Thập niên 80 Văn học Di dân Việt Nam bùng lên hiện tượng nữ, và còn kéo dài đến bây giờ. Vũ Quỳnh Huơng là một trong những gương mặt chính làm nên hiện tượng ấy. Rời quê hương sau 30 tháng 4-1975, Vũ Quỳnh Hương đột ngột khám phá định mệnh của di dân Việt trên vùng đất mới. Miền Vĩnh Phúc gói trọn những kiếp người trong phòng đợi địa ngục. Những con người đáng thương và tha hóa đến phút cuối cùng.
Xuất hiện lần đầu năm 1986 trên tập san Văn Học của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, trung thiên truyện Miền Vĩnh Phúc ngay lập tức được xem là một hạt trân châu lấp lánh trong Văn học Di dân Việt Nam ― của cả Văn học Quốc nội ― vì góc nhìn quan sát mà Vũ Quỳnh Hương đem đến, không thể tìm thấy tại quê nhà. Dụng văn mô tả hoạt cảnh sống động, Vũ Quỳnh Hương đạt đến sự tương phản của đời sống quý giá so với phòng đợi chết âm u. Miền Vĩnh Phúc chưa hề in trong một tuyển tập hay một tập truyện nào. [Trần Vũ]
Từ cuối phía dãy hành lang bên trái, khoảng từ các phòng 130 đến 135 đột nhiên vang lên một loạt tiếng động nặng nề, không phải thứ tiếng động chát chúa của kim loại rơi hay sắc nhọn của đồ vật đổ vỡ mà là một thứ tiếng nặng trầm tựa như tiếng một thân cây đổ gục ngoài vườn một đêm mưa nào đó, thứ tiếng động chỉ có thể nhận ra được giữa cái thinh lặng chập chờn đe dọa của đêm khuya như đêm ở nơi này; tiếp theo sau là một loạt tiếng động rổn rảng của đồ vật nho nhỏ rơi xuống đất. Chi nhận ra được tiếng cái khay thức ăn bỏ quên từ buổi chiều chưa dọn, mấy cái ly nhựa ở trên mặt bàn rơi xuống, tiếng cái bô nhựa và cái thau rửa mặt từ trong ngăn tủ rơi ra và cuối cùng là tiếng chiếc xe lăn đổ ầm xuống nghe rợn người giữa những tiếng rên rỉ yếu ớt đứt quãng. Chi buông vội các phiếu kết quả thử nghiệm máu và nước tiểu mà phòng Lab vừa gửi tới hồi chiều, ngước lên gọi:
- Marta, Marta... Chạy xuống coi có chuyện gì vậy?
Không có tiếng trả lời. Marta, Felisa, và mấy con bé Nurse’s Aides vừa được dọn vào làm có lẽ đã trốn vào Recreation Room hay một xó xỉnh nào đó để ngủ gục rồi. Chi lắc đầu xô ghế đứng dậy, Henrietta cũng đứng bật dậy bước theo nàng, ngáp dài không cần che miệng, cũng không cần ngăn tiếng ngái ngủ nhừa nhựa đang kéo ra từ cổ họng như tiếng một sợi dây đàn cũ:
- Tao cá với mày là mụ Sylvia lại mò xuống giường một mình rồi ngã đây. Oh, mụ ấy mà què luôn cả cái chân kia nữa thì tụi mình khổ, cái thân không dưới 200 pounds đó...
Chi không trả lời, lắc đầu chạy xô vào phòng 132 để thấy quả nhiên là Sylvia đang nằm co quắp dưới đất, cánh tay còn cử động được bíu lấy thành giường, nửa thân mình tê liệt bên trái như bị đè hẳn dưới sức nặng kinh khủng của chính thân mụ. Tất cả đồ đạc trên đầu chiếc tủ đều rơi hết xuống đất cùng với chăn mền khăn gối trên giường cũng bị lôi xuống theo đà kéo của tấm thân vĩ đại. Chiếc gối rơi úp trên mặt mụ chỉ chừa một con mắt trông như đứa trẻ nghịch ngợm chơi trò giấu mặt. Chi giở chiếc gối ra, Sylvia cố ngước đầu lên nhìn nàng, đôi mắt như mắt một con vật khổ sở, tròng mắt màu xám tro, đục ngầu điểm những tia máu đỏ. Sylvia quờ quạng cánh tay phải, chạm vào vũng nước tiểu xâm xấp ướt chung quanh mà có lẽ mụ đã tiểu ra trong lúc sợ hãi, mụ rụt tay về, nhìn xuống chiếc bụng cao hơn tầm mắt rồi ngước lên nhìn Chi như muốn phân bua, muốn bày giải, muốn khóc than. Sylvia bị cấm khẩu và bị liệt hết nửa thân mình bên trái, chân bên phải mụ có thể gượng chống xuống đất được mỗi khi người ta đỡ mụ từ giường ra xe lăn hay từ xe lăn trở về giường, còn cánh tay phải thì không làm gì được hơn là để vùng vẫy mỗi khi phải thay băng, phải chích, phải uống thuốc, để cầm chặt lấy muỗng nĩa trong giờ ăn như sợ ai giành mất phần và rồi lóng cóng làm đổ hết thức ăn xuống áo; và cuối cùng để bíu lấy cánh tay Chi mà hôn lấy hôn để mỗi khi Chi cúi xuống ôm khuôn mặt khổ sở của mụ cười hỏi hôm nay mụ có khỏe không. Tuy không nói được, không làm gì lấy một mình được nhưng Sylvia còn rất tỉnh táo, mụ không điên cũng không lãng trí chút nào và mụ bầy tỏ tình cảm với một mức độ thiết tha đến nỗi những ngày đầu thấy mụ, Chi đã phải rớt nước mắt vì xót thương. Nhưng không được bao lâu, những giọt nước mắt xót thương rất non trẻ ấy khô cạn đi rất nhanh rồi biến mất hẳn vì những cơn đau, những câu chuyện, những cảnh đời làm buồn lòng như vậy hay buồn hơn thế nữa đã tiếp tục xảy ra, tiếp tục kéo dài, không phải một ngày một giờ mà là hàng tháng hàng năm, hàng chục năm ở đây. Cuối cùng chỉ còn lại những động tác rất nghề nghiệp, những lời lẽ rất máy móc rất bổn phận và một điều gì tựa như một tình yêu dày vò, một cơn đau trầm thống cứ đè nặng lên tâm hồn Chi từng đêm từng đêm. Những đêm dài đong đưa giữa giờ khắc thinh lặng đe dọa, những tiếng rên la ngắt quãng những cơn mê sảng chập chờn những biểu đồ bệnh trạng kẻ lên xuống như bay với giữa núi cao vực sâu. Đêm như một sợi dây cao su co dãn từng hồi giữa hai đầu cái sống và cái chết.
Henrietta và Chi xốc nách Sylvia dậy, đặt mụ lên giường, nó nắm lấy chiếc mũi nhọn xinh xắn của mụ - điểm duy nhất không bị thời gian tàn phá trên gương mặt nhăn nhúm ấy - xoáy từng chữ một:
- Thôi nghe mẹ, ngủ yên giùm con nghe, đêm nay ngã như vậy là đủ rồi nghe.
Không nói và cũng không nghe được, nhưng được đền bù lại là rất nhạy cảm trong việc đọc cảm xúc trên khuôn mặt người đối diện, Sylvia mím chặt môi nhìn Henrietta rồi đưa mắt sang Chi, con mắt ánh lên tia giận hờn. Chi vờ hét lên:
- Henrie, đi ra ngay! Đừng phá Sylvia yêu quí của tao mày.
Henrietta ngúng nguẩy đôi mông bước ra, đứng tựa cửa thò đầu vào:
- OK, thì đi, vui vẻ gì mà đứng đây với mẹ con mụ, chán chết. Nhưng nhớ là có té nữa thì đừng có gọi tới tao nghe.
Sylvia quơ tay muốn víu lấy vai Chi, miệng ú ớ một tràng âm thanh nghe như tiếng cười dòn. Không nói được nữa, mụ có một thứ ngôn ngữ đặc biệt để bày tỏ mọi trạng thái tình cảm hỉ nộ ái ố, một thứ ngôn ngữ của trẻ con tập nói hay của loài người vào thời kỳ hoang sơ của lịch sử nhân loại khi mà người, muông thú và đất trời còn rất gần gũi nhau. Chi gỡ tay Sylvia ra, cúi xuống xem lại nửa thân hình bên trái mụ, thấy cái té ngã tuy ồn ào nhưng không để lại dấu vết trầm trọng nào ngoài một vệt xước dài bên cạnh sườn khi mụ ngã trượt qua góc nhọn của chiếc tủ nhỏ kê đầu giường, may hơn nữa là chiếc xe lăn cũng đã không đổ xuống người mụ. Mạch mụ cũng đã dần dần đập bình thường trở lại. Chi thở ra nhẹ nhõm, cởi chiếc áo ngủ đẫm nước tiểu của mụ ra, mở tủ áo để lại thất vọng nhớ ra rằng đã lâu lắm rồi, thân nhân Sylvia không vào thăm, cũng chẳng gửi thêm quần áo vật dụng cần thiết, ngăn tủ chỉ còn trơ mấy chiếc áo đầm bạc màu và hai chiếc áo len mỏng không đủ ấm cho mùa đông. Chi mặc cho mụ áo ngủ của bệnh viện, lựa một chiếc posey mới. Với Sylvia nàng cũng không thể buộc chặt posey vì các đầu mối dây không đủ dài so với thân hình kềnh càng của mụ, và riêng đêm nay thì Chi biết chắc rằng mụ sẽ không dám tự trở dậy một lần nào nữa. Xong xuôi, thấy tay Sylvia lạnh ngắt, Chi đắp thêm cho mụ một tấm chăn nữa phủ kín đến cổ, kéo hai bên mép chăn chận xuống dưới nệm để mụ không rút tay ra được. Sau đó, theo thói quen, Chi cúi xuống ghé tai mụ, nói khẽ: “Goodnight, Sylvia.” Hai tay bị chận dưới tấm chăn không quơ múa được nhưng mắt Sylvia ráo hoảnh, cơn ngủ biến mất theo cái ngã nặng nề, miệng mụ bập bẹ liên hồi, hai thớ thịt chảy xệ hai bên má cử động theo cặp môi khô nẻ cùng với hai cánh mũi xinh xắn phập phồng. Mụ thèm nói như trẻ con ngứa răng thèm cắn, như con người từ thời man dã đã thèm thấy đồng loại. Chi liếc nhìn đồng hồ để yên tâm rằng chưa đến giờ thăm bệnh kế tiếp rồi lại cúi ôm lấy mặt Sylvia, vuốt những sợi tóc trắng rũ bết xuống trán mụ, tự hỏi mình một lần nữa về cái tình yêu buồn rầu, về nỗi thương xót chua chát cứ trào dâng lên trong lòng mỗi khi nàng cúi xuống ấp trong hai bàn tay mình cái khuôn mặt biểu tượng của nỗi đau khổ lặng thầm ấy. Cái khuôn mặt dúm dó vì sự tàn phá của thời gian, bàng hoàng giữa những cơn trở giấc nửa khuya, cái khuôn mặt như một bức tượng chân dung bị nắn quá tay, tương phản một cách tàn nhẫn với khuôn mặt trẻ đẹp tươi cười của Sylvia trong những bức ảnh cũ treo kín trên tường, chung quanh đầu giường. Đối với Chi thì những bức ảnh xinh đẹp vang dội tiếng cười ròn rã thanh tân của quá khứ ấy chỉ làm tăng thêm nỗi tuyệt vọng cho những thinh âm khờ dại buồn rầu của thứ ngôn ngữ bập bẹ phát ra từ cổ họng Sylvia bây giờ. Thường xuyên, tự cảm thấy khá lố bịch, Chi vẫn không ngăn được mình ghé sát xuống khuôn mặt dúm dó ấy và đáp lại với mụ, một cách hết sức ân cần và dịu ngọt, cũng bằng thứ ngôn ngữ riêng biệt ấy của mụ. Những lúc ấy, đôi mắt xám nhỏ của Sylvia sáng ánh lên những tia sáng kỳ lạ, tựa như ngọn nến tàn bừng lên tia lửa cuối. Những tia sáng ấy, ở mức độ cuối cùng của lòng tuyệt vọng, như loé lên cái vẻ mãn nguyện vì đã chiến đấu cùng cái chết cho đến giờ khắc sau cùng. Chỉ nghĩ đến đây, nghĩ đến hơn mười năm dài mà Sylvia đã sống ở đây, để chờ đợi cái chết, Chi lại nghe ruột gan mình thắt lại. Không hiểu từ lúc nào, Chi cứ tin chắc rằng nếu nàng cứ sống mãi và già nua đi mãi ở xứ sở này, và luân lý đạo đức Việt Nam không thoát ra khỏi được vòng quay nghiệt ngã của xã hội, nàng cũng phải đi qua cánh cửa của cái chết bằng hàng chục năm dài chờ đợi ở Nursing Home như thế này, chắc chắn nàng sẽ không bập bẹ những thanh âm khờ dại buồn rầu như Sylvia, mắt nàng cũng sẽ không ánh lên những tia sáng tuyệt vọng như Sylvia. Không hẳn chỉ vì ánh mắt Đông Phương tự nó kiêu hãnh và buồn rầu hơn ánh mắt Tây Phương mà vì trước hết, nàng sẽ không cho phép mình sống một thời kỳ Second- Childhood dài lâu như thế.
Chi cứ nghĩ, cứ nghĩ... những đêm thâu, những giờ khắc giam mình làm việc ở đây cứ xui khiến Chi nghĩ mải miết về cái chết cho đến một lúc nàng cảm thấy chính mình cũng đã già nua đi một cách tuyệt vọng và thảm thiết. Chính nàng đang nghiêng mình xuống cõi chết, chính nàng đang ôm lấy những khuôn mặt xác chết gọi tên chúng như gọi tên những cơn mộng dữ chập chờn giữa vô số những cơn mộng chưa thành khác giữa đời. Đôi khi Chi thấy Sylvia giống hệt như con búp bê mà nàng đã chơi từ thuở nhỏ cho đến những năm đầu trung học cũng còn chơi, khi mà con búp bê đã rách mướp, mái tóc óng đã biến thành vàng xỉn tả tơi mà nàng vẫn còn thương tiếc vì nàng đã ôm ấp thủ thỉ với nó qua suốt thời thơ dại, săn sóc yêu thương nó, tin tưởng nó hiểu mình và trò chuyện với nó những câu chuyện mà chỉ có nàng và nó chia xẻ cùng nhau. Có điều Sylvia là một con búp bê kềnh càng quá, một con búp bê mà nàng không thể đỡ đứng dậy một mình, lại càng không thể bồng bế trên tay. Đôi khi Chi thấy bất nhẫn với cái ý tưởng so sánh một con người với một thứ đồ chơi trẻ nhỏ như thế, nhưng mà, ôi thật ra, Chi đã yêu con búp bê cũ ấy như yêu một con người và tình yêu mà nàng dành cho Sylvia ngày nay cũng tràn nhân tính biết bao nhiêu. Dường như, trong một cõi tinh tuyền nhất của lòng Chi, hai thứ tình yêu ấy chỉ khác nhau ở chỗ tình yêu ngày xưa đưa nàng đến biết bao nhiêu thiên đường huyên náo, biết bao nhiêu cánh cửa huyền diệu mở ra cuộc đời hoa mộng trước mặt còn tình yêu bây giờ đẩy nàng hết từ địa ngục này xuống địa ngục kia, đẩy tới cánh cửa tận cùng, cánh cửa mở ra những cánh đồng xương cốt, những cây cầu đi qua sông mê, nơi những người yêu thương và những người thù oán nhau chờ đợi nhau đền trả những món nợ dương trần. Cái trò chơi thiên đàng địa ngục hai bên ngày xưa, kỳ diệu thay, bày suốt từ trí nhớ xa lắc lơ trên những vòm tay tuổi nhỏ bắc cầu cho nhau qua cửa thiên đường vẫn còn ngân nga những hồi chuông vọng tới miền chập chùng mộ chí của lòng nàng hôm nay.
Henrietta bỏ đi qua phòng bên cạnh từ bao giờ, tiếng nó càu nhàu mụ Anna cứ đạp hết mền gối xuống chân giường, dỗ dành mụ Sarah khóc rên rỉ như trẻ con, đe dọa mụ Cindy cứ cầm cứng hàm răng giả không cho đem ngâm thuốc: “Hey, Cindy, mụ mà cứ cầm chặt hàm răng suốt đêm như thế thì sáng mai nó sẽ dính luôn vào tay mụ cho coi, và rồi người ta sẽ phải đút thức ăn vào... tay mụ chứ không phải vào miệng nữa đâu. Ôi trời ơi... “ Không nghe mụ Cindy nói gì nữa, rồi tiếng mở cửa, tiếng nước vặn trong toilet, có lẽ Henrietta đã dành được hàm răng giả đem rửa. Sau đó là tiếng cửa đóng khẽ, rồi tiếng chân Henrietta trở lại, vẫn thấy Chi lúi cúi bên giường Sylvia, nó kêu lên:
- Thôi đủ rồi Chi, mày đừng có tập thêm cho mụ cái thói quen đòi hỏi vòi vĩnh quá nhiều như vậy. Shift ban ngày tụi nó không có thì giờ mà nói chuyện lăng nhăng với mụ như mày đâu. Đứa nào nằm yên rồi thì thôi, đi!
Henrietta có cái giọng khỏe, trầm, ngân dài như giọng những tên ca sĩ da đen, tiếng nó vang vang suốt những dãy hành lang thinh lặng. Và cũng giống như bất cứ ca sĩ da đen nào, nó có giọng hát khao khao nghe rất buồn, rất nức nở trong đêm khuya. Chi bước ra khỏi phòng theo nó, vẫy tay chào Sylvia vẫn cố dõi mắt theo nàng, nhăn mặt.
- Mày có điều chỉnh âm thanh mày lại một chút được không, Henrie, đừng có đánh thức hết bệnh nhân dậy chứ.
Henrietta nhún vai:
- Giọng tao chứ đâu phải giọng lão Monpavio đâu mà mày khéo lo. Và, cũng đừng có quên là đêm nay trăng đầy đó nghe, chỉ chừng nửa giờ nữa thôi, khi trăng lên là cả cái nhà mồ này sẽ ầm ĩ lên hết cho coi.
Một đêm khuya, từ chiếc ti vi bỏ quên không tắt ở một giường bệnh nào đó đang chiếu lại cuốn phim Romeo & Juliet với cảnh Romeo và Juliet vừa gục chết bên nhau trong nhà mồ của giòng họ Juliet, Grace bước vào trông thấy vụt thở dài: “Thì ở đây cũng có khác gì một thứ nhà mồ đâu. Có khác chăng là có rất nhiều Romeo và Juliet nằm đợi chết, và họ đợi lâu quá, lâu đến nỗi họ không còn yêu nhau nữa và không còn nhận ra nhau nữa.” Henrietta vớ được câu ấy của Grace, huýt sáo khen hay, mày nói thật đúng ý tao, và từ đó cứ luôn miệng nhắc đến cái nhà mồ làm Grace cuối cùng phải gắt lên vì thật là không hay nếu cái kiểu ví von ấy bị thân nhân người bệnh nghe được. Chi thì không biểu đồng tình vì sợ Henrietta làm già phát ngôn bừa bãi hơn nữa, nhưng thâm tâm nàng cũng không thấy có danh từ nào chính xác và gợi cảm hơn để gọi cái nơi chốn buồn thảm mênh mông này. Cái nơi mà người ta vào không phải để chữa những căn bệnh trầm kha, để hi vọng ngày hôm sau trở lại với cuộc đời mà là nơi để đợi chết, đợi một cái chết không định ngày giờ nhưng rõ ràng, giản dị, và hiển nhiên hết sức. Cái nơi mà người ta có thể bước đi vào, chống nạng chống gậy đi vào hay ngồi trên xe lăn vào nhưng lúc ra thì chắc chắn sẽ chỉ được đẩy ra, cái đầu đẩy ra trước, trùm khăn sạch sẽ không ngó ai; vẫn lời lẽ của Henrietta. Nó nhắc đến trăng làm Chi mới sực nhớ tới vẻ đẹp của vầng trăng tỏ lồng lộng trên suốt những con đường lái xe đến đây lúc nãy, rồi lại sực nhớ thêm rằng nhà chẳng có quyển lịch nào in kèm Âm lịch cả, cứ nhìn trăng khuyết trăng tròn mà đoán ngày tháng đầy vơi như người sống trên hoang đảo mãi rồi đến khi đến tuần trăng, mỗi khi nhìn lại cái ánh sáng trải lụa vàng tràn dãi khắp đêm thâu nàng lại cảm thấy lòng mình như hao hụt đi thêm một chút, như một bãi sông mà phù sa đắp không đủ với những cơn sóng lở, cứ mòn vẹt đi dần, xơ xác đi dần, chết rũ dần hết mọi chồi non. Thêm vào đó, cứ mỗi lần tuần trăng tới ở đây, nhìn những biến chứng kỳ lạ của bệnh nhân dưới ảnh hưởng trăng đầy Chi cũng thấy dường như châu thân mình lên cơn đau nhức, cũng y như những tế bào già nua được đánh thức dậy định kỳ để trăn trở giữa đêm trăng. Nàng nhớ đến căn bệnh, những câu thơ rờn rợn của họ Hàn: “Maria linh hồn tôi ớn lạnh. Run như run thần tử thấy long nhan. Run như run hơi thở chạm tơ vàng.” Không ai muốn bị chia giờ trực vào những đêm trăng đầy cả. Thoạt đầu Chi tình nguyện nhận những đêm ấy, nàng tự giải thích và chế riễu mình, cứ tìm những lối đoạn trường mà đi. Nhưng sau đó thì Chi biết rằng những đêm trăng rợn những người bệnh già nua mất trí ở đây không giúp nàng chia xẻ được với họ nỗi đau khổ của những cơn đau đớn cuối đời, cũng không làm cho tâm hồn nàng phong phú hơn, mà chỉ làm mất mát đi của nàng những mộng ước êm đềm lãng mạn của một vầng trăng đương thì. Chi đã tự hỏi mình có nên tiếp tục ở lại đây nữa hay không. Nàng quay nhìn Henrietta, nhìn đôi môi tô màu son kỳ quặc vừa nhắc đến trăng của nàng:
- Ừ, Henrie, mày nói tao mới nhớ, lúc nãy đi trên xa lộ 280 thấy trăng cứ chạy theo sau xe, chạy vòng vòng trước mặt, chạy lửng lơ trên đầu... tao muốn lái xe đi luôn quá...
Henrietta quay lại nhìn chăm vào mặt Chi một cách thú vị. Chi chậm rãi nói tiếp:
- Nhưng tao nhớ lại là cũng chẳng biết đi đâu nữa nên lại bèn... đi đến đây như thường lệ vậy.
Làm như không quan tâm tới câu Chi vừa nói tiếp, Henrietta nheo mắt:
- Mày làm ơn lập lại cái câu kia cho tao nghe chút coi, Chi, câu trước kia.
Chi chận đầu nó:
- Câu nào? Ôi trời, Henrie, bộ mày cũng sắp sửa... điếc mất rồi sao?
- Còn lâu. Mày đừng quên là tao mới có 22 tuổi à, mày muốn thấy tao điếc mày phải đợi chừng... 50 năm nữa kia. Nhưng lúc đó thì tao chỉ điếc như Linda thôi, còn mày thì vừa câm như Sylvia, vừa mù như Monpavio, lại vừa…cởi áo đi khơi khơi như Katrina nữa... Ha ha..
Nó nhào tới ôm lấy Chi, đầu cổ người ngợm nó nồng nặc mùi thuốc lá lẫn với mùi Chewing gum, Chi vùng ra:
- Henrie, Henrie, đêm nay chưa có ai lên cơn, mày đừng có lên cơn trước tụi nó nghe, và mày cũng đừng có quên là mày nặng hơn tao tới 50 pounds đó nghe.
Henrietta buông Chi ra, ném mình xuống ghế, khoa tay đẩy hết đám hồ sơ bệnh lý mà nó và Chi đang viết dở vào một góc:
- Ờ xin lỗi, tao quên, tại mày vừa nói một câu hợp ý tao quá, người Việt Nam chịu khó làm lụng như tụi mày mà lâu lâu cũng nói muốn bỏ sở lái xe đi chơi luôn thì thật lạ biết mấy.
Chợt thấy vẻ mặt Chi thay đổi, Henrietta ngưng bặt sợ nàng phật lòng điều gì đó. Nó vốn đã có đôi chút kinh nghiệm trước những phản ứng bất thường của cái mà nó gọi là lòng tự ái dân tộc cực đoan của Chi. Nó huyên thuyên nói luôn:
- Hồi nãy lúc 9 giờ thằng Dick gọi tao, nó rủ tao đi Santa Cruz chơi sáng mai về. Tao muốn lấy sick leave để đi với nó quá, nhưng kẹt cái tháng này tao sick đủ rồi, sick nữa thì phiền lắm. Từ chối nó thì cũng tiếc...
Chi bật cười:
- Mày tiếc là tiếc một đêm trăng ở biển hay mày tiếc thằng Dick?
Henrietta nhún vai:
- Tao tiếc mấy con tôm hùm. Tao không đi thì nó cũng rủ con khác đi chứ nó đâu nằm nhà vì tao đâu. Mà mỗi lần ăn được của cái thằng keo kiệt ấy một bữa seafood thật đã biết mấy...
Henrietta chép miệng ngon lành như thể những con tôm tươi đỏ đang nằm co trước mặt nó. Không ngạc nhiên lắm trước câu trả lời của Henrietta nhưng Chi vẫn cứ rũ ra cười, đôi khi nàng thấy thèm được sống với một tấm lòng hiểu đời như nó. Một cuộc đời ồn ào và dễ dãi pha chút ngu muội, dễ say mê và dễ chán chường vì có khá nhiều thứ để say mê rồi chán chường. Một mẫu con gái Mỹ điển hình. Thời của Brooke Shields... Thời của chúng ta. Áo trắng sân trường mộng ngoài cửa lớp... Chi chợt nhắm nghiền mắt, lắc lắc đầu liên tiếp như để sắp xếp lại mớ trí nhớ đang bắt đầu lộn ngược. Như người ta lắc lắc một cái chai để trộn thuốc cho đều. Henrietta khựng lại nhìn nàng:
- Mày làm sao vậy Chi?
Chi mở mắt nhìn đôi môi loáng mọng của nó:
- Có gì đâu, tao đang tưởng tượng tới mấy con tôm hùm của mày đây mà... Nhưng mày thử ngó lại miệng mày đi, Henrie, coi khôi hài không chịu được.
Henrietta nhún vai cười, mở tủ lấy sắc tay ra tô lại son. Nó ngậm ngậm hai cánh môi, không hiểu để son chạy cho đều hay để chép miệng lần nữa:
- Bây giờ chui lại đây ngồi tao lại thấy là mình điên quá.
- Bộ mày mới thấy là mày điên đêm nay thôi sao?
- Hừ, tao biết lâu rồi chứ, nhưng thường đêm thì cũng quên đi, như người ta ngủ mê vậy mà, chỉ những đêm trăng đầy như đêm nay tao mới sực nhớ lại thôi. Oh, nhưng mày thì cũng đâu có điên kém gì tao đâu mà bắt bẻ...
Henrietta ngưng bặt khi thấy bóng bà Beth thoăn thoắt bước ra từ cánh cửa thang máy cuối hành lang vừa mở. Nhà Beth ở gần đây, và thói quen nghề nghiệp làm bà ta thức dậy vào khoảng 2, 3 giờ sáng nên gần như mỗi đêm, dù không có chuyện gì cần thiết, Beth vẫn cứ lái xe đến đây, đi rảo quanh một vòng rồi mới có thể về nhà ngủ lại. Henrietta bảo bà ta thật điên, đang ngủ chăn êm nệm ấm lại trở dậy thay quần áo, mò đến gửi cái mùi lạnh lẽo khó tả ở Nursing Home rồi về nhà ngủ tiếp. Hoặc là bà ta điên, hoặc chồng bà ta điên, hoặc tình duyên hai người đến hồi lỏng lẻo nên Beth mới đến đây hàng đêm như vậy. Với Henrietta thì bất cứ ai có mặt ở đây đều cũng có thể là điên, kể cả chính nó, và luận điệu nó có lý đủ để không ai có thể cãi lại được.
Beth là một người đàn bà có đôi mông vĩ đại nhưng cũng nghề nghiệp đã làm cho dáng đi bà ta nhanh nhẹn và dịu dàng gần như đám con gái, tuy vậy Henrietta vẫn đe dọa, trong những lúc bà ta vui vẻ, rằng tuy bây giờ thì đã hơi trễ nhưng cũng không phải là trễ quá để lo diet, nếu không thì đến khi về già, phải vào Nursing Home, bà ta sẽ phải nằm hai giường, có hai y tá túc trực, khi chết phải có một cái quan tài lớn gấp đôi và dĩ nhiên là mọi chi phí sẽ phải trả gấp đôi, thật là kinh khủng... Beth cười rung rinh cả bàn ghế: “Tao không cần, tiền tao làm ra bây giờ đủ để trả gấp đôi gấp ba cho chi phí cảnh già mai sau của tao mà. Tao chỉ cần một điều, trong mấy con nhỏ y tá săn sóc tao, đừng có đứa nào là mày thôi!” Ngoài ra, Beth còn có một cái tật khá rườm rà nữa là luôn luôn đeo ống nghe trên cổ, ngay cả trong những lúc không cần thiết nhất, không phải vì bệnh nhân mà vì chính bà ta. Không quan tâm tới vấn đề thẩm mỹ nhưng vì ám ảnh bởi cái chết của cha mẹ bà ta đều bị bệnh áp huyết cao, Beth đo áp lực máu của mình thường xuyên. Henrietta nói rằng Beth nghiền nghe cái tiếng đập rì rầm của những trái tim người qua ống nghe, và mỗi ngày nếu không nghe được ít nhất chừng mười trái tim đập, bà ta sẽ ăn không ngon ngủ không yên. Đó là luận điệu của Henrietta, còn Beth thì rõ ràng là rất dễ bần thần mỗi khi nhận ra được một chút thay đổi rất nhỏ trong nhịp đập của trái tim tội nghiệp của bà ta. Rồi như không tin ở chính mình, Beth nhờ hết người này đến người kia đo lại hộ. Bị chế riễu là méo mó nghề nghiệp, Beth phân trần, mỗi người phải chịu một thứ Stress riêng chứ, tao cũng đâu phải là thánh đâu. Chi vẫn tự hỏi, không biết Beth có đeo ống nghe trong lúc ngủ để kiểm soát áp lực máu mỗi khi choàng dậy vì những cơn ác mộng không, nhưng có điều ai cũng biết là bà ta không rời nó cả trong khi lái xe, trước khi rời khỏi nhà và sau khi ra khỏi bệnh viện. Điều này thì Beth tâm sự là có từ thuở bà ta chưa ra trường, vì giận hờn tên boyfriend, bà ta đã nhấn ga 90 dậm/giờ. Bị chận lại, Beth giải thích là phải đến bệnh viện vì một trường hợp khẩn cấp. Người cảnh sát nhìn chiếc áo khoác trắng và cái ống nghe còn trên cổ Beth để bà ta đi mà không hỏi đến giấy tờ sau khi ân cần dặn thêm: “Cẩn thận nghe, tôi muốn cô đến bệnh viện là để chữa bệnh chứ không phải để được chữa bệnh đâu.” Hoàn hồn vì nhận ra mình có thể đã gây ra tai nạn khủng khiếp, lại còn thoát khỏi rắc rối với cảnh sát, từ đó, phải có cái ống nghe, chứ không phải dây nịch an toàn, mới đem lại cho Beth cảm giác an toàn trên xa lộ, và sau đó là cảm giác an toàn trước những căn bệnh đang ngập ngừng chờ đợi ở ngoài ngưỡng cửa, khi tuổi già cứ tiếp tục, ngày một tiến tới gần hơn.
Beth bước vào Nurse’s Station, nhìn quanh một lượt bằng đôi mắt sắc sảo:
- Có gì lạ không các cô?
Henrietta trả lời ngay:
- Chưa có gì hết Beth. Chúng tôi đang ngạc nhiên đây.
Beth lườm Henrietta:
- Ờ, cứ ngồi yên đó mà đợi đi.
Beth nhìn đồng hồ, kéo màn nhìn ra cửa sổ, phía những ngọn đèn sáng lạnh của tiệm 7- Eleven bên kia ngã tư rồi quay vào:
- Phía này không thấy trăng đâu cả. Tôi có cảm tưởng như đêm nay đồng hồ đi chậm hơn mọi đêm vậy...
Henrietta cười ha hả:
- Không chậm đâu Beth, hôm nay bà đo áp lực máu chưa?
Beth lườm Henrietta lần nữa, những nếp nhăn ở đuôi mắt kéo dài ra như đuôi một con cá nhỏ:
- Lo lấy cái thân cô đó. Hôm nay Julie và Sandy trực bên Station 3 phải không?
Henrietta khoát tay:
- Không Beth, hôm nay Grace trực thay cho Julie, nó cũng giống như con Chi vậy, hay làm thay cho thiên hạ lắm. Còn con Sandy thì tôi mới thấy nó ở dưới Laundry Room.
Beth ngạc nhiên:
- Nó làm gì dưới đó vậy?
Henrietta cười:
- Nó bỏ giặt cái áo khoác của nó. Có bệnh nhân mới chuyển về nào đó ói trào từ ngực xuống chân nó...
Beth nhíu mày:
- Ai vậy? 327 phải không?
- Có lẽ. Tôi không rõ, Beth...
Beth thoăn thoắt bước ra, đến ngưỡng cửa như sực nhớ ra điều gì quay vào hỏi tiếp:
- Các cô có nhớ nhắc chừng tụi Aides kiểm soát lại các giường bệnh lần nữa đi, trăng lên cao rồi đấy. Hôm nay sao tôi thấy mọi sự yên tĩnh một cách đáng ngờ...
Henrietta nói với ra:
- Yên tâm đi Beth, tôi ở đây hết mấy chục mùa trăng rồi mà.
Bây giờ thì Beth trừng mắt lên:
- Cô có lường được hết các biến chứng có thể xảy ra không? Chỉ cần một bệnh nhân thoát ra đường được là chúng ta cũng đủ mệt rồi. Cẩn thận trước thì hơn. Và, phải tự mình đi kiểm soát các cửa ra vào nữa, nhất là các cửa mở ra đường lớn...
Beth chưa dứt lời, từ hành lang phía trái, lối dẫn ra Station 3 vọng lại những tiếng la hét theo một nhịp nhắt quãng quen thuộc của Katrina... “Tao không cột mày... Sao mày cột tao... Tao... ao... Ta... ao... không cột... mày... Sao... ao mày cột ta... ao...” Lẫn giữa các quãng ngắt là những tiếng khò khè đưa lên từ cuống họng giống như tiếng gù gù của một con mèo được khuếch đại qua một cái loa rè. Những tiếng hét không nhỏ dần đi rồi chìm vào giấc ngủ như lệ thường đêm mà càng lúc càng lớn hơn, các quãng ngắt thu ngắn hơn, rồi tiếng Grace kêu lên:
- Henrie. Chi. Đến đây mau lên...
Henrietta và Chi chạy ùa sang Station 3. Một cảnh tưởng không thể nín cười đang bày ra trước cửa phòng Katrina, ngay giữa lối đi, Katrina không hiểu bằng cách nào đã đẩy nguyên cả giường mụ ra trước cửa phòng, bao nhiêu chăn mền khăn gối cuộn tròn thành một đống lớn ở cuối chân giường, cả chiếc áo ngủ của mụ cũng quấn lẫn trong đống chăn ấy. Và dĩ nhiên như thế có nghĩa là mụ không còn một mảnh vải nào trên người ngoài đôi slipper dưới chân, là thứ mà mụ không bao giờ chịu rời ra, kể cả lúc đi tắm lẫn lúc lên giường ngủ. Mụ đứng lom khom trên giường, cố vùng vẫy khỏi Grace. Cũng không hiểu bằng cách nào, mụ đã lấy được tấm biển nhỏ “Alzheimer’s Care Unit” vẫn để trên Nurse’s Station, và mụ đang dùng nó như một thứ vũ khí để chống lại Grace. Grace thì giống như một chàng võ sĩ da trắng đang đấu một cách tuyệt vọng với một chàng da đen khỏe mạnh và dai sức hơn mình, một chân nó đứng giữ thế, một chân quỳ trên giường, vừa dỗ dành vừa cố ghì Katrina xuống bằng sức mạnh của cả đôi cánh tay lẫn sức nặng của thân hình nó. Nhưng thân hình mảnh mai của Grace thì không đủ để hạ nổi sức mạnh lạ thường của Katrina trong những đêm trở cơn như đêm nay và những lời dỗ dành đối với mụ lúc này cũng hoàn toàn vô ích. Henrietta nhanh nhẹn tụt giầy nhảy lên giường, hai tay choàng vai Katrina kéo xuống trong khi Grace và Chi đứng hai bên khóa chân tay mụ. Hạ được tay võ sĩ hạng nặng rồi chưa phải hết việc, sau đó là phần mặc áo và đặt mụ nằm yên trên giường. Grace giữ chân còn Chi giữ tay mụ để Henrietta, nhanh nhẹn và khỏe nhất, chụp chiếc áo ngủ, rồi chiếc posey qua đầu mụ. Đến đây thì điệp khúc ngắt quãng của Katrina thay đổi... “Tao... ao... không... không bắt mày... mặc áo... áo... Sao mày bắt tao mặc... áo... áo...” Chỉ để vừa cho mụ thở, Grace kéo chặt các mối posey quấn vào hai bên thành giường đoạn nằm hẳn xuống gầm giường để buộc các đầu mối vào nhau, vòng qua tấm nệm. Khi Katrina lên cơn, phải dùng tới kiểu cột hơi có vẻ dã man và đi rất xa nguyên tắc như thế mới có thể giữ mụ nằm yên trên giường vì mụ có tài gỡ được tất cả các mối dây buộc hai bên thành giường rồi ngồi dậy vung tay ném chiếc posey vào góc phòng, và lúc đó thì mụ có thể ném tất cả những thứ ở chung quanh tầm tay mụ. Xong xuôi, Henrietta vừa thở hào hển vừa bò ra cười hỏi Grace:
- Mày làm sao mà để mụ biểu diễn vũ khỏa thân ngay giữa cửa vậy Grace? May mà mụ ta chưa đẩy cả giường ra ngoài đường chứ không thì cả cái thành phố này đã thức dậy hết mà coi rồi.
Đêm lạnh ngắt mà những giọt mồ hôi lấm tấm hai bên thái dương Grace, rịn xuống những chân tóc vàng mịn, nó phân bua:
- Tao đâu biết, đã dặn con Elsa từ sớm là phải coi chừng mụ cẩn thận. Tao vừa đem thuốc tới định cho mụ uống thì mụ đã ra tới cửa đứng múa rồi.
- Vậy là phải quá mà, với những nhân vật quan trọng như Katrina này thì mày phải tự check lại chứ đâu phải chỉ dặn tụi Aides không thôi là đủ. Có chuyện gì xảy ra, chẳng hạn như mụ chạy ra đường bị xe đụng thì trách nhiệm lại đổ lên đầu mày chứ đâu phải con Elsa.
Grace liếc Henrietta bằng cái kiểu liếc mà Beth vẫn dành cho Henrietta:
- Em biết, thưa chị Henrietta, em biết, bài học về trách nhiệm em vẫn thuộc. Tại vì đêm nay con Sandy bận với bệnh nhân mới của nó, một mình tao ở Nurse’s Station, quay qua quay lại đủ thứ việc rồi quên bẵng đi.
Henrietta đập đập xoa bóp hay cánh tay, ra bộ ngao ngán thở dài:
- Hừ, quên, quên... Nếu không có tao... Ai bảo y tá không cần phải học võ đâu. Không có đẳng cấp như tao thì đêm nay sao hạ nổi mụ.
Grace co chân lên vuốt vuốt đôi panty hose đã bị Katrina cào rách xoạc một đường dài trong lúc giằng co, thở ra não ruột:
- Tao thề tao sẽ không thèm sống lâu đâu. Tao thích chết đẹp hơn là sống già. Sống thêm nữa để mà điên như Katrina thì thẹn chết được.
Henrietta chẩu môi:
- Để coi, bây giờ thì mày nói vậy nhưng đến lúc già đi thì mày sẽ lại thấy tiếc đời, thấy thèm sống như lúc trẻ thèm yêu vậy... Và nếu mày đã điên như Katrina này thì còn biết gì đâu, cũng còn đẹp đẽ gì nữa đâu mà thẹn. Nhưng em ơi, cứ tin tao đi, mày mà cứ chui ra chui vào mấy cái Nursing Home này thì mày sẽ không phải sống lâu đâu. Mày sẽ chết vào khoảng... à à... coi nào, khoảng 50 tuổi như bà hoàng Grace vậy nhé. OK? Lúc đó thì mày cũng vẫn còn khá đẹp, với điều kiện là phải chịu khó nhịn ăn chứ đừng để quá khổ như bà Beth vậy. Ngoài thằng chồng mày ra sẽ còn biết bao nhiêu là người đến nhỏ lệ tiếc thương, biết bao nhiêu là hoa hồng trên mộ... Ô đẹp biết mấy, ngậm cười nơi chín suối nhé!
Biết Grace lãng mạn nên Henrietta vẫn cứ thêu dệt đủ mọi thứ chuyện trời trăng mây nước ra để chọc cho khuây khỏa những đêm dài, cũng như nó vẫn kể chuyện ma để dọa Sandy yếu bóng vía, còn Chi thì dấu kín cả cái lãng mạn lẫn cái yếu đuối để Henrietta không thể bước được vào thế giới rất Việt Nam của nàng nên nó để Chi được yên thân mà cười góp trước những câu chuyện của nó. Dù vậy, thỉnh thoảng Henrietta cũng nói được những câu khá hay ho, chẳng hạn như nó tuyên bố, tất cả chúng ta đều là những kẻ cao cả thầm lặng, vì nếu không cao cả, không yêu nghề thì không ai có thể ở lại nơi này quá một đêm. Chỉ khác là mỗi người có người có một cách, một lý do yêu khác nhau mà thôi, thí dụ như con Grace yêu nghề chỉ vì hồi High School nó lỡ đọc phải cái truyện Doctor Jivago. “Còn mày thì mày yêu ai, Henrie?” Grace hất mặt. “Tao hả? Tao yêu... Katrina”. Đêm nay Henrietta lại lập lại câu ấy. Nó vừa nói yêu Katrina theo cái điệp khúc có quãng ngắt của mụ, tựa như Chi nói chuyện với Sylvia bằng thứ ngôn ngữ bập bẹ, vừa chận thêm gối kín mít quanh giường Katrina. Không vùng vẫy được nữa, Katrina vẫn cố trườn mình lên một chút, đưa đầu lên cao khỏi chiếc gối, giương đôi mắt điên dại lên nhìn cả ba, miệng rì rầm những điệp khúc đang đến hồi nhỏ dần nhỏ dần của mụ. Henrietta rót cho mụ một ly nước lạnh để trên bàn, sát tầm tay mụ:
- Để mụ giải khát chút, Katrina, đêm nay mụ hát hơi nhiều rồi.
Grace kêu lên:
- Mày cho mụ uống rồi cất ly đi Henrie, để đó mụ hất đổ hết đấy.
- Mày cho mụ uống đi, mụ không ưa tao đâu. Rồi cho mụ uống thuốc luôn đi. Lúc nãy mày cho mụ uống Navane chưa?...
Katrina ngoan ngoãn uống ừng ực từng ngụm nước như một đứa trẻ khát sữa sau cơn khóc dỗi. Uống xong mụ đẩy cái ly ra, cầm lấy tay Grace:
- Thank... you... thank... y... oú... oú...
Chi phì cười nhìn cái miệng rụng trơ hết răng nói líu ríu của mụ. Giọng mụ có lúc nghe eo éo như tiếng một con mèo, có lúc lại cà kíu cà kíu như tiếng một con ngỗng. Henrietta nhăn nhó:
- Coi điên điên vậy mà cũng còn lịch sự gớm. Vật lộn cho chán chê rồi đi cám ơn.
Katrina không cựa quậy, cũng không rầm rì nữa, mụ chắp hai bàn tay lại, gối sau gáy, mắt nhìn thẳng lên trần nhà như bắt đầu suy nghĩ xa xôi gì đó. Với kiểu gối tay như thế, mụ có cái vẻ trầm tư của một triết gia đang suy nghĩ về lẽ khổ đau của kiếp con người. Rõ ràng hơn nữa. Chi thấy mụ giống hệt như Simone de Beauvoir trong một bức ảnh mà Chi đã phóng lớn treo trước bàn học vào những năm trước 75, cái thuở mà cô bé Chi mới chập chững nhìn vào thế giới văn chương cũng như nhìn vào cả cuộc đời bằng đôi mắt của một cô bé Alice nhìn vào thế giới lạ kỳ. Thật khá khôi hài khi dẫn trí nhớ đi từ một mụ già điên đến một nhà tư tưởng, dù cả hai cùng là đàn bà và cùng sống già như nhau, nhưng đây là một sự giống nhau rất rõ ràng, rất sắc nét chứ không phải chỉ là một sự liên tưởng tới giọng con mèo hay giọng con ngỗng như Henrietta vẫn nói, có lẽ trong đầu mày có cả một vườn bách thú hả Chi. Cũng có đêm, với cái vẻ trầm tư rất de Beauvoir đó, không chịu thay áo quần, không chịu lên giường ngủ, cũng không cho tắt đèn, Katrina ngồi ở chiếc ghế bành kê sát cửa sổ, hai tay khoanh trước ngực. Cứ như thế mụ ngồi yên lặng suốt đêm, mắt đăm đăm nhìn ra cửa sổ. Đó là một đêm không trăng sao và sương mù dầy đặc, những ngọn đèn đường phía xa ngoài hàng cây chung quanh viện soi ánh sáng yếu ớt thành những vòng tròn giữa bầu sương mù như vòm hào quang trên đầu những thiên thần nhỏ trong những bức tranh mùa đông. Grace, Julie và rồi cả bà Beth thay nhau vào tắt đèn, dỗ mụ lên giường ngủ, mụ rên lên một cách sầu thảm: “Để tao... yên... ên... Để... ta... ao yê... ên... Tao cần... ánh sá... áng... “
Không thể cho mụ uống thêm thuốc ngủ, và hai roommates của mụ, mụ Trudy và mụ Joanna cũng đã đi vào giai đoạn cuối của Alzheimer’s Disease thỉnh thoảng chỉ cựa mình mở mắt ngó trừng trừng ngây dại rồi lại vùi đầu ngủ tiếp không than phiền gì nên cuối cùng Katrina được để ngồi yên trong ánh sáng chói gắt của cả ba ngọn đèn phòng ngủ cùng bật, mắt đăm đăm nhìn ra ngoài bầu trời đêm đặc quánh sương mù. Đêm ấy trực bên Station 2, nhưng chốc một Chi lại chạy sang nhìn mụ, nhìn cái vẻ trầm tư kỳ lạ bất ngờ ấy. Chi cố tưởng tượng ra những thay đổi của từng tế bào não, từng vùng trí nhớ trở về, từng hình ảnh cũ đang gõ cửa. Những hình ảnh giống như những con rối hay những bóng ma trơi của cả quãng đời dài đặc đang kéo về nhảy múa trong cái mịt mờ của trí nhớ đã đen kịt sương mù, thảng hoặc vỡ ra những đốm sáng như những vòm hào quang trên đầu các thiên thần nhỏ trong tranh vẽ đêm mùa đông. Những đốm sáng vỡ ra, vỡ ra, bộ óc già chết như một chiếc hộp đậy kín vỡ ra... Tao cần... sá... áng... Tao cần ánh... sáng... Katrina là loại lãng trí hiền, chỉ lên cơn định kỳ vào những đêm trăng, thỉnh thoảng vào những đêm thời tiết đổi, ngoài ra bình thường mụ không phá phách gì, sức khỏe mụ cũng được tạm coi là khá. Chân mụ còn khỏe mạnh đi đứng vững vàng không run rẩy, không cần tới xe lăn nên mụ thích được thả tự do cho lần mò đi khắp từ hành lang này sang hành lang khác, miệng líu ríu những điệp khúc quen thuộc với tất cả mọi người và không với ai cả. Mụ có thể tự đi vào toilet một mình khi cần, không đợi ai dẫn dắt hay nhắc nhở, nhưng sau đó thì phải có người vào lôi mụ ra vì mụ thường lấy cớ phải rửa tay sau khi tiêu tiểu để mở nước xối xả rồi kéo cuộn giấy lau tay xuống bịt lấy vòi nước. Những lúc không có ai để ý, mụ đã xổ hết tất cả các cuộn giấy có sẵn trong toilet ra cho cái trò nghịch nước của mụ. Không rõ vì lý do thầm kín nào, mụ thường lần mò xuống dãy phòng đàn ông, đứng ngẩn ngơ từng hồi từ phòng này sang phòng khác rồi đến đúng giường lão Roger, rờ rẫm hai chân lão, có khi tốc hết chăn mền lão ra, miệng ú ớ vui mừng như gặp lại được người yêu cũ. Roger thì lại là một lão già tỉnh táo, bị phỏng toàn thân trong một vụ cháy tám năm về trước. Lão nằm bẹp trên giường gần như suốt ngày, từ chối một cách cương quyết mọi khuyên nhủ ngồi dậy đi đứng tập luyện tay chân, một phần vì cái catheter đeo lằng nhằng bên mình, một phần vì cái mặc cảm triền miên không muốn ai trông thấy bộ mặt và những phần thân thể mà quần áo không che dấu hết để lộ ra những dấu vết phỏng khủng khiếp. Lão nổi giận quả quyết rằng lão không quen biết nợ nần gì với Katrina bao giờ và hét lên khi thấy bóng mụ lảng vảng ngoài cửa, dù bình thường lão câm nín như một bóng ma không muốn gặp gỡ người trần. Roger đặc biệt yêu mến Chi, lão biết những giờ Chi sẽ vào thăm lão mỗi đêm để kéo dây bật sáng ngọn đèn đầu đường mỗi khi nàng bước vào: “Hi, sweetheart,” để Chi đến bên hỏi thăm lão, đặt tay lên trán lão, kéo lại tấm chăn, sửa lại chiếc gối, rót đầy ly nước cho lão uống thuốc, những điều lặt vặt cần thiết mà Chi biết rõ ý nghĩa của nó và nàng làm với tất cả nỗi buồn rầu dịu dàng như thể nàng đang phải làm cho chính mình. Những điều cần thiết không hẳn chỉ vì tấm chăn lão rơi, chiếc gối lão lệch hay ly nước lão cạn mà là để thỏa mãn cái nhu cầu muôn thuở của con người, cái nhu cầu càng về cuối đời càng đau đớn thiết tha là muốn được an ủi, được chăm nom săn sóc yêu thương. Sau đó thì lão lại tự tay tắt đèn nhắm mắt ngủ lại sau khi nắm tay Chi, thì thầm: “Good night, sweetheart,” và miệng còn hé cười, cái nụ cười êm hóa ra buồn rầu trên khuôn mặt sần sùi dúm dó. Đêm nào phiền hà lắm lão mới than phiền, hoặc một vùng bed sores nào đó mới thấy sau lưng làm lão nhức nhối, hoặc lão Hills rên rỉ, lão Monpavio lải nhải từ đầu hôm làm lão không ngủ được, hoặc Laundry Room ban sáng để lộn đâu mất của lão chiếc quần tây, hoặc có khi, đêm nay Chi mặc áo mới phải không Chi?
Phải mất một thời gian khá lâu Chi mới làm quen được với khuôn mặt kinh dị của lão, làm quen được với chữ sweetheart thốt ra từ đôi môi hơi kéo xệch qua một bên vì một đường may dài bên mép trái, làm quen được với một điều dường như là một tình yêu vô vọng và vĩnh cửu đối với một hình bóng nào đó đến từ những năm tháng thanh xuân của cuộc đời lão. Lâu dần Chi cũng đem lòng ân cần với lão hơn với các lão già khác, và dĩ nhiên, hơn là với lão Monpavio, và rồi cũng phải giải thích với con mắt soi mói của Henrietta, với cái người yêu mến mình thì tự nhiên là mình cũng phải yêu mến lại, không nhiều thì ít chứ, dễ hiểu thôi mà Henrie. Một đêm Chi giật mình hốt hoảng vì đèn phòng lão bật sáng và tiếng lão hét dữ dội vọng lên. Katrina đã lần đến bên giường, tốc hết chăn mền đắp trên người lão ra và mò mẫm thế nào nắm được sợi dây dẫn với cái Catheter kéo mạnh. Sợi dây tuột ra, nước tiểu chảy tung toé trên chăn nệm. Roger hét lên giận dữ và đau đớn, lão chồm dậy chụp lấy cổ tay Katrina nghiến răng vặn bằng hết sức bình sinh. Lúc Chi chạy vào thì lão đã xô được Katrina ngã ngồi xuống đất, mụ ôm lấy cổ tay kêu khóc ầm ĩ... Tao... ao thương nó... Sa... ao nó không thương tao... ao... Vừa hốt hoảng lại vừa buồn cười, Chi đẩy mụ ra cho Henrietta và Grace dẫn đi, mụ cứ ôm lấy cổ tay mà kêu khóc ầm ĩ hàng giờ sau đó. Cái điệp khúc trầm bổng ai oán như một người bị tình phụ vọng giữa đêm khuya nghe não nề da diết. Lão Roger thì làm Chi bận bịu gần hết đêm đó, không hẳn vì đau mà vì cơn giận dữ kích động, lão lên cơn sốt từ khoảng ba giờ sáng đến chiều hôm sau mới hạ. Lão lập đi lập lại rằng Katrina mà còn mò đến phòng lão lần nữa, lão sẽ giết mụ. Chi bật cười, vỗ về:
- Lão nên tha thứ cho Katrina, Roger ạ, vì mụ thương lão mà. Đừng có giận dữ quá với người đàn bà đã nặng lòng vì mình chứ.
Roger nhún vai:
- Nhưng tao không muốn thấy mặt nó, tao không muốn nó thương tao. Tao không muốn nó... tao muốn... mày thôi... Chi...
Chi khẽ lùi lại một bước:
- Ồ, sao lão lại không thương Katrina được? Lão chê mụ già hả? Rồi tôi cũng sẽ già vậy, có ai trẻ mãi được đâu. Đến lúc đó biết đâu trông tôi còn tệ hơn cả Katrina nữa thì sao?
- Không đâu Chi, không bao giờ đâu, Chi sẽ không bao giờ xấu xí vô duyên như Katrina đâu, và tao cũng sẽ không bao giờ được thấy mày già đâu... Tao sắp chết rồi. Tao sẽ mang theo hình ảnh trẻ đẹp dịu dàng của mày ngày hôm nay cho đến khi tao chết, cũng như tao vẫn nhớ hình ảnh của người vợ đầu tiên chết lúc vừa hai mươi tuổi của tao. Hồi đó tao mới có hai mươi bốn tuổi. Tao chỉ gặp nó có một lần là yêu ngay. Nó nhỏ bé, dịu dàng và dễ thương như mày bây giờ... Chi...
Dù yêu mến Roger, dù vẫn tự nhủ mình có bổn phận phải an ủi lão, Chi vẫn không thể nấn ná lại bên giường lão lâu hơn những khi lão bắt đầu kể lể. Cả thực tại, cả dĩ vãng, cả cuộc đời Roger không có mặt ở đây, trong cái không gian màu trắng tinh sạch lạnh lẽo vây phủ bốn bề này mà là có mặt ở bên ngoài cửa sổ, phía những tiếng chim kêu, tiếng xe chạy, tiếng rì rầm huyên náo của cuộc đời mà những hàng cây và mấy lớp tường trắng không ngăn được hết. Roger vẫn kể lể với Chi hàng giờ về người vợ trẻ yểu mệnh ngày xa xưa của lão, một người con gái gốc Ý, mắt đen và tóc đen như Chi, một người dáng thanh tú mảnh mai như một cây hoa đào nhỏ mùa xuân đứng trên đỉnh ngọn đồi. Có lẽ ngày xưa lão cũng làm thơ… Tao sắp chết rồi... Tao sắp chết rồi... Những lời lẽ thê thiết của lão dội vào tai Chi, lùng bùng trong đầu làm nàng đến một lúc có cảm tưởng như mình cũng sắp chết mất. Nàng cũng đang nằm bệnh, đang đếm đang đo đang đọc được tên của cái chết dần mòn từng phần thân thể, từng phần giác quan tế bào. Cái chết đang chiếm đoạt dần, đang bước tới dần, tới thật chậm bằng những bước chân chắc nịch lên trên óc não. Cái thảm thiết của lão Roger không phải ở chỗ đau đớn, vì những vết thương của lão đã lành từ lâu, mà là ở chỗ lão không phải chờ đợi một điều gì ngoài cái chết, và lão đã chờ quá lâu, trong một trạng thái tỉnh táo đáng sợ. Dường như có một lần lão đã nói với Katrina, như thể tâm sự, rằng lão thèm có cái nhanh nhẹn và sự điên dại của mụ. Katrina, kỳ diệu thay, cũng bắt được rất nhanh những tín hiệu của một cõi lòng vừa thoáng mở, và mụ đeo riết lão từ đó. Còn Roger thì lại xoay ra đóng cái vai tuồng của một chàng Trương Chi mặt mũi kinh dị nhưng mải miết yêu bóng hình yêu kiều của một Mỵ Nương nào đó cho đến khi mang xuống tuyền đài. Đầu óc càng tỉnh táo thì quá khứ vây quanh lại càng dầy đặc, hỗn độn mớ kỷ niệm dày vò của yêu ghét hận thù, của ân oán say mê. Cả một cuộc đời lãng đãng ở chung quanh như những bóng ma kêu gào được sống lại. Thật sự, Chi nghĩ, đến cái lúc phải vào nằm bệnh ở đây thì những kẻ mất trí như Katrina vẫn dễ chịu hơn vì không có gì đáng sợ hơn cho bằng tỉnh giữa những người điên, giữa những khối thịt lăn lộn câm lặng. Cái chết cảm được và đếm được như hơi thở ngày một mòn mỏi, trí óc mỗi ngày một váng vất những giấc hôn mê, mắt nhìn mỗi ngày một nhòe nhoẹt những hình dáng người qua lại, tiếng nói lao xao... Những chiếc giường trống rồi đầy, đầy rồi trống, người ta theo nhau chết, theo nhau rụng xuống giản dị như lá mùa thu theo nhau rụng từng cơn xuống đất để mùa sau chồi xanh mọc lại trên cành khô. Mỗi khi nghĩ đến những điều đó Chi lại thấy sợ hãi, thấy tê liệt hết một vùng nữa trong óc não, thấy những tế bào trong cơ thể đang già đi theo từng phút giây. Thấy muốn chết ngay bây giờ, ngay bây giờ chứ không đợi đến cái chết năm mươi tuổi như Henrietta vừa vẽ ra cho Grace có hoa hồng và nước mắt rơi trên mộ. Đêm ở đây thật sự đã đắp chồng chất lên thêm cho lòng Chi những nấm mộ không hương khói. Chi lại nghĩ tới những điều mà mọi người chung quanh đã nói về công việc mà nàng đang theo đuổi. Thật là một cái ngành rất hợp với cõi lòng đầy mộ chí của em. Ờ nói như vậy thì em phải làm nghề tống táng, đại lý tô bia mới phải chứ. Cần gì, vì em đâu thích quẳng người xuống huyệt, em chỉ thích đặt tay lên những trái tim thoi thóp thôi mà, phải không? Mười mấy năm đã qua rồi mà em vẫn còn yêu cầu chuyện Những-người-áo-trắng hay sao? Ôi cái câu chuyện đã làm mềm lòng những cô bé ngây thơ ôm mộng cứu chuộc cuộc đời biết mấy... Chi bước tới kéo màn cửa, vịn tay lên chốt cửa kính toan tìm chút hơi lạnh nửa đêm ở bên ngoài, chợt khựng người nhìn cái bóng trắng toát của mình đột ngột hiện ra trên mặt kính. Tóc tai mặt mũi này, những người áo trắng này, mười một năm đã qua rồi. Bao nhiêu năm nữa thì mình sẽ vào đây, không phải để đếm đêm đi qua những cánh cửa phòng này, lắng nghe những nhịp tim thoi thóp này mà là để nằm trên chính những chiếc giường kia, sống giữa những cơn mộng du trở lại cuộc đời những đêm thâu tràn dãi hay ngủ những giấc ngủ triền miên của những thân xác không tiếng than?
Ở ngoài kia, trăng treo cao ngất trên đỉnh ngọn cây, trời trong và xanh đục những sương mù. Ánh sáng vàng như thấm lạnh đến từng chân tóc. Trăng đầy. Trăng cũ. Một đàn con trai rủ đàn con gái ra ngồi nhìn trăng…
Tiếng kim đồng hồ nhích từng giây gõ vào đêm. Gõ vào đầu. Những tế bào già đi theo từng sát na. Chi chợt nghe người rờn rợn như muốn lên cơn sốt. Ở dưới đường phố, một chiếc xe vừa lao vút qua, tiếng bánh xe nghiến rợn trên đường nhựa đánh thức một con chim ngủ đâu đó giữa những lùm cây bên cửa sổ kêu lên thảng thốt như tiếng trẻ con khóc giật mình. Giữa những tiếng động ấy là tiếng nấc của mụ Edna nghe rõ mồn một từng chập từng chập. Mụ này có cái tật mỗi lần thấy mụ May cùng phòng có con cháu đến thăm lại quay mặt vào tường khóc nức nở không cách gì dỗ được, và bao giờ cũng vậy, trận khóc ban ngày kéo theo những cơn nấc dỗi từng chập ban đêm nghe như nghẹt thở. Ánh trăng, theo tay kéo màn cửa của Chi, lùa vào phòng dọi trên khuôn mặt quắt queo như gẫy gục xuống ngực của mụ Trina, cái miệng há hốc không răng thở phì phò như một cái hang gió lùa của mụ Amy. Con búp bê gẫy tay của mụ Carla nằm lăn dưới chân giường giữa vùng ánh sáng của ánh trăng, cái miệng nó ngoác cười đến tận mang tai trông như mặt một con quỉ nhỏ.
Chi bất giác đứng dừng lại ở một phòng mà nàng vừa nhận ra là có đến hai giường trống. Nàng bước vào nhìn đăm đăm hai chiếc giường đã được làm sạch trải phẳng phiu để chờ đón những con bệnh mới, tự nhiên cảm thấy như nghẹt thở. Ai vừa mất vậy? Những cái tên lùng bùng trong đầu. Những khuôn mặt xác chết y hệt như nhau ở mức độ già nua và sầu thảm. Marian. Barbara. Joanna. Những khuôn mặt da trắng khi tắt thở lại càng trắng bệt như vôi. Tiếng Henrietta gọi ơi ới ở ngoài đầu hành lang kéo Chi ra khỏi cơn nghẹt thở lùng bùng đầu óc. Chi kéo nhanh màn cửa, quay vào gọi nó:
- Henrie, Henrie, lại đây...
Henrietta quay lại theo tiếng Chi, đứng dừng trên ngưỡng cửa, bóng nó đổ thành một vệt dài cắt khoảng trăng chiếu mờ trên tường ra làm đôi:
- Gì vậy?
Chi chỉ tay về hai chiếc giường trống:
- Tao nghĩ hoài không ra tên hai mụ nằm đây... Tao nhớ cả hai còn khá lắm mà.
Henrietta trừng mắt:
- Mày có mê ngủ hay không? Mụ Janette đổi qua Station 1 hôm qua, còn mụ Louise thì chết ngay trong Beauty Room trong lúc đang uốn lại mớ tóc đỏ để mừng sinh nhật thứ 83 sáng này; mày vừa mới nghe report đây mà, quên rồi à? Mày làm sao vậy?
Chi thừ người:
- Không biết nữa... Không hiểu sao tao nghe nói Louise này mà cứ nghĩ đến Louise ở phòng bên kia...
Henrietta tỏ ra rất quen thuộc với những cơn lơ đãng bần thần của Chi, nó tiến tới, tát nhẹ vào một bên, rồi cả hai bên má Chi, riễu cợt:
- Tỉnh chưa em? Thôi dù sao mụ cũng chết rồi, để lát nữa khóc cũng được. Bây giờ nghe tao hỏi đây. Mày thấy mụ Gloria của tao đâu không?
Chi không bỏ lỡ cơ hội lên giọng lại:
- Mụ ngủ gục bên TV Room chứ đâu. Mày sang đó thì biết
Henrietta khoát tay:
- Mày đi với tao đi.
Chi nheo mắt:
- Mày... sợ ma à?
Henrietta lại chồm tới, chĩa những móng tay sơn móng đỏ trước mặt Chi:
- Mày lộn rồi, tao chứ đâu phải con Sandy, tao thì trị cả người lẫn ma. Tao chỉ e mình tao lôi mụ Gloria về phòng thì hơi khó vậy thôi. Có đi hay không thì bảo?
Chiếc TV lớn ở phòng TV vẫn còn mở với âm thanh vừa đủ một người nghe. Mụ Gloria kéo ghế ngồi gần như sát với khung kính màn ảnh nhỏ, gục đầu vào thành ghế thở nặng nhọc, cặp kính trễ xuống sống mũi khoằm, một giòng nước dãi chảy chảy từ bên mép xuống đọng lại ở một ngấn trũng của chiếc cổ da nhăn nhúm, Henrietta lay nhẹ vai Gloria:
- Gloria, Gloria, dậy đi thôi... Đêm nào mụ cũng ngủ gục ngoài này vậy sao? Nào, Gloria, về phòng nào, khuya lắm rồi... Oh, sao hôm nay mụ mặc cái áo đẹp thế này...
Gloria cựa mình ậm ừ rồi lại gục đầu xuống ngủ tiếp. Henrietta gỡ cặp kính cũ vàng ệch buộc dây lòng thòng bỏ vào túi áo mụ rồi xốc nách mụ dậy. Gloria bước lê theo Henrietta và Chi, lúc thì ngả đầu vào vai nàng, lúc thì đổ sang bên Henrietta, đôi slipper cũ bay hết lớp nhung mịn trên đầu mũi kêu lẹp xẹp theo bước chân mụ. Gloria là một trong những bệnh nhân lâu đời nhất ở đây, mụ được đưa vào đây từ mười hai năm về trước. Hồi ấy mụ còn rất khỏe mạnh, chẳng cần đến ai săn sóc và cũng không muốn bị săn sóc, ít khi nào mụ chịu ở yên trong phòng. Suốt ngày mụ quanh quẩn ngoài phòng ăn, xếp đi xếp lại những cuốn sách trên kệ, tỉ mỉ lau từng chiếc lá của những chậu cây cảnh, vui vẻ giúp nhà bếp dọn bàn trong giờ ăn, xông xáo và hoạt bát nhất trong những buổi nói chuyện được tổ chức hàng ngày giữa các bệnh nhân... Nhưng theo thời gian, sức khỏe mụ suy yếu dần và từ khi Chi đến làm việc ở đây, nàng chỉ thấy mụ lủi thủi ngồi ngoài TV Room suốt ngày. Và cũng vì phải vào ở đây khá sớm nên trong tình thương, trong niềm mong nhớ mà mụ dành cho con cháu luôn luôn pha lẫn một nỗi buồn tủi vô biên. Lũ con cháu Gloria thì mỗi năm vào thăm mụ được khoảng ba lần, lễ Giáng Sinh, sinh nhật mụ, và Mother’s Day. Chúng mang vào cho mụ những gói quà buộc nơ xanh đỏ, những tấm thiệp, kẹo chocolate, phần gà tây và cây thông giả buộc đồ chơi lủng lẳng. Gà tây thừa mứa cộng với phần gà tây được dọn đặc biệt trong những ngày lễ ở đây thì mụ dúi cho tất cả mọi người chung quanh tầm tay mụ, kẹo chocolate thì mụ nhai suốt ngày đêm bằng tất cả niềm vui của một cô bé lên mười. Những gói quà, những dây nơ xanh đỏ bạc màu từ nhiều năm dồn lại được mụ xếp cẩn thận phẳng phiu để đầy chung quanh đầu giường. Cây thông nhỏ treo những đồ chơi giả ngớ ngẩn chỉ làm vui mắt trẻ con thì mụ giữ hết mùa đông sang đến mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, rồi mùa đông sang năm. Cho đến khi góc phòng và tủ dành cho mụ không còn đủ chỗ nữa, mụ mới tiếc rẻ đưa cho người con những cây cũ nhất, dặn đi dặn lại rằng phải đem về nhà, cất kỹ cho mụ ở trong một chiếc tủ nào đó. Bà con gái mụ cau có ôm những cây thông bụi bám ra khỏi phòng, vất ngay vào chiếc thùng rác bên hông hành lang. Mụ khóc rồi cười tíu tít, kể lể huyên thuyên những câu chuyện của ba, bốn tháng dồn lại để thỏa niềm hờn tủi nhớ mong, để cầm chân lũ con cháu ngồi lại thêm được phút nào hay phút nấy. Nhưng những câu chuyện huyên thuyên của mụ, cố gắng lắm thì cũng không đi xa hơn được cái không gian buồn rầu mà lũ con cháu mụ hết sức không muốn nghe nhiều hơn, thuốc men bệnh tật, bác sĩ, y tá, những bữa ăn hằng ngày, mụ già cùng phòng mới được đưa vào tháng trước hôm qua đã chết... Lũ con cháu, dường như yên tâm thấy mụ chưa chết, tự cảm thấy đã làm đủ bổn phận, bấm nhau ríu rít rút về. Lâu dần, có lẽ mụ cũng cảm thấy mình còn may mắn hơn nhiều người khác, những người không bao giờ có ai vào thăm, không bao giờ có cây thông giả để bày trên tủ ngoài những tấm thiệp của nhà thờ gửi tới cho mỗi bệnh nhân vào mùa Giáng Sinh kèm theo cuốn Kinh Thánh, và một vài tấm thiệp của những người thân còn sót lại trên cõi đời được gửi tới thảng hoặc mỗi năm vài lần mang con dấu những tiểu bang xa xôi nào đó. Những tấm thiệp màu mè, lời lẽ in sẵn, ký tên nghuệch ngoạc kèm theo một vài chữ vội vàng và máy móc đến nực cười... We love you, Think about you, Care about you, You are my love... Cho đến gần nửa năm nay thì cuộc sống hàng ngày của Gloria đã thay đổi hẳn. Người con rể mụ chết vì một tai nạn xe hơi, bà con gái đột nhiên trở thành góa bụa, trơ trọi vì những đứa con lớn đã bỏ đi xa. Bà này vào khoảng 50 tuổi, không còn đủ trẻ và đẹp để lấy được chồng khác, không đủ giàu để được tán tỉnh và bị allergy với chó mèo nên cuối cùng, bao nhiêu tình thương có dịp dồn lại hết cho người mẹ già. Có lẽ cho đến lúc ấy bà ta mới chia chung được hết nỗi buồn của cảnh già hiu quạnh, thấm thía được hết lẽ phù du của kiếp người. Bà ta vào thăm Gloria mỗi ngày một lần vào giờ ăn buổi trưa hoặc chiều, thường thì vào buổi chiều là cái giờ khắc mà người ta dễ cảm thấy âu sầu nhất trong ngày, đút thức ăn cho mụ, dắt mụ đi dạo quanh ngoài vườn, ngồi lại thủ thỉ với mụ cho đến khi trời tối. Cái cảnh hai mẹ con mà người con gái cũng đã xế bóng quanh quẩn san sẻ tình thương cho nhau trông rất dễ mủi lòng. Nhưng không may, cái cảnh êm đẹp mủi lòng ấy không kéo dài được lâu, người con gái Gloria lại không sống lâu bằng mụ. Bà ta chết sau một cơn đau tim ba tuần lễ trước. Các cháu Gloria quyết định không cho mụ hay vì để một mụ già 80 tuổi khóc con thì cũng chẳng có ích gì hơn là để mụ sống thêm được ngày nào hay ngày ấy trong niềm tin tưởng rằng con mụ còn sống ở đâu đây. Khoảng một tuần lễ sau khi tang lễ xong xuôi, một cô bé xinh đẹp mười sáu tuổi, con út của bà này, cháu ngoại Gloria, vào thăm mụ với một bó hoa màu tím. Cô ta nói mẹ cô bận đi thăm cách anh chị cô ở đâu đó trong ít lâu. Gloria không thắc mắc gì vì con hay cháu gì cũng thế, miễn là có người vào thăm để mụ tin rằng mụ còn được nghĩ tới là đủ. Dường như mụ còn có chiều hãnh diện khi nói với mọi người chung quanh rằng cô gái tươi trẻ xinh đẹp như một cây thông non kia chính là cháu mụ. Nhưng tiếc thay, cái tình thương của một cô bé mười sáu tuổi với bà ngoại già giống như một cơn mưa bóng mây tưới không đủ thấm vầng đất hạn và cái cảnh giới buồn rầu trong Nursing Home không giữ được cô bé quá ba buổi chiều mùa đông, là cái khoảng thời gian rộn ràng xao xuyến nhất của năm. Cô ta vừa mất cả cha lẫn mẹ thì lại càng có quyền đi tìm các nguồn an ủi khác chứ đâu có bổn phận phải trở thành nguồn an ủi của ai. Thế là từ sau ngày cô bé biến mất, mỗi ngày vào giờ ăn chiều, khi các con bệnh tương đối khỏe đã được đưa ra phòng ăn và các bệnh nặng nằm trên giường đã có khay ăn trước mặt, chỉ còn Gloria chống cái walker đứng lẻ loi tựa cửa phòng, mắt đăm đăm dõi về phía tít cuối dãy hành lang, nơi có cánh cửa ra vào dành cho khách thăm viếng. Tất cả mọi lời khuyên nhủ đều được mụ từ chối một cách buồn rầu: “Tao phải chờ con tao, cháu tao... Thế nào tụi nó cũng tới mà...” Cuối cùng, khi thức ăn đã nguội lạnh, nhịn mãi cũng đói, mụ lủi thủi ngồi xuống chiếc ghế của mụ, chiếc ghế trống dành cho người con gái kê sát bên cạnh. Hờ hững nhìn khay ăn được ân cần đưa tới trước mặt, mụ đẩy ra hết các phần thịt, rau, trứng... lóng cóng xúc từng muỗng cereals vào miệng, nuốt như nuốt phải độc dược, nước mắt trào ra từ hai khoé mắt lòa, chảy dài xuống khuôn mặt nhăn nhúm như một trái táo tàu khô. Trông mụ giống như một đứa bé đợi mãi không thấy mẹ về chợ để vòi quà, phải ngồi ăn một mình trong lẻ loi và hờn tủi. Quần áo của mụ, trong những tháng sau này, được người con gái đem về nhà giặt hàng tuần sau khi mua sắm cho mụ một loại mới, thải hết những quần áo cũ mà trong mười hai năm trời bà ta đã không quan tâm cho lắm. Bây giờ thì Laundry Room lại đảm nhận trở lại việc giặt giũ cho mụ như cũ, và chỉ cái việc phải ghi tên và số phòng vào mặt lưng trái những chiếc áo của mụ cũng làm Gloria ngồi kể lể hằng giờ với con gấu xám mà người con gái đem vào để bên gối mụ hồi lễ Tạ Ơn. Gloria héo hắt đi nhanh chóng như một cái cây vừa bị đốn gốc, mái tóc xám lơ thơ cũng vừa uốn lại hồi dịp lễ rụng tơi tả, mụ ngủ những giấc ngủ chập chờn cả đêm lẫn ngày. Có lẽ mụ không còn sống được bao lâu nữa. Nhưng mụ chết đi thì cũng chỉ có nghĩa là một hồ sơ nữa được đóng lại, ở đây, và cô bé xinh đẹp mười sáu tuổi kia không chắc sẽ nhỏ được một giọt lệ u buồn nào. Thời gian mà Gloria sống ở đây dài gần bằng tuổi đời cô ta, và có lẽ ở trong trí nhớ mới lớn của cô gái nhỏ ấy không giữ được một chút kỷ niệm nào về bà ngoại già. Cô ta cũng đã không được dạy cho về lòng yêu thương, tình hiếu thảo và bổn phận, không kịp thừa hưởng chút nào cái di sản tinh thần từ tình thương muộn màng mà mẹ cô ta đã đem đến cho Gloria những ngày cuối cùng của cuộc đời, nên bó hoa màu tím và một vài buổi chiều đến thăm mụ đối với cô ta chỉ có nghĩa là một trong những công việc phải làm sau khi mẹ mất. Sau đó, cây thông tươi non lại tiếp tục hối hả lăn vào cuộc đời, chờ đợi những mùa vui để Gloria, cây thông tàn úa trở về với góc phòng của mụ, sống tiếp phần đời của mụ cho đến khi thực sự chết đi.
Vốn tính hiền lành, buồn rầu và lặng lẽ, không trở tật trái chứng, nói năng lúc nào cũng như cầu khẩn van xin nên ai cũng thương mến Gloria, và bây giờ người ta chịu đựng những lời kể lể than trách rì rầm ngày đêm của mụ như chịu đựng một thứ kinh cầu nguyện. Một thứ kinh cầu nghe não nuột lê thê nhưng ai cũng cố nhủ mình phải nghe để cứu rỗi cho phần hồn mai sau. Cái mảnh linh hồn nhỏ nhoi lắt lay tội nghiệp như đốm lửa tàn cháy chẳng soi sáng được cho ai mà cho chính nỗi buồn rầu thảm thiết, cho lòng oán trách cuộc đời bội bạc vô tâm.
Gloria được đặt lên giường, quay úp mặt ngay xuống gối, đôi vai rung động theo một nhịp thở yếu ớt đứt quãng. Chi biết mụ chưa ngủ say, tần ngần không biết nên đứng lại hay bước ra ngay để tránh cơn khóc giật mình của mụ thì mụ đã chồm dậy, nắm lấy tay áo Henrietta đang đứng ngay bên đầu giường, ghì mạnh:
- Nancy, Nancy hả?... Sao con đi lâu quá vậy?... Mẹ chờ con lâu quá, Nancy...
Henrietta đưa mắt nhìn Chi, buông tay đứng sững, nhún vai cười nhưng mắt nó thì không. Chi nhẹ gỡ từng ngón tay Gloria ra, đặt duỗi cánh tay mụ xuống dưới lớp chăn, chận thêm hai chiếc gối hai bên đầu vì Gloria ngủ hay lăn lộn va đầu vào thành giường, đoạn kéo Henrietta bước ra, hi vọng mụ sẽ ngủ lại mau chóng với giấc mơ hiền lành có người con gái cuối đời cũng không hạnh phúc nên đem hết tình thương muộn màng về giành cho bà mẹ già trăm tuổi. Đi bên cạnh nàng, Henrietta thì thầm, giọng thật buồn, thật khẽ, Chi Chi, tao thấy Gloria đã quá già nua để phải sống thêm nữa, chờ đợi thêm nữa và mộng thêm nữa những giấc mộng đẹp buồn rầu như vậy.
Henrietta buông mình nặng nề xuống chiếc ghế dài, thuận chân đá luôn vào đùi Grace, bên mà chiếc vớ nylon đã rách xoạc từ lúc nãy:
- Sao, mày có định cởi vớ ra không hay là định mặc luôn đến sáng mai đây?
Grace ngước lên, lắc đầu:
- Tao cũng không biết nữa, cởi ra bây giờ thì lạnh chân, mà để đến sáng mai, trước mắt tất cả mọi người thì lại càng không ổn hơn nữa.
Henrietta đắc ý cười rộ lên:
- Tao đã nhắc mày nhiều lần rồi, cả con Chi nữa, những đứa cứ chuyên môn mặc váy đó. Đi làm ban đêm thì mặc quần cho nó tiện, lại ấm nữa, ai vào đây mà ngắm đùi mày đâu. Còn đã quen tật mặc váy thì lúc nào cũng phải mang sẵn một đôi panty hose nữa, một áo khoác nữa, để khỏi phải mò xuống Laundry Room mà giặt áo như con Sandy hôm nay vậy. Tao thì lúc nào cũng có sẵn cả một bộ uniform để ngoài xe, tiện lợi cho những khi cần thiết.
Grace toan nói gì đó, nhưng lại ngưng bặt, nghiêng đầu lắng nghe. Từ phía hành lang dẫn ra dãy phòng đàn ông, tiếng lão Monpavio vọng ra lồng lộng: “... Number one... Number one... Number one... “ Henrietta lại rũ ra cười:
- Đến lượt mày đó Chi. Lão cũng tử tế đấy chứ, lão đợi đến lúc tụi mình thong thả một chút rồi lão mới lên tiếng đấy.
Chi nhìn khuôn mặt bung ra như một bông hoa vì trận cười dòn của Henrietta, lại một lần nữa thấy thèm được cười hết miệng như nó, dù thật ra thì nụ cười hết miệng ấy cũng không làm Chi quên được ánh mắt buồn sững khi mụ Gloria nắm lấy tay áo mà gọi nó là Nancy lúc nãy. Và cũng rất nhanh, khi Chi liên tưởng tới đôi mắt buồn của nó, Henrietta vụt thở dài ảo não:
- Bây giờ tao lại đâm ra nhớ thằng Dick quá. Thật là điên mới không đi chơi với nó đêm nay để chui đầu vào đây nghe cái thứ moon language này... Oh... Dick...
Chi chận nó lại:
- Thôi đừng có giả bộ màu mè nữa Henrie, mày mà nhớ nhung gì thằng Dick, đừng có lôi tên nó ra mà gọi ầm ĩ ở đây, không át được giọng lão Monpavio đâu.
Grace tiếp:
- Lão Monpavio thì lão vẫn hét Number one đêm ngày mà. Đêm này thì lão chỉ hét lớn hơn chút đỉnh thôi. Mày đâu có lạ gì cái thứ Moon language của lão đâu mà vờ ngây thơ, Henrietta Lobster,... Oh... không, Henrietta Lopez...
Henrietta chụp cái ống nghe trên bàn ném luôn vào Grace. Grace nghiêng người chụp lấy, khúc khích cười. Henrietta cau có:
- Tao chẳng có ngây thơ gì, nhưng thỉnh thoảng chắc tao cũng ngây thơ hơn mày chút đỉnh vì tao sống đến đâu nghĩ đến đó, còn mày thì mày nghĩ trước và nghĩ nhiều hơn là sống, đôi khi tưởng tượng nhiều quá đi trước cả sự thật... Oh, tao không ưa những cái loại như mày... Ê Chi, mày có ưa cái loại như nó không?
Chi cười nụ:
- Mày có biết rằng khi mày nói như vậy là mày đang nói cả tao đấy không?
Henrietta ngồi dựng dậy nhìn Chi. Grace có thêm vây cánh, lại càng cười dòn hơn, vung cánh tay thon mượt lông măng vàng ném trả cái ống nghe lại cho Henrietta:
- Có thật là mày sống đến đâu nghĩ đến đó không? Hay là sống mà chẳng nghĩ quái gì hết? Oh, tao cũng chúa ghét những cái loại như mày...
- Loại tao thì sao? Loại tao thì sống tự nhiên thôi chứ sao. Cái loại khoác bên ngoài lớp thiên thần áo trắng như mày mới là đáng ngờ đấy.
Grace hứ lên:
- Mày làm như là mày không mặc áo trắng vậy!
- Nhưng tao la lớn cho mọi người biết là tao đen. Còn mày hả? Thí dụ nghe, lão Monpavio đó. Lão la Number one ít, tao khó chịu ít, lão la nhiều, tao khó chịu nhiều. Còn mày thì có quỉ biết được là lão dội vào trong đầu mày những gì. Bọn thục nữ ở thời này thì một là điên, hai là bệnh hoạn, ba là đạo đức giả, bốn là xấu đến nỗi không thằng nào thèm ngó tới. Mày không thuộc loại thứ tư, vậy thì chỉ có thể là một trong ba loại trên... Em ơi, mày làm tao nhớ tới Madonna, just like a virgin.
Grace đứng bật dậy, Chi tưởng nó sẽ nổi giận đến nơi, nhưng không, nó chỉ đỏ mặt, toan bước đi, rồi lại ngồi xuống, với tay lấy một tờ tạp chí, lật giở lơ đãng như thể không quan tâm tới câu chuyện với Henrietta nữa. Dáng nó nhỏ nhẹ buồn buồn, mái tóc vàng không cuốn chải thả hết về sau lưng, khuôn mặt nhìn nghiêng đẹp như một pho tượng trắng. Chi ưa nhìn cái vẻ dịu dàng của Grace mỗi khi nó cúi xuống giường bệnh nhân hỏi han bệnh tình, giọng nó ngọt ngào như mật, trong vắt như suối. Cái vẻ đẹp của thập niên 50 chứ không phải thập niên 80 như Henrietta, vậy mà hai đứa vẫn cứ chơi thân với nhau mới hay. Cảm thấy đã bắt đúng mạch Grace, Henrietta lại nhào tới ôm lấy con nhỏ như nó đã ôm Chi lúc nãy. Grace hất tay Henrietta ra, quay đầu về phía khác:
- Mày nói sai rồi Henrie. Nhưng thôi, bỏ chuyện cái lão mù đó đi.
- Bỏ sao được khi mà lão vẫn hét vang bốn bề kìa. Mày muốn nói tao nên nhét bông gòn vào tai hả?
Grace nhìn sang Chi:
- Mày nói đã có sẵn mấy cái urinal trên giường lão rồi phải không Chi?
- Ừ, cứ nghe tiếng lão thì biết mà. Lão hét theo một điệu đều đều chứ không khẩn cấp gì. Nếu tụi mày muốn thì tao sẽ... dán miệng lão lại cho, nhưng với điều kiện, nếu bà Beth mà thấy thì một trong hai đứa tụi mày phải nhận nghe.
Henrietta càu nhàu:
- Con Grace có muốn thì nhận, không có tao à. Trước sau tao vẫn không tán thành cái kiểu bà Beth không cho khép cửa các phòng ồn ào như phòng lão Monpavio lại. Để những đứa điên cứ hét lồng lộng như vậy thì ảnh hưởng tới những đứa tỉnh luôn chứ ích gì. Mỗi đứa một câu nghe phát điên lên được... - Tao không cột mày... - Sao mày cột ta... ao - Hàm răng tao đâu? ... Hàm răng tao đâu?... Number one... Number two... Ê Chi, tại sao mày lại chui vào cái nghề này? Ở xứ mày có những chuyện như vậy không?
Chi quay lại nhìn Henrietta, rồi quay nhìn đôi mắt trong vắt của Grace, đột nhiên thấy giọng mình trĩu xuống.
- Mày muốn biết hả, nghe tao đây. Suốt đời tao không biết đến chữ Nursing Home cho đến khi bước chân sang đây. Và tao không thể hình dung ra được Nursing Home như thế nào cho đến khi bước chân vào đây. Bà ngoại tao, bà nội tao đã sống nhọc nhằn suốt cả đời, mòn mỏi suốt cả đời vì loạn lạc, vì chiến tranh, vì đưa hết chồng đến con trai đi ra trận, nhưng đến lúc chết thì bà tao đã chết trong toại nguyện.
Cả Henrietta lẫn Grace cũng im lặng nhìn Chi, nàng tiếp:
- Vì bà tao đã chết giữa tình thương vây bọc chung quanh, vì cho đến giây phút cuối cùng, bà vẫn sống như một người có ích cho con cháu, vẫn là bài học của sự kiên nhẫn, lòng hi sinh, vẫn là hình ảnh tiêu biểu để hi vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.
Henrietta lắc đầu chồm tới Chi rồi lại bật trở ra, chiếc ghế dài như oằn oại dưới cử động nặng nề của thân hình nó:
- Làm sao người ta có thể sống được như thế khi người ta đã già mất rồi?
Chi lập lại từng tiếng:
- ... Người ta vẫn sống như thế, và người ta sẽ còn sống như thế...
Henrietta chợt cười khặc lên:
- Oh, oh, tao hiểu rồi. Tại vì ở xứ mày, người ta luôn luôn phải mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp hơn chứ gì? Còn ở đây, ở trên đất nước giàu có với một nền văn minh nhất thế giới này thì tụi tao đâu có cần phải mơ tưởng gì tới một tương lai nào khác nên cũng đâu cần phải ngã mũ chào quá khứ một cách quá ân cần làm chi. Cái tình thương yêu mà tụi mày dành cho ông bà cha mẹ, cho thế hệ trước chung qui chỉ có nghĩa là sự biến dạng đẹp đẽ của lòng thương xót về sự nhọc nhằn nghèo đói bệnh tật chiến tranh và chậm tiến mà đời họ đã phải trải qua thôi...
Chi cảm thấy rõ hai má mình đang nóng bừng lên, cơn giận dâng lên nghẹn cổ. Cơn giận mà nàng biết rằng đến một mức nào đó thì mớ ngôn ngữ của nàng sẽ không đủ để ném trả Henrietta. Rất nhanh, Chi muốn bật cười, đồng thời, kỳ quặc thay, nàng lại thấy thương xót cho Henrietta như chưa bao giờ thương xót nó đến thế. Chưa bao giờ Henrietta hiện ra dưới mắt nàng với đầy đủ tính chất Mỹ trong cuộc sống và cách nhìn cuộc đời như thế. Giọng Chi khàn lại, nàng lựa từng chữ một.
- Tội nghiệp mày, Henrie. Cách lý luận của mày không những tối tăm mà lại còn bội bạc nữa. Tao nhắc lại, đó là một sự bội bạc khi mày nói rằng tụi mày không cần phải mơ tới một tương lai nào khác nên cũng không cần phải ngã mũ chào quá khứ quá ân cần làm chi. Kế đó là một sự tối tăm vì mày không hiểu rằng đối với chúng tao, tình yêu thương dành cho cha mẹ già đặt trên căn bản thiêng liêng của huyết thống, của một nền tảng gia đình nó ràng buộc chặt chẽ từng người lại với nhau, như những mắt xích không rời, từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi. Nhưng nói cho cùng, mày cũng không có lỗi gì đâu Henrie, vì cả một xã hội mà mày đã sinh ra và lớn lên đã được tập thành như vậy mà. Và dường như là mày cũng không định có con làm gì cho mệt vì dẫu có nuôi nổi đến mười đứa rồi thì mày cũng phải chết già chết héo một mình ở đây như tất cả mọi người đang ở đây mà thôi. Ồ, Henrie, tụi mày đang tìm cách xóa bỏ đi càng nhiều càng hay những món nợ tinh thần, những mối dây ràng buộc đời trước với đời sau. Người ta đẩy con cái ra khỏi nhà rất sớm, nói là đẩy chúng tự làm ra tiền, tự hiểu giá trị của đồng tiền, tự rèn luyện tinh thần độc lập. Người ta cũng đẩy cha mẹ vào viện dưỡng lão rất sớm, nói là để họ được chăm sóc chu đáo, được sống trong môi trường thích hợp giữa những người đồng tuổi, được thoát khỏi phiền toái của cuộc đời bon chen. Đó là một sự man trá về tinh thần và là sự tự hủy về xã hội, mày có biết không, Henrietta?
Chi thở ra rất dài như một con cá bị ném ra khỏi mặt nước. Đúng hơn, như một con cá sống trong dòng sông bị cuốn trôi ra biển rộng. Với cái ý tưởng đó, nàng cựa quậy trong chiếc ghế như bị ngộp thở vì nước mặn. Đôi mắt Henrietta mở to nhìn nàng như không khép lại được nữa. Chi nghĩ, mặc nó, mặc nó. Nó có man trá hay tự hủy gì thì cũng mặc nó. Ai bảo mình trôi dạt đến đây làm gì. Chi nhắm mắt lại, lặng nghe cái cảm giác nóng ấm của những dòng nước mắt chảy vỗ về xuống má. Henrietta và Grace cũng im lặng. Chung quanh cả ba chỉ có tiếng hét đều đặn của lão Monpavio vọng lại và tiếng kim đồng hồ treo trên tường điểm từng tiếng tích tắc tích tắc. Tiếng chân của tử thần. Henrietta vẫn gọi thế, và Grace sửa là Tiếng thời gian, để nghe cho rõ đỡ sợ. Một lúc lâu, lâu lắm, Henrietta bước đến ngồi bên cạnh Chi, đặt tay lên nàng:
- Tao xin lỗi mày, Chi. Có lẽ... Tao chưa hiểu hết những điều mày nói đâu, nó làm tao mệt trí cũng y như là khi mày nói về tụi cộng sản ở nước mày vậy, nhưng tao cảm thấy là mày nói đúng và sau này tao sẽ hiểu nhiều hơn. Có lẽ mày nói cũng đúng nữa Grace, nhiều khi tao sống mà chẳng nghĩ gì cả. Tao không muốn nghĩ, thật đó, nó làm mệt óc quá...
Chi quay lại nhìn Henrietta, nhìn Grace, nhìn hai khuôn mặt thân thiết đã chia chung với nàng những đêm dài ở đấy. Những đêm dài rất dài, những giờ khắc khi tất cả mọi người, tất cả cuộc đời đều ngủ kỹ thì những nàng áo trắng điên rồ và cao cả này ở đây đi qua những cơn đau, nhìn xuống những nỗi buồn dài, thấm thía nỗi chết lặng lẽ vào tâm hồn, và rồi gây gổ nhau, giận hờn nhau, yêu mến nhau. Chi thấy mình mỉm cười, cảm giác ngộp thở biến mất. Grace vươn vai đứng dậy:
- Thôi, tao đi xuống phòng Monpavio đây, đêm nay mà nghe lão hét thêm nữa thì nhức đầu điên lên mất. Mày có đi với tao không Chi?
Chi nhìn đồng hồ tay, lắc đầu:
- Thôi, tao đợi hai mươi phút nữa xuống dãy C luôn thể. Mày coi lại sổ xem lão có còn thuốc không thì order thêm cho lão.
Grace với tay lấy chùm chìa khóa đi về phía tủ thuốc, mở ngăn thuốc của lão Monpavio ra rồi quay lại:
- Yên tâm, lão còn đủ thuốc uống cho đến... sang năm...
Henrietta tiếp luôn:
- Chỉ sợ lão không còn sống đến sang năm để mà uống thôi...
Grace nguýt Henrietta rồi bỏ đi vào Utility Room, một lát sau, lại có tiếng những cái thermometers lao xao trong tay nó. Grace có cái tật trẻ con một cách đáng yêu là chuyên môn dùng những cái thermometers thủy ngân để lấy nhiệt độ bệnh nhân. Không phải vì loại này chính xác hơn mà vì nó thích nghịch với hàng chục chiếc thermometer vừa dùng trong ngày được ngâm trong chiếc khay nhôm đổ ngập... alcohol, nghe vui tai như tiếng những chiếc khánh reo ngoài vườn cây trong những buổi chiều đầy gió, nó nói. Và y như Chi đoán, trong vườn nhà Grace có treo đến năm bảy chiếc khánh nghe lao xao ríu rít ngày đêm. Chi đã cười bảo nó, mày thật là một em gái Hoa Kỳ mà tâm hồn đầy tiếng chuông khánh nhã nhạc Đông phương, chắc tao phải tìm cho mày một chàng boyfriend Việt Nam, không thôi mày lại rơi vào một tay một anh quân tử Tàu nào đó thì thật uổng.
Henrietta vẫn ngồi bên cạnh Chi, dựa đầu vào thành ghế, nhỏm dậy nói với theo Grace:
- Ê, mày làm sao cho lão câm họng lại được mới hay. Bằng không thì đừng bày đặt êm ái, bày đặt lương tâm nghề nghiệp, mất công lắm nghe.
Grace không nói gì nữa, tiếng chân nó xa dần. Một lúc sau, lão Monpavio im bặt, có lẽ Grace đang nói năng gì đó. Được một lát, lão lại bật lên nói hàng tràng dài bằng tiếng mẹ đẻ. Thứ tiếng Ý có toàn vần O ở cuối âm phát ra từ cuống họng đặc sệt của lão nghe khục khặc khó chịu như tiếng một con vẹt chửi bới khách qua đường.
California, 1986
(*) thơ Hàn Mặc Tử, bản đánh máy của Phạm Thị Ngọc
[Xem tiếp phần 2]