Nguyễn Ánh kể rằng dạo ấy là năm 1965, Ánh làm thư kí cho đạo diễn sân khấu Trần Hoạt khi ông dựng vở kịch Cuba Đồng Mía cho đoàn kịch Hà Nội. Trần Hoạt mời Văn Cao làm nhạc và thiết kế mĩ thuật cho vở diễn. Một buổi chiều hai ông cùng thư kí đạo diễn và mấy người trong đoàn kịch ngồi bên li rượu bàn công việc. Nhân khi mọi người chuyền tay nhau bao thuốc lá Tam Thanh, một người lên tiếng:
- Các ông nhìn hình vẽ trên bao thuốc lá này xem có thấy gì không?
- Thấy hòn Vọng Phu chứ thấy gì! Lạng Sơn có phố Kỳ Lừa, có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh. Tam Thanh thì phải vẽ nàng Tô Thị ngóng chồng chứ còn vẽ gì nữa!
- Đấy, vấn đề chính là ở cái hình nàng Tô Thị ngóng chồng ai oán này đấy!
Văn Cao đã nâng chén rượu lên ngang môi lại vội đặt xuống, vẻ lo lắng:
- Vấn đề gì thế?
Vốn nhạy cảm, đạo diễn Trần Hoạt nhận ra vẻ lo lắng thất thần của Văn Cao nên vội gạt đi:
- Cứ suy diễn tùy tiện thì cái gì chẳng có vấn đề! Thôi, uống đi mà lo việc của mình!
Nhưng Văn Cao vẫn bồn chồn không yên, hỏi ráo riết:
- Vấn đề ở chỗ nào hả cậu?
Người khơi chuyện vẫn thủng thẳng:
- Vấn đề nặng đấy! Tay họa sĩ vẽ hình hòn Vọng Phu, nàng Tô Thị ngóng chồng rõ ràng định bi thảm hóa người vợ lính có chồng ra trận! Cuộc kháng chiến chống Mĩ đang quyết liệt! Nhà nào chẳng có người ra trận! Vẽ hòn Vọng Phu như thế là vẽ sự tang tóc, tuyệt vọng của cuộc kháng chiến đang diễn ra à? Thế là đánh phá về chính trị, tư tưởng cuộc kháng chiến chống Mĩ rồi còn gì nữa!
Mặt Văn Cao biến sắc và giọng đã run run:
- Có ý kiến như thế thật à? Thế thì gay đấy!
- Bác cứ nhìn kĩ xem có phải hình hòn Vọng Phu xõa tóc vật vờ như bóng ma không? Đó là một hình ảnh tang tóc thê lương chứ có phải hình nàng Vọng Phu bền bỉ chờ chồng đến hóa đá đâu! Họ suy diễn cũng đúng đấy chứ!
Văn Cao thở dài lẩm bẩm:
- Khổ quá! Mình không có ý viser (ám chỉ - tiếng Pháp) nhưng họ buộc cho như thế, làm sao cãi được! Không biết rồi chuyện gì sẽ đến?
Đạo diễn Trần Hoạt nhìn Văn Cao ái ngại:
- Cái bao thuốc lá này cũng cậu vẽ kiếm cơm hả? Rõ khổ! Vì cậu vẽ nên người ta mới suy diễn như thế! Nhưng việc quái gì phải sợ! Họ chẳng làm được gì hơn nữa với cậu đâu! Thôi, uống đi! Chúng ta đang cần lửa! Cần lửa cho vở kịch về cách mạng Cuba! Chúng ta phải thổi ngọn lửa đó lên, truyền hơi ấm của ngọn lửa đó đến công chúng! Nhắc đến chuyện vớ vẩn kia là dội nước lạnh vào lửa! Thôi dẹp! Lửa đây! Lửa trong rượu Thổ Hà! Nào, làm chút lửa Thổ Hà rồi trở lại công việc với ngọn lửa cách mạng Cuba!
Văn Cao nâng chiếc chén hạt mít lên nhưng nét mặt vẫn đăm đăm khắc khoải:
- Có chuyện gì với mình cũng chẳng sao! Mình chịu quen rồi! Nhưng còn người đã thương mình, giao việc cho mình làm để có tiền nuôi vợ con! Chỉ sợ họ cũng bị vạ lây vì lòng thương họ dành cho mình! Làm sao mình có thể vô tâm, không lo nghĩ đến điều đó được!
Nghe câu chuyện của Nguyễn Ánh, tôi cứ thấy hiện lên vẻ mặt khắc khoải âu lo đến tội nghiệp của Văn Cao. Đã có quá nhiều tai họa kiểu hòn Vọng Phu giáng xuống cuộc đời Văn Cao! Gần suốt cuộc đời Văn Cao phải sống trong âu lo khắc khoải về tinh thần, sống trong khó khăn, thiếu thốn cơ cực về vật chất! Thiết kế sân khấu cho một vở diễn, vẽ bìa sách, vẽ cả bao thuốc lá . . . những công việc cần tài hoa, cần cả sự cặm cụi khuya sớm nữa! Sau câu chuyện của Nguyễn Ánh, tôi đã có dịp gặp Văn Cao. Khi ấy tên tuổi ông đã lại được nhiều tờ báo nhắc đến với sự trân trọng, ngưỡng mộ. Những đêm nhạc Văn Cao lại được liên tiếp tổ chức tưng bừng ở Hà Nội, Hải Phòng và ở cả thành phố phương Nam nơi tôi sống. Ông xuất hiện ở đâu cũng được chào đón nồng nhiệt. Nhưng gặp ông tôi vẫn thấy một Văn Cao dung dị, cởi mở nhưng khắc khổ, ưu tư, như thảng thốt, như đang mang một tâm trạng đầy khắc khoải! Sự khắc khoải về một cuộc sống đầy tai ương, bất trắc! Nghe nhạc Văn Cao, tôi cũng nhận ra sự khắc khoải ấy. Sư khắc khoải về cái đẹp! Sự khắc khoải về thân phận con người!
Với ấn tượng rất sâu sắc về một Văn Cao trong cõi thực ấy nhưng khi đứng ở phố Tràng Thi nghe Đinh Anh Dũng nói về Văn Cao, tôi lại thấy hiện lên một Văn Cao khác, Văn Cao trong cõi mơ. Tôi bỗng thấy cần đến thăm ông để xem có nhận ra một Văn Cao trong cõi mơ không?
2. VÒ RƯỢU QUỐC LỦI
Dắt xe đạp len lách qua những gánh hàng rau của cái chợ cóc tự phát vỉa hè phố Yết Kiêu, tôi lại lên những bậc cầu thang đổ ra góc phố. Vẫn cánh cửa gỗ cũ kĩ. Vẫn bà Băng, người bạn đời chia sẻ mọi hoạn nạn với Văn Cao ra mở cửa. Vẫn bức tượng chân dung do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng ở Đà Nẵng tạc tặng ông đặt trên chiếc đàn piano cũ. Ở phòng khách lần này có một cái mới là thêm bức ảnh đẹp do Lê Quang Châu chụp Văn Cao ngồi bên đàn với bình hoa cúc vàng đến ngẩn ngơ. Tôi chợt nhận ra màu vàng của hoa cúc mùa thu sao đồng điệu với Văn Cao đến thế!
Từ phần buồng phía sau chiếc tủ sách, Văn Cao bước ra. Trông ông khỏe mạnh, nhanh nhẹn hơn hồi tôi gặp ông năm trước. Cái bắt tay của ông cũng có lực nắm mạnh hơn, bàn tay ông cũng nóng ấm hơn. Ông rót cho tôi một li rượu. Căn phòng như ấm hẳn lên bởi mùi rượu thơm nồng.
Mấy năm nay các nhà điện ảnh trong nước và ngoài nước làm khá nhiều phim về Văn Cao. Trong nước có phim Giai điệu Văn Cao do đạo diễn Kinh Môn ở hãng phim Tài liệu Khoa học Trung ương thực hiện. Phim Người đi dọc biển không để lại dấu chân của hãng phim Truyện Một do Hoàng Tích Chỉ biên kịch và Trần Phương đạo diễn. Ban Việt Kiều trung ương cũng làm phim về Văn Cao do anh Nguyễn Thụy Kha thực hiện. Ngoài nước có phim của đài RFI, Pháp, phim của đài BBC, Anh. Tôi hỏi ông có được xem những bộ phim đó không và cảm nhận của ông về những bộ phim đó. Ông nói rằng ông thích bộ phim Homeland (Quê Hương) của đài BBC hơn cả vì nó dung dị, nhẹ nhàng, chân thực, gần gũi với những gì ông có, không cao giọng tán dương như cách làm phim chân dung của ta! Hóa ra những bộ phim người ta ca ngợi, đề cao ông nhiều thì ông lại không thích!
Tôi hỏi về bộ phim Đinh Anh Dũng đang làm về ông. Ông kể về chuyến đi của Dũng và ông đến sông Cầu, về làng Thổ Hà. Bao giờ ông cũng nhắc đến Dũng trước, Dũng và tôi. Ông nâng li rượu lên và nói rằng rượu này cũng do Dũng mua ở Thổ Hà đưa về tận nhà cho ông. Rượu đựng trong vò, nút lá chuối khô, đúng cách trữ rượu của dân gian. Rượu dân dã, vò dựng rượu cũng rất dân dã! Mở nút lá chuối khô ra, hương nếp thơm lừng! Thứ rượu quê thuần khiết mang quốc hồn, quốc túy thế mà bao năm phải chui lủi, dấm dúi khốn khổ để rồi phải mang tên là rượu quốc lủi! Tôi thăm dò suy nghĩ của Văn Cao về ý tưởng bộ phim của Đinh Anh Dũng làm về ông:
- Dũng rất thích bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật của bác. Dũng sẽ làm bộ phim về bác theo tứ bài thơ. Năm buổi sáng không có trong sự thật là năm giấc mơ. Theo Dũng, mỗi tác phẩm của bác là một giấc mơ và cả cuộc đời của bác cũng là một giấc mơ dài, bác thấy thế nào?
Văn Cao tặng tôi bản photocopy trang thơ Văn Cao in trong tờ báo của người Việt ở nước ngoài, trong đó có bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật. Ông nói nhỏ và chậm rãi:
- Thật ra cuộc đời ai cũng chỉ là một giấc mơ thôi. Có giấc mơ ngọt ngào nhưng cũng có giấc mơ cay đắng!
Dừng giây lát, tôi tưởng ông nghĩ ngợi, bỗng ông nói to:
- Còn cuộc đời mình là vò rượu quốc lủi thì đúng hơn!
Văn Cao cười rung chòm râu thưa. Gương mặt ông dãn ra. Vui vì câu trả lời bất ngờ và hóm của Văn Cao, tôi càng vui hơn thấy Văn Cao cười rạng rỡ. Nhưng gương mặt rạng rỡ và tiếng cười của ông thoáng qua nhanh rồi gương mặt già nua, gày guộc của ông lại hằn sâu nét khắc khổ, trầm luân!
Sau này, khi hoàn thành, bộ phim của Đinh Anh Dũng về những tác phẩm âm nhạc của Văn Cao có tên chính thức là Giấc mơ một đòi người.
3. BUỔI SÁNG CÓ TRONG SỰ THẬT
Xem phim Giấc mơ một đời người của đạo diễn Đinh Anh Dũng về những tác phẩm âm nhạc của Văn Cao, mọi người đều thòm thèm, như một món ăn ngon được chờ đợi nhưng lại quá ít, vừa đụng đũa đã hết! Giọng hát hay! Tạo hình đẹp! Những giai điệu làm lay động, xao xuyến lòng người còn đang muốn được nghe nhưng đã hết rồi! Mới chỉ có Thiên Thai, Suối Mơ, Bến Xuân, Cung Đàn Xưa, Sông Lô. Văn Cao còn nhiều bài hát hay nữa chưa có trong Giấc mơ . . . Hình ảnh Văn Cao còm cõi, mong manh như chiếc bóng và xiết bao trìu mến, thân thiết nhưng xuất hiện quá ít trong Giấc mơ . . . Nhiều người hối thúc Dũng làm tiếp phần hai bộ phim ca nhạc về người nhạc sĩ tài hoa và lận đận.
Đối với Dũng, được làm phim về Văn Cao, được tìm hiểu cuộc đời và khám phá thế giới tâm hồn phong phú và đẹp đẽ của Văn Cao là một điều may mắn, quí giá, là một hạnh phúc không dễ có được. Vì thế mỗi dịp được gặp Văn Cao, Đinh Anh Dũng đều hối hả tranh thủ ghi hình ông khá kĩ làm tư liệu. Dũng đã nung nấu rất kĩ ý tưởng cho phần tiếp theo của Giấc mơ . . . và anh tự hẹn rằng khi nào Văn Cao về chốn Thiên Thai anh sẽ làm phim ca nhạc tài liệu thứ hai về ông. Không ngờ anh lại phải thực hiện lời hứa này quá sớm, chỉ hơn một năm sau.
Ngày mồng mười, tháng bảy, năm một ngàn chín trăm chín mươi nhăm (10. 7. 1995), bốn giờ sáng, Dũng vừa từ Mĩ về đến thành phố Hồ Chí Minh thì sáu giờ một cú phôn từ Hà Nội gọi vào thảng thốt báo cho Dũng biết nhạc sĩ của những giai điệu thần tiên đã đi về chốn Thiên Thai trước đó hai giờ, tức là đúng lúc Dũng đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất! Đúng là số phận cho Dũng cái duyên được gắn bó với Văn Cao vì thế Dũng mới may mắn kịp về nước đúng giờ phút hệ trọng này! Dũng lại hối hả mang máy quay phim ra sân bay, bay ra Hà Nội và một trăm năm mươi ngày sau khi Văn Cao mất, bộ phim thứ hai về Văn Cao của Đinh Anh Dũng đã hoàn thành với tên gọi Buổi sáng có trong sự thật!
Mùa xuân năm 1960 Văn Cao viết bài thơ Năm buổi sáng không có trong sự thật. Năm buổi sáng bi thương bởi lòng hận thù, sự đố kị, hẹp hòi, nhỏ nhen. Văn Cao ước nguyện là năm buổi sáng đó không có trong sự thật! Nhưng buổi sáng ngày mồng mười, tháng bảy, năm một ngàn chín trăm chín mươi nhăm, buổi sáng Văn Cao ngừng sáng tạo, rời bỏ cuộc đời ra đi mãi mãi thì có thật rồi!
Buổi sáng có trong sự thật ấy còn là những buổi sáng bắt đầu một ngày âm thầm tư duy sáng tạo của Văn Cao để mang lại cho cuộc đời còn nhiều gian nan, cay đắng những giai điệu dìu dặt nâng đỡ tâm hồn con người!
Buổi sáng có trong sự thật ấy là buổi sáng mùa đông rét mướt, Văn Cao trở về một vùng đất kỉ niệm. Chiếc áo len màu đất lụng thụng, trông ông như một gốc cây xù xì, như một khối suy tư. Bóng ông run rảy khi chân bước vào kí ức xa xăm và cõi lòng chạm vào kỉ niệm rưng rưng!
Buổi sáng có trong sự thật ấy là buổi sáng mùa xuân cuối cùng của Văn Cao, ông cùng người bạn đời Thúy Băng trôi giữa dòng người trong chợ hoa Hàng Lược, Hà Nội, ngắm sắc hoa đào Nhật Tân, ngắm gương mặt cuộc đời, gương mặt nhân dân và ngắm hạnh phúc nhỏ bé đơn sơ của những người dân còn nhiều lam lũ vất vả. Khuôn hình đặc tả cận cảnh gương mặt Văn Cao dãn ra, sáng lên trong niềm vui hiếm hoi. Niềm vui của Văn Cao, nhân vật của phim cũng chính là niềm vui của người thực hiện bộ phim, quay phim và đạo diễn Đinh Anh Dũng vì chính Dũng tổ chức đưa ông bà Văn Cao đến chợ hoa Hàng Lược này!
Tận dụng mọi cơ hội ghi hình Văn Cao, Dũng đã có hình ảnh Văn Cao ở Hải Phòng, nơi Văn Cao để lại tuổi niên thiếu cắp sách đến trường, Dũng đã có hình ảnh Văn Cao với những nẻo đường tám năm kháng chiến chống Pháp. Văn Cao với Hà Nội là gian gác nhỏ nhà số 45 phố Nguyễn Thượng Hiền, nơi có một mùa đông với những đêm Văn Cao thức chong chong nghe hơi lạnh thấu qua lớp chăn mỏng thấm vào cơ thể và nghe tiếng xe bò lọc cọc đi nhặt xác người chết đói ngoài phố mà thấm thía nỗi đau của kiếp đời nô lệ mất nước, mà nung nấu trong lòng nỗi khát khao: Cờ pha máu chiến thắng mang hồn nước – Đứng đều lên gông xích ta đập tan . . . (Lời của ca khúc Tiến Quân Ca) Ca khúc Tiến Quân Ca của Văn Cao, của non nước Việt Nam vững bền được viết ở căn gác nhỏ Hà Nội, trong mùa đông lạnh thấu xương đó! Văn Cao với Hà Nội là Nhà Hát Lớn, nơi người dân mất nước tụ lại thành khối, thành sức mạnh cùng ngẩng cao đầu hát vang bài Tiến Quân Ca rồi trùng trùng đội ngũ như thác đổ, như bão giông ầm ầm cuốn theo đường Tràng Tiền đến Phủ Bắc Bộ, cuồn cuộn theo đường Tràng Thi đến Phủ Toàn quyền Đông Dương giành lại chính quyền, giành lại đất nước! Nhà Hát Lớn Hà Nội còn là nơi Quốc hội khóa đầu tiên họp phiên thứ nhất quyết định chọn bài Tiến Quân Ca của Văn Cao là Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa! Đó là Hà Nội trong cuộc đời chính trị, trong sự nghiệp Văn Cao. Còn Văn Cao trong đời thường với Hà Nội? Suy nghĩ mãi Đinh Anh Dũng thấy cần có hình ảnh Văn Cao cùng người bạn đời Thúy Băng trong chợ hoa Tết Hàng Lược. Thế là giáp tết Ất Hợi 1995 trong khi mọi người tìm về với gia đình thì Đinh Anh Dũng lại rời gia đình ở thành phố phương Nam, xách camera bay ra Hà Nội. Quả thật Dũng rất có duyên với Văn Cao. Ghi được hình ảnh Văn Cao trong mùa xuân cuối cùng của cuộc đời ông là nhờ cái duyên đó!
Đinh Anh Dũng rất thành công khi anh thực hiện thể đối trong bộ phim này. Cô ca sĩ trẻ mười bảy tuổi Thanh Thúy sinh ra và phát triển tài năng ở phương Nam hát bài Mùa xuân đầu tiên, sáng tác của Văn Cao tặng thành phố phương Nam thương nhớ nhân mùa xuân hòa bình đầu tiên. Thanh Thúy vàng rực như tia nắng sớm, như đóa hoa mai mới hé, xinh đẹp tài năng lanh lảnh hát: Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về . . . Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên đan xen là hình ảnh Văn Cao với gam màu nâu xẫm quen thuộc lặng lẽ giữa dòng đời trong mùa xuân cuối cùng của cuộc đời ông! Đó có phải là vòng tròn tiến hóa, là vòng luân hồi của đạo Phật? Mùa xuân cuối cùng của cuộc đời Văn Cao cũng là mùa xuân đầu tiên của một tài năng thế hệ kế tiếp, của một vòng luân hồi mới. Đó cũng là sự vĩnh cửu, bất tử của những giai điệu Văn Cao.
Nhạc của Văn Cao là nhạc của lòng người đang xao xác xáo dộng, đang thấp thỏm trước những dự cảm về những biến động lớn lao sẽ đến, đang đến. Tiết tấu của âm nhạc ấy là tiết tấu của tâm trạng, của khát vọng, của lắng đọng chứ không phải là tiết tấu của cuộc sống công nghiệp, sôi sục, cuồn cuộn, dồn dập, hối hả. Lời từ trong ca khúc Văn Cao là nỗi khắc khoải về những lí tưởng thẩm mĩ, bâng khuâng, da diết nhưng cũng mênh mang đa diện. Lời từ ấy mượn một cớ cụ thể chỉ để nói một tâm trạng, một nỗi khắc khoải trước cái đẹp chứ không phải để nói về cái cụ thể đó. Tạo hình cho bài hát Buồn Tàn Thu là hình ảnh người tráng sĩ nâng gươm ngang mày, bái lạy tổ tiên, giã từ người vợ, lên đường rong ruổi! Tạo hình cho bài hát Trương Chi là bộ mặt Trương Chi sần sùi gớm ghiếc . . . sự minh họa thô thiển đó đã làm giảm giá trị thẩm mĩ, hạn chế ý nghĩa khái quát và thế giới tâm hồn mênh mang, man mác mà âm nhạc Văn Cao mở ra. Cách phối khí của Buổi sáng có trong sự thật với âm thanh mạnh mẽ, rầm rộ của đám đông, của số nhiều, át đi tiếng thì thầm của nỗi lòng nhiều trắc ẩn cũng là cách thể hiện nhạc Văn Cao mà chưa tiếp cận được thế giới âm nhạc Văn Cao!
Buổi sáng có trong sự thật là tác phẩm điện ảnh đầu tiên khám phá di sản âm nhạc Văn Cao sau khi Văn Cao mất. Buổi sáng có trong sự thật còn trân trọng giữ gìn những hình ảnh gần gũi, thân thiết của Văn Cao trong mùa xuân cuối cùng của cuộc đời ông để hình ảnh Văn Cao cùng với âm nhạc Văn Cao mãi mãi có mặt trong cuộc đời với chúng ta, cùng chúng ta đi tới những giá trị thẩm mĩ mà ông luôn khắc khoải./.