Không hiểu vì sao mà câu chuyện này lại ám ảnh tôi mãi không dứt. Cha tôi kể cho chúng tôi không chỉ một lần. Tôi hiểu, ý ông muốn thông qua chuyện của mình để dạy con về tinh thần dân tộc, ý thức tự chủ, nhân cách và lòng tự trọng ở con người; bất kỳ ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng cần bình tĩnh mà suy xét kỷ trước khi hành động một vấn đề nào đó. Nhất là với những tình huống xấu nhất và khi đứng trước kẻ thù “Biết mình, biết ta trăm trận trăm thắng”.
Thời gian dạy học ở Thanh Hóa được hơn hai năm thì trường Mission đóng cửa; bởi Phát xit Nhật đảo chính, thế chân đế quốc Pháp. Tình hình chiến sự, thế cờ đã thay đổi, mới có câu thơ “Trường Nhật đóng tiêu pha đang dè dặt”. Nhật đến chiếm trường, Pháp te tua tháo chạy. Nhà giáo – thi sĩ Xuân Khai cũng đang thu xếp về quê. Nhật đến, gặp ông tỏ ý muốn giữ ông ở lại để tiếp tục dạy học theo nền giáo dục của Nhật. Chúng khiêng đến tặng ông hai hòm quà. Nhiều thầy giáo trong trường, tưởng Nhật hối lộ ông thứ gì quí giá, xì xào bàn tán, chỉ trỏ. Tất nhiên có người nghi ngờ về sự hợp tác của ông với Nhật. Vì thầy Xuân Khai không nhận, nên sĩ quan Nhật ra hiệu ông mở xem rồi hãy từ chối. Trước mặt các thầy, và lính Nhật, thầy Xuân Khai mở cả hai thùng quà ra-đó là hai thùng phấn viết bảng không bụi. Sau đó, bọn Nhật còn hứa hẹn khoảng lương hậu nếu ông chấp nhận ở lại trường. Nhưng ông nhất quyết trở về quê hương.
Tại sân ga cảnh tượng thật hỗn độn, khó phân biệt; nào Tây, nào Nhật, nào dân ta; kẻ cầm súng đứng gác, người qua lại mang, vác đủ thứ trông lôi thôi, lếch thếch; khiến nhà giáo mặt đỏ bừng bừng vì căm giận giặc ngoại xâm đang tranh nhau dày xéo mảnh đất mà ông cha ta cất công khai phá; thầy giáo càng hận hơn khi chứng kiến cảnh chúng ức hiếp người dân Việt Nam quá đỗi, buộc miệng thầy thốt lên “nhục thật”
Khó khăn lắm thầy mua được tấm vé, trầy trật mãi mới len chân vào được tới chỗ ngồi. Nhưng chỗ chưa kịp ấm đã phải chuẩn bị rời đi vì: “Chuyến tàu này dành cho quân đội Pháp, bà con đợi chuyến sau”. Thế là dân ta, lại gồng, gánh, mang, vác, ào ào, xô đẩy nhau, lèn, lách để ra khỏi toa - nơi mà mình vừa chen chúc xô đẩy để tới được! Âu cũng vì mẫu quốc Pháp bị thằng Nhật lùn hung tợn hất cẳng. Thế là lính Pháp quýnh quáng ào lên chiếm chỗ, miệng không ngớt xua dân ta như xua gà: “Allez! Allez Annamie”. Đấy! cả tên nòi giống tổ tiên của ta cũng bị chúng miệt thị, khinh bỉ. Chúng không coi dân ta là người! mà xem như súc vật
Nhìn cảnh dân tinh bị xua đuổi, nhà giáo liên tục thốt lên “Nhục thật!” Lòng tự trọng trỗi dậy trong ông: “Là trí thức mình không thể để chúng đuổi như thế kia. Mất thể diện con người quá! Nếu chúng buộc ta phải rời toa, ta sẽ xuống một cách đàng hoàng!”
Các toa dưới, dân chưa kịp xuống, lính Pháp đã tràn lên chèn cả lối đi, rất lộn xộn. Trong khi đó, toa nhà giáo ngồi vẫn chưa có ai lên. Thầy giáo lưỡng lự và đứng yên tại chỗ để nghĩ cách đối phó; ông đủng đỉnh đưa hai tay lên nắm quai valise trên giá, rồi khựng lại, phóng tầm mắt qua cửa sổ toa quan sát, nghĩ: “nếu, bọn Pháp xông lên, chúng thấy tay ta đang xách quai valise có nghĩa là chuẩn bị đi xuống, chúng sẽ không đuổi ta “Allez! Allez Annamie” như đã đuổi người dân bản xứ. Khi ấy ta đỉnh đạt, đàng hoàng bước xuống, ít ra khi ấy, trong mắt chúng, người trí thức Việt Nam cũng là con người”
Nhưng, bỗng, từ phía sau, một giọng nói rất lịch sự: - Bonsoir monsieur” = Xin chào ngài
Nhà giáo, lúc này, tay vẫn còn để ở quai valise, chỉ quay đầu sang bên trái, xem ai vừa nói, và nói với ai mà nghe lễ phép thế. Thì ra, đó là sĩ quan người Pháp. Tay phải anh ta cũng đang xách chiếc valise bằng nhom, cở trung bình, nhìn nhà giáo vẻ có lỗi. Còn nhà giáo nghi ở tai mình nghe chưa rõ, lịch sự hỏi lại:
- Pardon, Excusez-moi! Xin lỗi, Ngài làm ơn nhắc lại?
Người sĩ quan vẫn nét mặt và nụ cười để sẳn trên môi, tiếp:
- Excusez-moi! Puis-je m’asseoir ici = Xin thứ lỗi, tôi có thể ngồi ở đây?
Nhanh như chớp, trong đầu nhà giáo một phản xạ có điều kiện lập nên “vậy là rõ rồi, giờ đây mình là người có quyền quyết định ngồi lại hay rời khỏi toa chứ không phải người sĩ quan Pháp. Rồi, bằng động tác lịch sự và tự tin ông rút đôi tay xuống; độ lượng, quả quyết:
- Oui! S’il vous plait monsier..
Sau này, nhà giáo mới biết mình mua vé toa dành riêng cho sĩ quan và gia đình họ. Nhưng có một thắc mắc khiến ông nghĩ mãi vẫn chưa ra: “Tại sao, suốt cuộc hành trình về Bình Định, tất cả sĩ quan Pháp trên cùng toa đều tỏ ra kính nể và sợ ông; nhất là các bà vợ của họ, ai cũng nhìn ông nể trọng, sợ nhỡ làm mếch lòng người trí thức Việt Nam trong bộ complet trắng; mà chúng không dám gọi là Annamie kia”
Kể từ thời điểm đó cho đến mãi sau này, ba tôi cố tìm câu trả lời cho thái độ trọng vọng mà sĩ quan Pháp dành cho ông trong chuyến tàu về quê năm ấy, song chưa có câu trả lời:
- Tại sao họ rất lễ phép và nể trọng mình quá đỗi như vậy? Phải chăng do nhân cách, thái độ đàng hoàng tự tin của mình?Hay vì bộ complet trắng, sang trọng từ chất liệu vải Pháp mà cô Thỏ đã tặng?
Khi nhớ lại chuyện, tôi suy diễn rằng: “có thể vì nhân cách tự tin và rất tự trọng của ba tôi trong bộ complet trắng, sang trọng làm cho sĩ quan Pháp kính trọng. Cũng có thể họ nhầm ông là một trí thức Nhật chăng?
Cảnh đợi tàu đã in sâu vào tâm trí nhà thơ, mãi cho đến khi ra Bắc, nhân dịp trở lại Thanh Hóa, trong chuyến đi thực tế, đã có thơ:
Từng tốp người đi áo nâu bạc rách
Tiếng thở dài hơn tầm mắt ngửng trông
Đường chưa qua đã là bước đường cùng
Mà đất cũ không còn nơi chốn ở
Ôi mảnh đất khi xới lên từng thớ
Nhìn chưa phai máu thịt của cha ông
Chân trời kia mắt họ ngời trông
Bóng nắng, giọt mưa đều còn xa lạ
Họ đứng đó nhớ từng gốc rạ
Mà giữa lòng trống trải một lưng cơm
Ngày mai,
Ngày mai trôi đến chốn xa hơn
Trải năm tháng chắc gì kiếm được…
Bữa cơm đợi tàu gượng nhai, gượng nuốt
Tôi đứng lên dù chưa ấm chỗ ngồi
Khi vé cầm tay bỗng lại sợ tiếng còi
Xé thêm rách những cuộc đời xơ xác./.
( Trích "Bữa cơm đợi tàu” Thanh Hóa tháng 9/1959)