Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.228
123.153.482
 
Giáo Sĩ 3
Trần Vũ

 

Louise Marie de Bourbon là người đàn bà thứ hai trong pháo đài nghe thấy tiếng chuông nhà thờ. Ngay tiếng chuông đầu tiên, dì phước đã biết đó là tiếng chuông ma quỷ. Tiếng chuông mênh mang đánh đi thật xa vang vọng đến mất hút rồi trở về co giật dạ con từng cơn của một cổ tử cung nào đó đang co thắt sinh nở. Tiếng chuông nức nở tựa tiếng khóc, đôi lúc gấp rút hối hả liên tục rồi chửng lại bất ngờ thành khoảng trống âm u. Giữa hai khoảng chuông chen tiếng rên la quái dị, nửa đau đớn, vừa thích thú khoái lạc của sự sống đang dẫy dụa cựa quậy trong tử cung một người đàn bà. Louise choàng ra khỏi giấc ngủ ác mộng. Dì phước cũng không hiểu vì đâu dì đã nghe ra trong tiếng chuông những hình ảnh quái thai ghê rợn. Tối qua, cho đến trước tiếng chuông, Louise đã chiêm bao thật đẹp. Hình ảnh đấng Christ hiển linh trở về đứng trước đầu giường thật đến nỗi Louise tưởng chừng chỉ cần đưa tay ra, nàng có thể chạm vào thân thể còn in vết gai, lỗ chỗ vết giáo đâm xuyên hông. Ánh mắt Giêsu buồn rười rượi, nỗi buồn nén lặng mà dì phước đã có lần trông thấy trong đôi mắt cha cố, thứ nỗi buồn tê tái, chín dại ruột gan không thành lời. Louise tỉnh giấc khi hình ảnh đấng Christ vỡ vụn bởi tiếng chuông. Tất cả thân thể Giêsu tan rã trong tiếng ngân nga, làm như quả chuông đánh vào đâu, mình thánh chúa vỡ tan đến đó. Louise vã mồ hôi. Ðã lâu Cao Bằng không có những trận nóng sáng hầm hơi thiêu đốt. Ðã lâu Louise không có những giấc ngủ khắc khoải ham muốn thầm kín. Từ rất lâu nàng không còn trông thấy lại cảnh Giêsu Christ  đứng ở đầu giường mình đưa tay giắt đưa vào cuộc đời nữ tu buồn chán. Lúc còn thiếu nữ, Louise đã trông thấy đấng Christ thường xuyên, sáng ngời hào quang, hằng đêm đón đưa, đều đặn mỗi tối, đến nỗi nàng không cần có bạn trai, chỉ cần đợi đến khuya, Giêsu hiện ra và nàng có thể tâm sự với Chúa thâu đêm.

   

Những ngày trước tiếng chuông, ở Cao Bằng, có tin đồn Giêsu Christ sống lại. Tin đồn vang rân khiến dì phước hoang mang, đến nỗi dì Louise phải xuống sở mật thám Pháp hỏi cho ra lẽ. Chính cố đại úy De La Marek, chánh phòng nhì Cao Bằng, viên sĩ quan đã từng si mê đeo đuổi dì phước suốt mấy năm, đã đưa cho Louise xem các phiếu tối mật ghi chép cùng một sự kiện. Từ hôm Ðồng Khê bị vây, giáo dân sinh sống dọc đường số 4 trông thấy một người đàn ông Trung Ðông tóc vàng đứng đón xe ở ngã ba Ðồng Ðăng. Người đàn ông thuộc chủng tộc Do Thái, mặc áo sô, đội mũ gai, có mái tóc dài toả chiếu tất cả nắng của buổi chiều. Mái tóc vàng kim óng ánh phát ánh sáng thay mặt trời và trong đôi mắt xanh chứa chan bình an của sự vật, mỗi khi nhìn về hướng nào, tất cả chim muông từ muôn phía bay xuyên suốt cây rừng về đậu nơi hướng ấy. Cả những quả mìn đắp mô cũng bật kíp lăn đến cạnh bầy chim vô hại. Các xóm đạo đã thay nhau đem thức ăn đặt dưới chân, nhưng trái cây không hề vơi, chỉ nhiều thêm và cũng không hề uá. Người đàn ông kiên nhẫn đợi xe dưới mưa suốt nhiều ngày mặc dù đường thuộc địa số 4 bị Việt Minh chốt chặn tắt nghẽn không còn xe qua lại. Ðến ngày thứ sáu, người đàn ông tóc vàng trạc ba mươi ba tuổi, đã khiến mưa bão chấm dứt bằng cách xua tan những cuộn mây đen. Nền trời trở nên trong vắt, xanh biển, cho phép các khu trục cơ P-39 King Cobra từ Hà Nội lên đánh bom giải toả áp lực Việt Minh. Ngày thứ bảy, người đàn ông áo trắng lên chuyến quân xa của binh đoàn tác chiến Le Page với bốn tiểu đoàn Tabors từ Lạng Sơn, vượt Kỳ Lừa đánh lên giải vây cho Ðồng Khê. Binh đoàn Le Page bị chận đánh ở Thất Khê, không một tiểu đoàn nào qua lọt đèo Lủng Phài. Ðiều kỳ quặc chiếc GMC bị phục kích tan nát ở khúc Ngườn Kim, xác tài xế và binh lính Marốc ngổn ngang nhưng vẫn tiếp tục chạy xuyên rừng núi cho đến tận Cao Bằng. Quân cảnh Lê Dương tìm thấy xác chiếc quân xa vất ở trước cửa chợ lồng thị xã với bốn bánh xe cháy đen đủi, còn bốc khói, nhưng không một dấu vết nào của đấng Kitô.

   

Louise tin chắc Giêsu đã đến Cao Bằng. Không phải ngẫu nhiên đấng Christ xuống thế gian làm người cứu chuộc nhân loại lần nữa giữa lúc pháo đài bị vây hãm và Việt Minh sắp tổng tấn công. Bằng bản năng nữ tu, Louise tin tưởng trong sâu kín, việc đấng Christ sống dậy liên quan mật thiết đến tiếng chuông ma quỷ của nhà thờ. Những ngày gần đây, dì phước không còn nhận ra cha cố, giáo sĩ đã thay đổi hoàn toàn, từ phục sức thanh lịch thơm tho, dáng dấp trẻ trung tươi mát, đến nụ cười thường khi héo hắt của đức cha cũng trở nên nồng thắm làm như có dính vết son môi. Giống có kẻ nào khác đội lốt cha cố, chỉ có thể là Satan, đã ngự trị nhà thờ. Hôm đến thăm cha De Rhodes, Louise đã lạ lẫm nhìn tượng Ðức Mẹ sáng lóng lánh được chùi rửa sơn phết cẩn thận, và đặc biệt có ai đã tỉ mỉ  trang điểm cô dâu cho gương mặt đức mẹ Maria bình thường không son phấn. Giác quan thứ sáu khiến Louise linh tính có sự hiện diện của một người đàn bà nào đó sinh sống trong nhà thờ mà cố đạo che dấu. Chỉ cần ngửi thoáng rèm nhung, dì phước cũng có thể đoán được mùi nước hoa đĩ thõa của một phụ nữ quyến rũ vừa bước qua, chưa khuất, còn đâu đó. 

   

Tiếng chuông vẫn đổ từng cơn khủng hoảng trộn lẫn những rên la gần như tiếng kêu đau trào mật của sản phụ đang sinh nở. Tiếng chuông bấu chặt tưởng chừng có thể rứt từng đường gân dưới chân tóc. Louise bước nhanh ra khỏi giường. Dì phước mặc vội áo tu, lúc đội khăn, không hiểu do đâu dì Louise nhìn ngắm mình kỹ hơn trong gương, mái tóc hung óng mượt cô bé Louise Marie đã cắt đi ngày quyết định bước chân vào sống vĩnh viễn giữa bốn bức tường đá đã mọc dài trở lại. Hai tháng nay, từ lúc các cô gái Mèo, sau khi làm tình với trung úy De Lattre nôn mửa rồi thụ thai, dì phước không ngớt phải đi thăm thai đến không còn thì giờ cắt tóc. Mái tóc hung óng lượn trong gương khiến Louise vụt thấy mình trẻ lại, còn nguyên vẹn thể xác xinh đẹp của thời con gái. Ðã biết bao lần, Louise nhìn lên tượng Chúa tự hỏi tại sao? Và cũng biết bao lần ngẩng đầu nhìn ngắm đấng Christ dang hai tay trong nỗi đớn đau cùng cực của thân xác, Louise đều bằng lòng với chọn lựa của chính mình. Trong sâu thẳm, dì phước yêu xót xa người đàn ông có gương mặt rất lành cùng khôi ngô tuấn tú chịu thương khó, cùng trong sâu kín tận đáy linh hồn, Louise không bao giờ quên cách nắm tay thân mật ấm áp, dìu dặt yêu thương, nhẹ nhàng của Giêsu khi bước chân vào phòng nàng hằng đêm thiết tha, khẩn nài nàng hiến dâng cho Chúa. Ngày đó, cô bé Louise Marie ngây thơ đã xiêu lòng cắt đi mái tóc hung như một thề ước.

   

Tiếng kêu rú kinh hãi của mẹ bề trên vang lên từ trong vách tường khiến Louise hốt hoảng đâm bổ sang phòng bên. Dì phước sửng sốt trước cảnh mẹ Thérèse đã trăm tuổi, bán thân bất toại, không còn đi đứng được đã có thể tự mình rời ghế lăn chui xuống gậm giường trốn tránh. Lúc dì phước cúi xuống, mẹ Thérèse chắp hai tay van vái những kẻ nào đó vụt thoáng hiện về trong trí não đã cũ kỹ, tưởng chừng đã tắt lịm chỉ còn ánh lên chút tinh anh từng lúc, từng chập mỗi khi Louise đút sữa cho mẹ ở mỗi bữa ăn. Chỉ trong giây khắc, dì phước nhận ra chính tiếng chuông quỷ ám đã xô đẩy mẹ bề trên vào tình trạng hổn loạn tâm thần. Chính tiếng chuông ma quái đã đánh thức những hình ảnh loã lồ cách đây tám mươi năm khi mẹ bề trên hãy còn là nữ truyền giáo thơ ngây cùng bước chân xuống chiến hạm l'Espingole với hải quân đại uý Francis Garnier và cùng rơi vào ổ phục kích của quân Cờ Ðen dưới chân Ô Cầu Giấy. Mẹ Thérèse trong những phút tỉnh táo hiếm hoi thường kể lại cảnh đại úy Garnier bị chém đứt đầu, cắt đứt hai bàn tay bày trên lòng đường trong lúc nữ truyền giáo trẻ bị Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Ðen bắt về hang động Hạ Long thay nhau hãm hiếp suốt chín ngày chín đêm, cho đến lúc đám giặc không còn sức ngất xỉu, và cô truyền giáo Thérèse đã trốn thoát đi bộ một trăm hai mươi cây số về đến Ô Quan Chưởng tá túc nhà lái buôn Jean Dupuis. Chính mẹ Thérèse cũng không hiểu làm sao mẹ đã có sức khoẻ để chịu đừng ngần ấy giặc Cờ Ðen, rồi đi bộ một mình không ăn uống, không ngơi nghỉ. Chỉ có thể giải thích nhờ đàn ông Á châu nhỏ người yếu sức, nhưng mẹ Thérèse vẫn tin tưởng chính nhờ ơn trên đã thêm sức cho mẹ đủ nghị lực vượt thoát. Chính niềm tin vào đấng tối cao đã khiến mẹ quyết tâm tu ở dòng Carmen cho đến ngày được giáo hội La Mã điều lên Cao Bằng rồi già nua bệnh tật.

   

Dì Louise cúi khom cố lôi mẹ ra khỏi gậm giường.

 

-  Em lậy anh Phúc !  

   

Mẹ Thérèse rên lên, không ngớt lập đi lập lại tên của người đàn ông da vàng thô bạo, nỗi ám ảnh kinh hoàng của mọi kiều dân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc, kẻ đã chém chết thiếu tá Rivière và đại úy Garnier mà Louise vẫn thường nghe nhắc. Không hiểu vì đâu, lúc đó, những hình ảnh vùi dập xâu xé hãm hiếp tập thể đang diễn ra trong đôi mắt khiếp hãi của mẹ Thérèse bình thường mù loà không còn ánh sáng, đã khiến dì phước vụt đỏ mặt. Louise vội vã bế mẹ lên ghế, đắp chăn bông, lấy khăn thấm nước mát đắp lên mặt, cố dỗ giấc cho mẹ thiu thiu ngủ trôi vào khoảng không hư vô, không thời gian, không tương lai, không thực tại.

   

Louise bước ra khỏi chủng viện khi trời hừng đông.

 

 

*

 

 

 

  

 

Ðó là buổi sáng Alexandre Lucien Abel de Rhodes chép trong nhật ký ba chữ La Tinh Aléa Jacta Est ! mang nghĩa định mệnh đã an bài mà những ai tham khảo thư khố toà thánh La Mã về sau, hãy còn nhận ra nét chữ thảo tài hoa, rắn rỏi vừa bay bướm của giáo sĩ. Nhật ký Hành Trình Truyền Giáo của De Rhodes sau này được xuất bản, chỉ bao gồm ba phần Goa, Xứ Ðàng Trong và Xứ Ðàng Ngoài, khởi đi từ năm 1619 khi ông gặp thiếu nữ có mái tóc đen và chấm dứt lúc ông rời An Nam vĩnh viễn. Những đoạn sau khi chết, chiếm 4/5 tập nhật ký, đặc biệt thời gian ở Cao Bằng hoàn toàn bị hội Thừa Sai dập xoá. Trong bản gốc, số đăng ký quốc hội Vatican, các chương ghi lại đời sống vợ chồng với Tuyết, chỉ còn mỗi ba chữ Aléa Jacta Est, các ký tự khác đều bị thuốc tẩy giặt trắng xoá loang lổ ố vàng. Những chữ li ti, chi chít, khi mất khi hiện, gần như được viết trên bụi mà nửa thế kỷ sau, chỉ những nhà văn am tường kỹ thuật hiện thực huyền ảo mới còn có thể chú giải.

   

Nhưng buổi sáng đó, Alexandre de Rhodes đã viết tăm tắp trong nhật ký, những sự kiện  dồn dập xẩy đến trong kiếp ma của kiếp đời ông. Từ ngày thiếu nữ thành Goa xuất hiện, đầy rẫy những hiện tượng mà De Rhodes không sao có thể giải thích. Từ những cánh buồm trắng Y Pha Nho lộng gió của các chiến thuyền cổ xưa trí súng đại bác đồng đen, không biết ở đâu trôi đến, thả neo ven sông Hiểm mỗi khi giáo sĩ xuống các xóm chài giảng kinh, đến những lần ra nhà sách Tôn Thọ Tường chầu chực đợi thu tiền sách, dù các chủ hiệu sách sau khi khấu trừ 50% hoa hồng vẫn ít khi sòng phẳng, De Rhodes đã rất ngạc nhiên chứng kiến cảnh những đoàn kỵ sĩ mũ nồi thập tự giá, rầm rập phi nước kiệu ngang qua phố chính thị xã. Tiếng hò reo của lũ trẻ An Nam vang dậy theo tiếng vó ngựa thập tự chinh vang lừng xuyên suốt khắp pháo đài đến nỗi, lính Lê Dương ở các trạm gác cũng ngỡ đã có quân viện từ chính quốc. Rất đông các sĩ quan Pháp đã tin tưởng lữ đoàn kỵ binh giáp sắt sẽ xuất hiện chống trả Việt Minh ngày Cao Bằng bị tấn công, chỉ cần cha cố rao giảng phúc âm ở tuyến đầu. Hiếm ai lúc đó không tin tưởng vào nhà thờ, như niềm tin chiến thắng cuối cùng.

   

Giáo sĩ cũng ghi chép cẩn thận giai đoạn ông gặp khủng hoảng, khi thiếu nữ thành Goa chưa bước chân ra khỏi cuốn tiểu thuyết An Nam. Thứ khủng hoảng oan nghiệt của một oan hồn, ngày cũng như đêm chui rúc trong các xó hốc, cho đến một hôm, quá tuyệt vọng ông đã treo cổ tự tử dưới đà ngang nhà thờ. Cha cố đã đau đớn dẫy dụa oằn oại hàng giờ, đã trông thấy chiếc lưỡi của ông dài ngoằn đến gối, đã đau đớn phạm điều răn đức chúa trời, nhưng ông không chết được. Sáng đó, dì Louise vào lễ, dâng hoa, đã hốt hoảng ngất xỉu trông thấy giáo sĩ treo cổ dưới tượng Chúa mặt mũi tím bầm và ruột phân lòng thòng trên đất. Ðại tá Charton đã phải cho lính bắt thang lên cắt dây thừng đỡ ông xuống, những lúc đó giáo sĩ ê chề xấu hổ và mang trong mình nỗi bất lực oan khiên của bóng ma. Sự sống không còn, cái chết chưa hết, nhưng con người không có một chút quyền tự do định đoạt phần số của chính mình, tất cả tùy thuộc thượng đế.

   

Cứ thế, cha cố ghi chép miên man, chỉ cần ông nhiễu một giọt mực, chữ sẽ đen đặc. Trong suốt nhật ký, trừ chương thành vợ chồng với Tuyết, mà giáo sĩ luôn đỏ mặt ngượng nghịu ít dám đọc lại, cha cố hài lòng hơn hết những chương đầu tiên khi ông mới đặt chân đến An Nam, còn mang trong mình sứ mệnh thiêng liêng cùng đức tin sáng thế ký. 

   

Khi đến Gia Ðịnh lần đầu tiên, De Rhodes đã biết ông đặt chân tới một vùng đất kỳ bí. Hơi nóng ngùn ngụt như thiêu, đốt liên tục suốt ngày sắc xanh hực gai góc của những cánh rừng trùng điệp ngút ngàn mà dù đứng xa ông vẫn nghe thấy tiếng trò chuyện râm ran của vạn vật. Tất cả thanh âm An Nam bật lên dưới nắng sức sống mãnh liệt hừng hực hắt dội lửa dâng lên khắp mặt đất, không chỗ nào không có tiếng nói, ngợp bóng người, như thể mỗi người đàn ông An Nam là một cây chuối xanh biết đi đứng, mỗi người đàn bà An Nam là một buồng chuối xum xuê quả. Mãi sau nhiều ngày De Rhodes mới hiểu do người An Nam chết yểu, chết sớm quá nhiều nên phải tận lực sinh sản. Và lý do tử tuất cao lẫn tiếng động không ngớt ầm ĩ, không ngơi nghỉ, từ sáng đến trưa, suốt chiều, đêm khuya cho đến thâu đêm, phát sinh ở thảm kịch sắc tộc Kinh thiếu chữ viết để ghi nhớ những chuyện cần nhớ. Tất cả dân bản xứ đều phải kể chuyện huyên thuyên, nói thật to, bất kể người đang ngủ cần yên tĩnh, để những điều cần nhớ được lập đi lập lại không dứt và truyền bá rộng rãi, cho phép những người đã quên có thể nhớ lại, và lưu truyền cho con cháu. Ðến mức nhiều gia trưởng lập đi lập lại lời trăn trối của tổ tiên cho đến khi tắt hơi qua đời, và kẻ thừa kế được dòng họ nuôi nấng chỉ để học thuộc bí kiếp gia truyền và lẩm nhẩm trả bài trước bàn thờ cho đến lúc kiệt sức và cứ thế con cháu thay nhau lập lại một suy nghĩ đã có từ nhiều ngàn năm trước. Ðến nỗi trong buổi giảng đầu, De Rhodes không sao truyền bá thánh kinh, vì những kẻ tò mò đến xem, không ngớt lập lại những điều gia đình căn dặn, để đừng quên, sau khi tan lễ phải ra chợ mua bao nhiêu lạng hành tỏi, gà, rau, đậu, mắm, và ghé đến nhà ai mời giỗ, thu họ, đóng hụi chết, bao nhiêu xâu tiền kẽm, khiến buổi ra mắt sách Cựu Ước thứ nhất của De Rhodes ồn ào như một chợ cá. Chính lúc đó De Rhodes quyết định ký âm thứ ngôn ngữ kỳ lạ lảnh lót như tiếng họa mi ríu rít, với mục đích giúp dân bản xứ có thể ghi chép những điều thường nhật cần nhớ, sẽ rảnh rỗi im lặng hơn khi nghe giảng kinh, và đặc biệt thôi lập lại những điều Thiên Tử ban truyền ngăn cấm giáo hội. Chỉ một thời gian ngắn, giáo sĩ nhận ra ông đã thành công. Từ khi có chữ viết, số tử vong vì kiệt sức giảm hẳn, sắc tộc Kinh thông tin cho nhau dễ dàng việc đồng áng, lúa gạo nhiều hơn, khiến thanh niên An Nam lớn nhanh như thổi, cao đến đầu gối, rồi đến bụng, cuối cùng đứng ngang tầm ngực ông, nhưng ngưng ở đó, vì dân bản xứ có truyền thống ăn rau sống với bánh tráng cuốn ruồi nhặng chấm nước dòi, đưa đến bệnh tiêu chảy triền miên làm teo tọp thân thể. Chính các Chúa Nguyễn thời đó cũng không sao ngăn cấm được thứ chữ do De Rhodes ký âm, vì rất ít ai đọc được các sắc chỉ dụ viết bằng tiếng Trung Hoa, nên không hiểu các Chúa muốn gì.    

   

De Rhodes cũng khám phá, sức mạnh của sắc tộc Kinh nằm trong những đứa trẻ, đông đúc chiếm hai phần ba dân số, một phần do những cụ già yểu thọ, một phần do phụ nữ An Nam mắn đẻ, chỉ cần ăn hơn một rổ khế chua đã có thể thụ thai. De Rhodes luôn luôn ngạc nhiên trước những đứa trẻ cực kỳ thông minh, linh hoạt, sinh động và gần như không bao giờ già đi, chỉ chết non vì chiến tranh. Giáo sĩ nhớ rõ, ông đã gặp một cậu bé khôi ngô, chỉ trong một tuần lễ đã dạy ông cách phát âm của mọi miền đất An Nam với tất cả thanh sắc. Cậu bé thông thạo mọi thứ, biết hết mọi chuyện, từ cách đổi tiền quan ra tiền kẽm, lãi thấp, đến cách thuê trâu giúp ông di chuyển, đến mọi thứ trái cây, đồ tế nhuyễn bản xứ. Chỉ trong một đêm cậu bé đọc vanh vách kê khai tất cả mọi món ngon vật lạ ở An Nam, và tuyên bố đã ghi chép trong hai cuốn sách do chính cậu viết. Ðiều kỳ lạ, thiếu niên không biết tiếng Pháp, nhưng hiểu hết những điều giáo sĩ nói, chỉ qua cử động của đôi môi. Chính De Rhodes cũng đã tiếp thu toàn bộ văn hoá An Nam qua những điều thiếu niên kể. Mãi sau, khi rời Gia Ðịnh lên Quy Nhơn, rồi ra Kẻ Chợ, giáo sĩ mới biết thiếu niên tên chữ Lê Quý Ðôn, về sau chết trong trận giặc sông Gianh rồi đầu thai theo quốc giáo, và cho xuất bản hai bộ sách Phủ Biên Tạp Lục cùng Vân Ðài Loại Ngữ.

   

Alexandre de Rhodes buông bút. Tiếng gió hú lê thê trong cầu thang trôn ốc xoáy gọi những tiếng kêu lạnh lẽo khiến giáo sĩ ngẩng lên. Căn hầm đá bất chợ lạnh căm căm. De Rhodes thở ra khói. Ông nghe tiếng rơi của một vật nặng đang lao xuống nhà thờ. Sức hút trọng lực khiến gió đẩy bật những cánh cửa va đóng vào nhau rầm rập như nhà thờ có kẻ phá. Tất cả trần vách rung chuyển rùng rợn như có đám đông đang chạy rần rật huỳnh huỵch trên mái. Tiếng ngói lăn thông thốc từng lúc, giáo sĩ quyết định đóng nhật ký, ông chỉ kịp viết ba chữ Aléa Jacta Est cho một mặc cảm chịu tội sắp xẩy đến, mà đã từ lâu giáo sĩ biết ông bị khai trừ khỏi hội thánh.

   

Tiếng gió hú the thé mỗi lúc một lạnh buốt khắp châu thân, cùng lúc mang hơi lửa bỏng rát phả vào mặt giáo sĩ. Alexandre vừa thở ra khói vừa nóng hổi. Anh nhận ra những dấu hiệu của tận thế khi lửa và băng cùng xẩy đến một lúc.

   

Alexandre bước lên tháp, anh trông thấy gió giật những dây chuông va đánh vào nhau. Các quả chuông chạm nẩy nhau nhưng không phát tiếng động. Thời đó ai sống ở Cao Bằng cũng biết đức tính hiếm quý của những quả chuông, mỗi khi đánh không phát âm thanh, không có tiếng động nào, nhưng tiếng chuông lại ngân lên ở Ðồng Khê, cách đó 28 cây số. Phải mất nhiều phút tiếng chuông váng âm từ Ðồng Khê mới vọng trở lại, đổ dồn về thị xã. Hiện tượng kéo dài và chính xác đến độ Alexandre phải thức sớm những sáng chủ nhật và đánh chuông trước vài phút cho kịp lễ. Những ngày sau cùng, khi Ðồng Khê bị vây, antenne truyền tin của căn cứ bị pháo sập, đại tá Charton đã phải nhờ giáo sĩ đánh chuông gởi đi những bản tin mã hoá. Sáng đó các dây chuông co giật không âm thanh, trông như bầy rắn múa máy. Alexandre cảm thấy sợ, nhưng anh cũng cố gắng bước đến nắm lấy dây chuông giữ cho đừng múa lượn. Chính lúc đó các quầng lửa cuốn về nhà thờ cháy sáng lầu chuông và các tia lửa vây lấy mình anh. Trong khoảng khắc tiếng chuông ngân từ Ðồng Khê réo về Cao Bằng như tiếng sấm rền. Lẫn trong tiếng chuông Alexandre còn nghe rõ cả tiếng đại bác bắn vào đồn Ðồng Khê, tiếng súng cối của Việt Minh câu dòn dã, tiếng kèn thúc quân và cả tiếng hô xung phong của trung đoàn Thủ Ðô. Tiếng chuông làm vỡ tan hoang gạch ngói rơi rớt lả tả chung quanh đỉnh tháp nhà thờ. Cứ vài phút tiếng chuông đổ dồn về gióng ào ạt ầm ĩ kinh động những rên la của lính viễn chinh bị thương ngoài mặt trận. Các dây chuông co giật như phát điên, quấn lấy đôi tay Alexandre như những vòi bạch tuột nghiến thắt, khiến anh không sao giữ thăng bằng, cả người Alexandre bị nhấc bổng lên không trung theo điệu múa quỷ quái của quả chuông rồi kéo lê lết đến tận bao lơn tháp trước khi chịu lôi giật về hướng ngược lại. Ở mỗi cơn động kinh Alexandre bị các cuồng lửa bắt xém vào áo chùng làm phỏng rộp thịt da cho đến lúc tấm áo cháy tiêu và thân thể anh hoàn toàn trần truồng. Chính lúc đó Tuyết xuất hiện ở cửa tháp. Chính lúc đó Alexandre tin chắc ngày cuối cùng đã đến và Thiên Chúa sống dậy phán xét loài người.

 

-  Blời ơi ! Tận thế rồi !

   

Tuyết ôm chầm lấy giáo sĩ lúc đó.

 

*

   

 

Về sau khi gặp lại Nhất Linh trong căn biệt thự ở Ðà Lạt, bên suối Ða Mê, Tuyết còn khóc òa kể với anh Tam những thiên tai bất hạnh của mối tình phóng đãng với giáo sĩ. Tuyết đã không ngờ anh Tam cực xấu hổ, tê tái, nhục nhã và quyết định tự vẫn sáng hôm sau. Nhất Linh đã không muốn mang trách nhiệm của một nhà văn cha đẻ một nhân vật phạm thánh. Anh Tam đã lấy cái chết của chính mình để nói với người đời Nhất Linh là một nhà văn trong sáng. Tuyết đã khóc hết nước mắt trong chuyến xe tang không kèn trống, đông đảo độc giả đi đưa trong âm thầm lặng lẽ. Tuyết đã khóc hết nước mắt lúc hạ huyệt, chôn sâu trong lòng vĩnh viễn mối tình đầu, và đã khóc nghẹn ngào cho buổi sáng thác loạn với cha cố.   

   

Lửa của buổi sáng đó cũng bắt vào hai vạt áo dài của Tuyết khiến cháy tiêu quần áo trên mình nàng. Tuyết khám phá ra nàng không thể chết. Nàng là một nhân vật tiểu thuyết không có khả năng chết. Gió xô đẩy cả hai đến sát bao lơn, Tuyết khiếp hãi co chân quắp lấy mình Alexandre, cho trĩu thêm sức nặng để cả hai đừng rớt ngã xuống khoảng trống chơi vơi sâu hút. Chính lúc đó trong sâu chín sợ hãi Tuyết đã cảm ra da thịt giáo sĩ tươi rói cứng cáp đâm thẳng vào cửa mình nàng đột ngột bất ngờ như tiếng chuông bỗng hét lên tiếng rú rách trời. Tuyết đã kêu lên đau đớn tưởng chừng nàng có thể ngất đi vì sướng. Chưa bao giờ Tuyết làm tình với một người đàn ông rắn chắc khỏe mạnh như với giáo sĩ, tuồng thân thể anh là chiếc gậy chống của Mose, cây gậy chống dài có thể xẻ đôi Hồng Hải. Tuyết rên la từng cơn, mỗi lúc lửa vây lấy cả hai cháy rực các bức rèm nhung có ngọn, mỗi lúc Alexandre xâm nhập vào sâu trong thân thể nàng làm như anh cũng hoảng sợ cố bám víu vào thân xác Tuyết di truyền một giọt máu. Tuyết kêu la không ngớt, bấu chắc lấy cần cổ Alexandre đánh đu dưới quả chuông đong đưa, theo nhịp giật của dây thừng kéo lôi cả hai từ bao lơn này đến bao lơn khác, hết vực sâu này xuống vực sâu khác, rơi từ vực thẳm của sung sướng xuống những mái nhà ngói đỏ li ti rồi nhảy giật lên tháp trong tiếng rên la của thân xác.

   

Chính lúc đó Tuyết trông thấy bóng Bernard de Lattre ngã xấp ven sông Hiểm. Viên trung úy chứng kiến suốt ba hôm, cảnh tượng kinh khủng của các lớp sóng Việt Minh tràn lên, lớp lớp  mà súng liên thanh không sao có thể quét hết, thậm chí cả đại bác chống chiến xa đặt ở hầm chỉ huy bắn đạn xuyên xoáy cũng không thể khoan thủng bức tường Việt Minh dầy đặc chuyển động như cánh rừng. Ðồng Khê thất thủ khi những trái đạn lân tinh chót cùng và những quả đạn nổ cao của pháo 105 ly cạn kiệt. Ðại úy Casanova tử thương, đại úy Brun bị bắt sống và trung úy Brondel chết ngay ở giao thông hào. Suốt đêm trung úy De Lattre dẫn đại đội sống sót mở đường máu, dẫm lên những xác chết mà De Lattre kinh hoảng khám phá đang đầu thai từ từ, chậm chạp ngồi dậy, thậm chí có những xác quân chủ lực Việt Minh chồm lên, tròng mắt trắng dã, la hét chụp lấy mã tấâu chém xối xả vào đội hình lính Pháp mà chỉ mới một phút trước đây đã bị tiểu liên của binh sĩ Lê Dương cắt đứt đôi người. De Lattre thương tích khắp mình mẩy, nhưng anh xăm xăm trong bóng tối nhất quyết trở về Cao Bằng để gặp lại người đàn bà của nhà thờ. Suốt đêm đại đội De Lattre bị Việt Minh truy kích tiêu diệt không còn ai sống sót. Chính viên trung úy cũng ngạc nhiên không hiểu động lực nào đã giúp anh vượt hai mươi tám cây số đường rừng. Chính lúc đó, khi viên sĩ quan vừa trông thấy hai nhánh sông Hiểm và sông Bằng Giang êm ái bao lấy pháo đài, lịch sử quân đội nhân dân An Nam ghi rõ, chiến sĩ Phan Ðình Giót của tiểu đoàn Hoàng Diệu đã dùng lưỡi lê đâm thủng ngực De Lattre. Dưới những ráng hồng đầu tiên Bernard ngã xuống. Anh vẫn không hiểu vì sao anh đã không đau đớn, trong lúc bộ đọâi Việt Minh vẫn tiếp tục lấy lê đâm xóc vào mình. Bernard không còn sức kháng cự, anh quá mệt lả vì mất máu và đi bộ nhiều. Bernard nằm yên nhìn ngắm lính An Nam thấp như những đứa bé đang thay nhau tháo nhẫn, đồng hồ và lục khắp các túi quần anh. Cho đến lúc Phan Ðình Giót cắt mạn sườn viên trung úy, thích gan cho vào bình rượu thuốc, viên sĩ quan vẫn hãy còn tỉnh táo và hài lòng đã tiêu hết lương tháng dưới xóm thổ. Tiếng chuông ngân lên lúc đó, bao la và say đắm, tựa tiếng kêu của thiếu nữ lúc ân ái, gọi anh xuất tinh để cùng thỏa mãn. Bernard nhỏm dậy, anh vụt hiểu, vì đâu anh không thể chết. Chính tình yêu tạo ra sự sống và nuôi dưỡng sự sống, giản dị như định nghĩa ghi chép trên mình thiếu nữ. Nguyên lý cơ bản của sự sống khởi đi từ tình yêu và trung úy De Lattre đang yêu không thể chết. Tiếng chuông chín tiếng, như chín lần thiếu nữ gọi anh trở về. Bernard phát lên cười khanh khách, trước sự ngạc nhiên của Phan Ðình Giót. Trung úy De Lattre vừa nhớ đến những quẻ xăm rùng rợn chú giải: Ðồng Khê mạng vong lúc 9 giờ sáng. Bernard cũng nhớ ra những lời Tuyết ân cần khuyên nhủ, đức năng thắng số, nhân trung Trung Hoa với nhân trung Tây khác nhau, không thể đo cùng một thước. Chết không dễ dàng như con người muốn. Bernard chỉ thắc mắc, vì đâu các thầy An Nam tinh thông lý số, kinh dịch, không thể bói ra tình yêu đến với anh bất ngờ. Viên trung úy còn thắc mắc vì sao sắc tộc Kinh, lưu trữ bốn ngàn năm quá khứ đã không coi trọng tình yêu, thứ tình cảm đầu tiên và cuối cùng của kiếp người. Viên sĩ quan cũng nhớ, giáo sĩ De Rhodes đã có lần nói với anh, do thiếu chữ viết, người An Nam đã không ghi được những suy nghĩ trừu tượng của họ truyền cho con cháu, chỉ có thể truyền khẩu những chi tiết hiện thực, cụ thể. Lúc chiến sĩ Phan Ðình Giót đâm mỏi tay, văng tục rồi bỏ đi, Bernard de Lattre de Tassigny trông thấy những quầng lửa kéo nhau về Cao Bằng. Các tia lửa đỏ thắm trời mà anh nghĩ  chính là máu của anh đang chảy về với Tuyết. Anh chỉ không hiểu ra vì đâu mặt nước sông Hiểm êm đềm đến vậy, khi chung quanh vạn vật hỗn chiến và lùng giết nhau cho những điều không liên quan đến tình yêu.

   

Buổi sáng có lửa Satan và phép màu cùng xẩy đến, dì phước là người đàn bà thứ hai trong pháo đài trông thấy Giêsu Christ. Suốt đời Louise sẽ không tha thứ nàng đã trang điểm quá lâu trước tủ gương đến trễ hẹn. Sáng đó, khi những thanh âm hào hển rền rỉ của quả chuông rưới lên mái tu viện những xúc cảm bồi hồi, dì phước đã đội lên tóc chậm rãi khăn vành trắng, cẩn thận ngắm nghía từng nếp khăn chùm tu, vẫn trong trắng như thân thể hãy còn đồng trinh của dì. Khăn vành trắng đẹp như tấm voan ngày cưới mà Louise đã kiêu hãnh phủ trùm suốt đời tu hành. Dì chỉ ra khỏi chủng viện khi tiếng chuông thúc hối, lúc lửa Satan thắp sáng quảng trường và lầu chuông gióng những tiếng chuông cuối cùng. Trong bụi khói, gỗ đá, Louise trông thấy đấng Christ khi đó, vẫn người đàn ông của ngày xưa, của những đêm trăng thiết tha bước vào phòng nàng cúi xuống đặt lên môi cô bé Louise một nụ hôn tinh khiết. Louise đã muốn chạy đến khi ấy, bất kể lửa Satan lan đến làm cháy rụi rặng sữa. Dì phước chỉ hốt hoảng lúc gió tốc cao váy tu phô đôi chân dì trắng trẻo đến đùi trước cặp mắt thèm muốn của các phu xe kéo. Louise phải ngồi thụp xuống túm lấy cổ chân giữ cho váy áo đừng tung bay. Thật ra Louise đã có thể vất tung hết tất cả, kể cả tấm áo dòng bấy lâu không thay đổi, nhưng chính vì dì phước trông thấy Giêsu đang nắm lấy tay một kẻ nào đó, mà giác quan giúp dì cảnh giác chỉ có thể là người đàn bà thơm hương nước hoa đĩ thõa hôm nào đã quyện ám trên những bức rèm nhung nhà thờ. Louise đã chứng kiến đấng Christ im lặng, nỗi im lặng sâu thẳm mà dì phước không đoán nỗi, thứ im lặng đớn đau của một người đàn ông bất lực. Dì phước không hiểu, chỉ cảm thấy thỏa mãn, thứ thỏa mãn của người cùi mọc lại đốt tay khi dì đã dằn lấy tay chúa ra khỏi bàn tay của người đàn bà vô hình mà dì không trông thấy. Trong lòng Louise còn muốn níu thân áo trắng của người đàn ông còn phất sau cửa nhà thờ. Linh hồn Louise đã tất tả chạy lao qua quảng trường, bước lên các bậc tam cấp rồi ngã phục trên nền đất. Louise đã sững sờ chứng kiến người đàn ông nàng vừa trông thấy bằng xương thịt đã bị treo trên thập giá và ánh mắt hóa thạch bất động trên hai tay còn chảy máu ở lổ đinh vừa đóng.

   

Chính trước đó Tuyết trông thấy Giêsu Christ. Buổi sáng có lửa Satan và phép màu cùng xẩy đến. Tuyết cảm giác rất rõ rệt nàng đang băng huyết xối xả lúc giao hợp với Alexandre. Không phải do Tuyết có kinh sớm, nhưng là máu của viên trung úy đang tuôn chảy tướp khắp đùi nàng. Tuyết đau thắt tử cung, thứ nỗi đau thường xuyên xẩy đến những ngày cuối cùng khiến nàng phải gập mình ôm bụng khóc trong lặng lẽ. Những ngày ở Cao Bằng Tuyết chiêm nghiệm rất nhiều điều, đàn ông da trắng hay An Nam yêu rất dễ dàng, quên rất nhanh, miễn sao họ còn ham muốn thân xác. Tuyết chỉ không hiểu do đâu nàng có khả năng ân ái với mọi đàn ông, nhưng không thể yêu ai từ sau ngày anh Tam bỏ đi. Ðôi lúc Tuyết yêu vô vàn nét trẻ thơ của Alexandre mỗi khi anh phát âm ngọng nghịu Quy Nhin, Quẩm Ghĩa, hoặc vẻ chân thật của mỗi khi anh khăng khăng bào chữa phát âm chuẩn theo lối nói cổ của sắc tộc Kinh. Nhưng Tuyết cũng nhớ đến đôi môi say đắm của Bernard mà anh hôn không rời, những cuồng si không dứt mà hồi tưởng Tuyết hãy còn đau nhói dạ con. Bao nhiêu ngày, Tuyết thầm hỏi nàng yêu ai, và bao nhiêu đêm Tuyết ý thức nàng vĩnh viễn thuộc về Nhất Linh.

   

Tiếng rú của một vật nặng đinh tai nhứt óc. Tiếng xoáy lanh lãnh mà đang ôm Alexandre Tuyết phải bưng kín lấy tai sợ rách màn nhĩ. Tuyết linh tính biết tai ương sắp xẩy đến. Chính Alexandre cũng cảm giác điều ấy nên anh xuất tinh không dứt, như một ước muốn chót cùng hối hả tạo ra sự sống trước khi xuống hỏa ngục đời đời. Bao nhiêu tin đồn lửa thiêng sẽ đổ xuống thị trấn khiến cả hai biết tận thế gần kề. Chiều hôm trước, cố đại úy De La Marek hãy còn đến xưng tội với Alexandre và kể một câu chuyện thật lạ. Khi Binh đoàn Tác chiến Le Page rơi vào ổ phục kích, chuyến quân xa tắt nghẽn trên đỉnh đèo Lủng Phài. Bộ đội Việt Minh xung phong biển người, các toán quyết tử ôm bộc phá đánh bom từng chiếc GMC một. Lúc đó, người đàn ông áo trắng đứng trên mui xe đã chỉ tay xuống vực thẳm, trổi lên một trận lốc kinh thiên cuốn văng tất cả tiểu đoàn Lê Hồng Phong xuống hố mà không một binh sĩ Marốc nào hề hấn. Chính các cố vấn Mỹ về sau nghiên cứu phúc trình Le Page trong trận đánh đường biên giới, đã áp dụng triển khai phương pháp và cho sản xuất mìn Claymore định hướng. Nhưng Tuyết không sao biết, phải đợi đến sau này vào Nam, cuộc thánh chiến tiếp diễn, khốc liệt, nghe kể về loại vũ khí mới, Tuyết mới liên tưởng đến những chuyện đã xảy ra ở Cao Bằng. 

   

Tiếng hú khi ấy, vít đinh vào sọ não, mỗi lúc một lớn tựa nguyên một tảng trời đang sập. Tiếng hú xé óc cho đến lúc ngưng bặt. Tuyết còn trông rõ trái phá chọc thủng mái nhà thờ. Tất cả vỡ oàng ngay sau đó, trong tiếng nổ khủng khiếp của quả chuông đứt dây lao cắm xuống mặt đất. Tuyết đã hãi hùng rơi trong lòng quả chuông xoay tít, hãi hùng trông thấy gương mặt của các sĩ quan Pháp từ dưới quảng trường chính thị xã, lớn phồng lên, cả nỗi xanh tái khám phá Việt Minh đã kéo pháo lên đỉnh núi cũng to tướng dần. Cùng lúc Tuyết hãi hùng nhận ra cơ thể nàng tiếp tục đòi hỏi giao hoan không thể dứt ra khỏi mình Alexandre trong khi cả hai ngã bổ xuống thang lầu gẫy tung các đà gỗ và rơi không kềm hãm. Chính khi ấy Tuyết trông thấy Giêsu Christ, khi nhà thờ phát nổ, đỏ ối một quảng trời, gạch ngói long lở và mái tháp đổ ụp xuống thị xã.

 

Phải khó khăn lắm, Tuyết mới chui ra khỏi quả chuông. Tất cả hỗn độn, ầm ĩ, hỗn mang của gạch đá khói đen đầy bụi tắt lịm cùng với tiếng chuông đứt đoạn đột ngột. Tuyết gọi Alex ? nhưng không có ai trả lời. Tiếng kêu của chính nàng thất thanh suốt quảng trường rồi vang trở về, làm như tiếng gọi cũng đã đi tìm cha cố. Có bóng người đi tới, Tuyết xấu hổ lấy tay che ngực, nhưng không ai đếm xỉa đến nàng, cả những toán cứu thương chen lấn chạy vào phố Chả Cá đang bốc cháy, xô đẩy, va chạm phải mình nàng cũng không xin lỗi. Tuyết nghe loáng thoáng cha cố gẫy hai chân phải đi cấp cứu. Nàng hối hận đã đem đến tình yêu hồi sinh khiến Alexandre hóa nửa người, nửa ma, chịu thương tích.

   

Người đàn ông nắm lấy tay nàng khi ấy.     

   

 

 

 

Giêsu mang vẻ đẹp trần thế, trầm thống và cô buồn của nhân gian tội lỗi, vẻ đẹp khác thường mà Tuyết chưa hề trông thấy. Vẻ đẹp của thiên nhiên tạo hóa. Từ thân thể trong vắt những dòng suối uốn khúc ở cổ chân, đến bầy chim ríu rít hót mà Tuyết đoán đang đậu kín dưới thân áo. Cả vẻ đẹp u uất của những cánh rừng rũ cội hiu hắt. Tuyết nhận ra ngay người đàn ông trong Tân Ước. Giêsu mang tất cả nhân dáng của nhân loại, đến nỗi nàng nhận ra ngay ánh mắt nghiêm khắc của Nhất Linh, hàng mày cong của Khái Hưng, sóng mũi thẳng của Alexandre và khóe môi hơi mỏng của Bernard de Lattre. Ðấng Christ tựa một người đàn ông nàng đã trông thấy nhiều lần mỗi ngày mà chưa hề gặp. Ðiều kỳ lạ sự dị biệt đó không tách bạch nhưng hòa quyện lẫn nhau đến mức vừa quen thuộc, đầy lạ lẫm. Tuyết nhận ra tất cả những điều Alexandre đã kể với nàng đều có thật. Giêsu mang thân thể không trọng lượng, có khả năng đi bộ băng ngang qua những đại dương bão tố trên trái đất.

   

Lúc đó, phép màu xẩy đến mà không một ai có thể ngờ. Tất cả mọi đám cháy đều tắt ngấm khi Giêsu Christ đi qua, trận pháo kích cũng trệch ra khỏi pháo đài, tất cả những quả đạn đều rơi vãi xuống sông Hiểm. Các đống gạch đá vỡ nát bỗng dưng nguyên vẹn xếp ngay ngắn chờ đợi tái thiết, dẫy mái tôn bị pháo xụp ở phố Chả Cá thốt nhiên lợp mới trở lại có dằn bao cát chống đỡ cho trận pháo kích kế tiếp, và đất ở đâu đùn lên các nắp hầm lính Pháp dầy thêm nhiều thước. Tuyết chứng kiếng rõ rệt người đàn ông đứng ở giữa quảng trường và vạn vật chung quanh trôi đến. Không phải Giêsu Christ đi đến, nhưng sự vật trôi đến trước chân đấng Kitô. Từ những đám mây trong trôi ào ạt đến quảng trường xua đuổi khói than mù mịt, những tia nắng bị hút hết vào trong mái tóc Giêsu sáng rỡ, những đứa bé mắc chứng trừu run chân bu đến và cả nhà thờ chính tòa đồ sộ nguy nga sập mái cũng trôi đến dần dần. Mặt đất thu hẹp lại và vạn vật thu về một hướng. Chính Tuyết cũng trôi đến trước chân chúa, dù nàng không hề cử động hay nhúc nhích, nhưng vẫn chuyển dịch chậm rãi cho đến khi người đàn ông nắm lấy tay nàng.

   

- Lạy chúa tôi ! Danh Cha cả sáng !

   

Tuyết thốt lên lời kinh ấy. Nàng quỳ gập người, không hiểu vì sao bài kinh La ngữ Alexandre truyền dạy cho nàng trổi lên lúc đó. Như máu huyết từ huyết quản dồn lên tim, dâng lên môi và Tuyết không thể nói lời nào khác hơn những giọt máu đang chảy trong tim nàng. Lúc ngửng lên, Tuyết bắt gặp ánh mắt đấng Christ toát ngời những hình ảnh khủng khiếp của muôn kiếp người. Khác với Alexandre de Rhodes, đôi mắt của Giêsu không chỉ phản chiếu quá khứ, nhưng cả tương lai, và của cả nhân loại trong cùng một lúc. Tuyết đã bàng hoàng trông thấy cơn mưa sáng gai góc sắc buốt nhểu xuống khu vườn lan rũ úa bên suối Ða Mê, đã sửng sốt chứng kiến Nhất Linh già đi, ốm yếu, uống từng giọt độc dược đắng, đen, như những giọt mực anh đã dùng viết tiểu thuyết. Nhất Linh đã uống cạn ve thuốc độc như muốn nuốt trôi hết tất cả chữ nghĩa đã viết. Tuyết cũng trông thấy Trần Khánh Dư bị thủ tiêu bắn chết ở một miền quê hẻo lánh. Anh Dư khi chết đã cười thật tươi như anh đã luôn xem cuộc sống chỉ là những tình cảm nhẹ nhàng. Anh Dư chết như anh đã muốn đi tìm một kết thúc tiểu thuyết bí hiểm mà người đời không một ai rõ. Tuyết còn trông thấy ngày Cao Bằng thất thủ, bộ đội Việt Minh vào tiếp quản, vong thiếu tá Rivière và đại úy Garnier ra trình diện học tập ở ủy ban quân quản thị xã. Tuyết đã hét lên lúc trông thấy Alexandre bị tập trung cải tạo rồi hình ảnh biến mất, trống rỗng.

   

Tuyết đã khóc ngất trong buổi sáng có lửa Satan và phép màu cùng xẩy đến. Khóc cho thân phận một nhân vật tiểu thuyết, không có quá khứ, tương lai, trong đôi mắt đấng Christ. Về sau tòa thánh La Mã không chứng nhận, không xác chứng Giêsu Christ đã tái thế, chỉ vì nhân chứng duy nhất, dì  Louise bị tước phép thông công do đánh mất phẩm hạnh. Nhưng sáng đó, buổi sáng có mây trong và những khóm dâu đỏ huyết đan kín các lối đi ven rừng, các họ đạo đã khắc ghi vĩnh viễn hình ảnh nhà thờ bốc cháy. Nhiều năm sau, Tuyết cũng không còn nhớ rõ đấng Christ đã xuất hiện trước hay sau trận pháo kích. Tuyết chỉ nhớ đã khẩn khoản van nài thiên chúa cứu chuộc linh hồn nàng. Sáng đó đã xẩy ra hiện tượng thần bí. Những trang giấy to bản chép đầy chữ Hébreu, ở đâu bay đến sáng lóa và vây lấy Giêsu. Từng trang đặc chữ Do Thái cổ óng ánh giát vàng lần lượt xuất hiện trước đấng cứu thế rồi biến đi, cứ tiếp tục bay đến, trang này sau trang khác, rợp trời rồi mất hút. Trên không chỉ còn lại dư âm của gió và thứ bụi vàng rây rắc gieo xuống những khóm mai yếu ớt, vừa hé nở, thắm thiết, mà không ai rõ vì sao ở cuối tháng Năm khi những trận bão rừng bắt đầu đổ về miền biên giới. Tuyết hiểu nàng không có tên trên danh sách loài người khi Giêsu Christ gỡ tay. Vì sao thiên chúa ngôi hai với đôi mắt chứa chan nhân ái đã im lặng, không thể cứu rỗi. Sáng đó, gương mặt Giêsu buồn đắm. Sáng đó Tuyết đã khóc thật nhiều vì vụt hiểu ra nàng chỉ có thể hiện hữu bằng tình yêu khai hoá duy nhất của Alexandre Lucien Abel de Rhodes.

 

Ðó là thời kỳ ở Cao Bằng không còn một ai tin vào chiến thắng của quân đoàn viễn chinh Pháp và lính Lê Dương vẫn hát những bài ca của quỷ:

   

Louise Marie où vas tu dans le monde ?

Je vais où vont les soldats

Louise Marie qui aimes tu ?

J'aime celui qui va mourrir

et le diable en rit, Ha, Ha, Ha, Ha./.

   

Défunts 02/ 11/ 2002

Lễ Người Chết Công Giáo

 

Ghi chú quân sự :

 

 

 

Trận Đường Biên Giới:

 

Chiến dịch Đường Biên Giới diễn ra từ tháng 5 đến đầu tháng 10-1950. Khu biên thùy Đông Bắc từ Cao Bằng đến Lạng Sơn do đại tá Louis Constans chỉ huy. Thành phần phòng thủ gồm trung đoàn 3 Lê Dương và trừ bị chiến thuật là Liên đoàn Sơn Cước Ma rốc. Thành phần tấn công bao gồm Đại đoàn 308 tăng cường 2 trung đoàn độc lập 174 của Đặng Văn Việt và 209 của Lê Trọng Tấn. Bộ chỉ huy Bắc phần thả dù 2 tiểu đoàn Nhảy Dù 1er BEP và 3ème BCCP.

 

Các đơn vị tham chiến:

 

- Trung Ðoàn 3 Lê Dương: 3ème Régiment Etranger d’Infanterie (3 R.E.I)

- Binh đoàn tác chiến Le Page : Groupement des Tabors Marocains (G.T.M), từ 5/1950 cải danh Chiến Ðoàn Bayard (Groupement tactique Bayard), bao gồm 4 tiểu đoàn Tabors, về sau tăng cường tiểu đoàn 1 B.E.P.

- Binh đoàn tác chiến Charton : Groupement Tactique Charton,  bao gồm tiểu đoàn 3 Lê Dương, tiểu đoàn 10 Tabor và tiểu đoàn phụ lực quân Bataillon Lèger de Supplétifs Militaires (B.L.S.M). Tháng 9.1950 tiểu đoàn 3 Tabor thay thế tiểu đoàn 10 Tabor bằng không vận. Về sau tăng viện tiểu đoàn 3 B.C.C.P thả dù xuống Thất Khê.

- Tabor Marocain : Danh xưng chính thức của các tiểu đoàn sơn cước Marốc, mỗi Tabor gồm 4 Goums, mỗi Goum tương đương một đại đội, lính tuyển mộ cùng một bộ lạc miền núi.

- 1er B.E.P : Bataillon Etranger de Parachutistes, tiểu đoàn 1 Nhảy Dù Lê Dương.

- 3ème B.C.C.P : Bataillon Colonial de Chasseurs Commandos Parachutistes, tiểu đoàn 3 Thuộc Ðịa Săn Giặc Biệt Kích Dù.

- Sư Ðoàn 308 Ðại Ðoàn Quân Tiên Phong : Ðại đơn vị đầu tiên của quân đoàn chủ lực Việt Minh do tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy, bao gồm các trung đoàn 36 Bắc-Bắc, 88 Tu Vũ  và 102 là trung đoàn Thủ Ðô, đơn vị mũi nhọn thành lập từ các tiểu đoàn Cứu quốc Tự Vệ thành Hà Nội chính quy hóa.

 

Các nhân vật lịch sử trong trung thiên truyện Giáo Sĩ:

 

- Giáo sĩ Đắc Lộ sinh 1591 và mất 1660.

- Ðại tá Charton, đại tá Le Page bị bắt làm tù binh, tháng 10-1950, trao trả sau hiệp định Genève.

- Hải quân thiếu tá Henry Rivière, tử trận 01.05.1882 tại Ô Cầu Giấy

- Hải quân đại úy Francis Garnier, tử trận 21.12.1873 tại Ô Cầu Giấy

- Ðại úy De La Marek, tử trận 25.02.1861 tại Chí Hòa

- Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny, tử trận 31.05.1951 tại đồn Yên Cư Hạ, Ninh Bình.

- Ðại tướng Jean De Lattre de Tassigny, cao ủy kiêm tổng tư lệnh, mất 11-01-1952 sau chiến dịch Hòa Bình.

- Hồng y Armand Jean du Plessis de Richelieu 1585-1642, tể tướng triều Louis XIII.

- Tham mưu trưởng lục quân Phổ Karl Von Clausewitz 1780-1831, lý thuyết gia quân sự.

- Thống chế Michel Ney 1769-1815, chỉ huy cánh quân Pháp đánh chiếm Mạc Tư Khoa dưới thời Nã Phá Luân.

 

Trần Vũ
Số lần đọc: 2648
Ngày đăng: 26.12.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Chuyện mùa Giáng Sinh - Đỗ Hồng Ngọc
Chiên Lạc - Kinh Dương Vương
Giáo Sĩ 2 - Trần Vũ
Giáo Sĩ 1 - Trần Vũ
Những Đêm Giáng Sinh. 1 - Kinh Dương Vương
Những cái răng sâu - Kahlil Gibran
Anh em nhà họ Quách - Trần Chiểu
Cô Tiếp Viên Xấu Xí - Nguyễn Đông Phương
Của Người Phúc Ta - Trần Chiểu
Bốn truyện cực ngắn - Nguyễn Tam Phù Sa