số 146, 9/11/1956.
[3] Trong cùng số báo Văn nghệ đó, Trần Công, người đã phê phán Xuân Diệu, cũng viết một bài khen cuốn phim Liên Xô chuyển thể từ tiểu thuyết “Người mẹ” của Gorky.
[4] Về thời điểm Xuân Diệu chọn để đăng bài trở lại, ta không thể không ghi nhận sự ăn khớp giữa thời điểm tái xuất giang hồ của nhà thơ và văn bản cảnh cáo báoNhân Văn vì đã vi phạm quy định báo chí. Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ban hành văn bản cảnh cáo nói trên vào ngày 8/11/1956 – bài của Xuân Diệu được đăng ngày 9/11/1956. Qua các mối quan hệ cấp cao của mình, có thể Xuân Diệu đã biết trước lãnh đạo đảng chuẩn bị ra văn bản cảnh cáo, một dấu hiệu khá chắc chắn báo trước số phận của Nhân Văn chỉ còn tính từng ngày.
[5] Nguyễn Chương, “Một vài điểm sai lầm chủ yếu trong báo Nhân Văn và tập Giai phẩm Mùa thu”, Nhân Dân, số 934, 25/9/1956.
[6] Trên báo Nhân Dân: Xuân Trường “Một thái độ phê bình không đúng, một quan niệm sai lầm về nghệ thuật”, số 935, 26/9/1956; xã luận “Dân chủ và chuyên chính”, số 979, 9/11/1956; Hoàng Xuân Nhị “Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta”, số 955, 16/10/1956; Quang Đạm, “Củng cố và phát triển chế độ dân chủ của chúng ta”, số 989, 19/11/1956. Trên tạp chí Học Tập: Hồng Chương, “Chính trị và văn nghệ”, số 10, tháng 10/1956; Hồng Chương, “Thử bàn về tự do sáng tác”, số 11 & 12, tháng 12/1956. Phương Sơn, “Cần tiếp tục đấu tranh chống những tư tưởng lạc hậu và tiêu cực trong văn nghệ”, số 2, tháng 2/2957.
[7] Chu Thiên, “Phê bình Giai phẩm Mùa thu” và Lê Quang, “Đọc Nhân Văn số 1”,Văn nghệ, số 141, 4/10/1956; Lê Văn Hải, “Đọc bài ‘Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ’”, Văn nghệ, số 142, 11/10/1956; Lê Trung Thực, “Phê bình bài ‘Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ’của ông Trương Tửu”, Văn nghệ, số 144, 25/10/1956; Hồng Văn “Xung quanh nhóm Pơ-rô-lê-cun và các Nghị quyết về Văn Học của đảng”, Văn nghệ, số 149, 30/11/1956.
[8] Trong số đó, có thể kể Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Trần Lê Văn, Hữu Loan, Trần Duy, Trương Tửu, Bùi Quang Đoài, Tử Phác, Trần Công, Huy Phương, Lê Đại Thanh, Nguyễn Viết Lãm, Hoàng Huế, Nguyễn Văn Tị, Nguyễn Bính, Thụy An, Nguyễn Sáng, Chu Ngọc, Sỹ Ngọc và Văn Cao.
[9] Xuân Trường, “Chống vu khống và xuyên tạc”, Nhân Dân, số 1010, 10/12/1956.
[10] Nguyễn Huy Tưởng, Nhật ký Tập 3. Xem những đoạn, ví dụ như, ngày 14/2/1957, bàn về nhạc sĩ Văn Cao bị ám ảnh luôn có người theo dõi. Trong một đoạn khác, ghi ngày 23/3/1957 (tr.233), Nguyễn Huy Tưởng kể hai họa sĩ Sỹ Ngọc và Nguyễn Sáng bị từ chối khi đi xin việc, vì có tham gia Nhân văn – Giai phẩm.
[11] Hồ Chí Minh, “Thư gửi đồng bào nông thôn và cán bộ nhân dịp cải cách ruộng đất ở miền Bắc căn bản hoàn thành”, Nhân Dân, số 896, 27/8/1956; “Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 10 mở rộng”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 17: 562.
[12] So sánh, ví dụ như phong thái chậm chạp, lờ đờ và lưỡng lự khi chế độ triển khai phong trào hóa giải ảnh hưởng Stalin ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với tinh thần khẩn trương, quyết liệt và bạo tay khi thực hiện “chống chủ nghĩa xét lại” được tuyên bố vào cuối Hội nghị tháng 11/1957 ở Moscow. Chế độ cũng chưa từng cho phép một sự thảo luận công khai hướng đến bản chất tội ác của Stalin.
[13] “Nghị quyết của Bộ Chính trị: Số 17-NQ/TW, 4/6/1957 về việc đẩy mạnh công tác tiền tệ, tài chính và quản lý thị trường”, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, 18: 453.
[14] Trong bài viết ngày 3/2/1957 về tình hình chung ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Xuân Diệu tuyên bố rằng “củi, vải, thức ăn và hạnh phúc đang dần nhiều thêm”. Xem “Mùa xuân thắng”, Nhân Dân, số 1062, 3/2/1957.
[15] Hồ Chí Minh, “Nói chuyện với đại biểu nhân dân thành phố Hải Phòng”, Hồ Chí Minh Toàn Tập số 8, 1955-1957 (Hà Nội: Chính Trị Quốc Gia, 2009), 372.
[16] “Thư của ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai”, Nhân Dân, số 1081, 21/2/1957.
[17] Tô Hoài, Cát bụi chân ai, 199. Tô Hoài, người đi cùng Xuân Diệu nhiều lần trong các dịp nói chuyện, tả về phong cách diễn thuyết của nhà thơ như sau: “Xuân Diệu hay đi nói chuyện văn thơ. Xuân Diệu có kế hoạch chăm chút bảy, tám bài nói, nói khắp nước cũng chuyên tám cái tủ ấy. Đã trau dồi đến thuộc làu, chỗ nào giơ tay, chỗ nào nghiêng phải, nghiêng trái, lên giọng và nhất mạnh, chỗ nào đợi vỗ tay, đợi cười và mình mỉm cười”.
[18] Xuân Diệu “Vài ý kiến về bệnh sơ lược”, Văn nghệ, số 162, 1/3/1957.
[19] Ngụ ý lối bắt chước cấu trúc thơ “xuống thang” theo phong cách nhà thơ Liên Xô nổi tiếng Vladimir Mayakovsky thường dùng.
[20] Xuân Diệu, “Vài ý kiến về bệnh sơ lược”.
[21] Xuân Diệu, “Vài ý kiến về vấn đề viết sự thật”, Nhân Dân, số 1140, 21/4/1957.
[22] Xuân Diệu, bài đã dẫn.
[23] Trần Duy, “Tiếng sáo tiền kiếp”, Giai phẩm Mùa thu tập 1 (tháng 8/1956):54-63; Lê Đạt, “Nhân câu chuyện mấy người tự tử”, Nhân Văn, số 1, 20/8/1956, Nguyễn Thành Long, “Một trò chơi nguy hiểm”, in trong Xuân 1957 (Hà Nội, Văn nghệ, 1957).