- “ Về báo chí và nhà xuất bản: sinh hoạt này là “cơ chủ” đại diện cho cơ chế tự do dân chủ! Ngoài mấy tờ báo từ kháng chiến chống Pháp “kéo về”, có chấn chỉnh đôi chút cho phù hợp với thủ đô, như báo Nhân dân ở phố Hàng Trống, báo Quân đội Nhân dân ở đường Lý Nam Đế gần ngã ba Phan Đình Phùng, vườn hoa Hàng Đậu; báo Văn nghệ có 2-3 cơ sở. Đảng Xã hội của Luật sư Nguyễn Xiển có tờ Tổ quốc, trụ sở ở đường Nguyễn Du, phía trên ngã năm đường Bà Triệu (sau này nhà thơ Nguyễn Bao, Đại học Sư phạm Văn khoa khóa II, 1957, về đây công tác). Nhưng thoải mái nhất là tờ Độc lập (có Câu lạc bộ Dân chủ ở đường Tràng Tiền, gần Nhà hát Lớn) của Đảng Dân chủ, do Thứ trưởng Bộ Văn hóa Đỗ Đức Dục và luật sư Dương Đức Hiền đặc trách, có nhà thơ Ngô Quân Miện trong ban biên tập. Tờ báo này “chiêu hiền đãi sĩ” rộng rãi, có nhạc sĩ Văn Cao minh họa. Mấy truyện ngắn lịch sử của tôi trong những năm 1965-1975 ở báo này đều do Văn Cao minh họa. Song hồi 1955-1956 tôi đã giới thiệu Thúc Hà đăng thơ ở báo này. Về báo chí, mấy năm đó có tờ Thời mới, tờ Tia sáng (của chủ cũ Hà Nội đã vô Nam, nhưng chỉ sống một thời gian ngắn), tờ Hòa bình của nhóm ông Nguyễn Đức Thuyết, trụ sở bên số chẵn Hàng Trống, chếch với trụ sở báo Nhân dân. Tờ báo này cũng chết yểu vì nội dung nghèo nàn như tờ Thống nhất của Ban Liên lạc miền Nam, thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam, đăng các bài văn thơ hướng về Nam. Trong một cuộc thi truyện ngắn của báo này, tôi có gửi 3 bài, được nằm trong giải thưởng, nhưng khi nhà văn Nguyễn Văn Bổng đến báo tin mừng biết tên Nhiên Vũ chính là Bùi Quang Đoài, thì nhà văn này “bay bổng” như chim bị tên… Xin nói rõ: chính vì thế tôi ðã có lời nguyền là sẽ không bao giờ viết truyện ngắn đời thường nữa! Như trên là khá đầy đủ về mặt “anh hào báo chí”, sau đấy là các nhà xuất bản, đất “hào hoa” cho các nhà văn nhà thơ có thể dụng võ: thượng đỉnh là NXB Văn nghệ của Hội Văn nghệ Trung ương lúc đó mới từ Việt Bắc về (Hội Nhà văn VN thành lập giữa 1957). Nhà thơ Hoàng Cầm làm Phó giám đốc, còn giám đốc là ông Hoài Chân, đồng tác giả cuốn Thi nhân Việt Nam với Hoài Thanh. NXB Văn nghệ này đã in Tuyển tập thơ Việt Nam 1950-1954 lúc mới về Hà Nội, trong đó có bài thơ “Các anh” của Bùi Quang Đoài. Bài này đã được in trên báo Văn nghệ ở Việt Bắc năm 1953. Cũng bài này năm đó, NXB Giáo dục của Bộ Giáo dục in trong sách giáo khoa lớp 6, đến năm 1963 thời bao cấp thì bỏ. Chính NXB Văn nghệ này cũng in tuyển tập thơ Dọc Trường Sơn của các văn nghệ sĩ Liên khu 5 trong đó có các nhà thơ Tế Hanh, Khương Hữu Dụng, Trần Mai Ninh, Lương An, Nguyễn Đình v.v…, có cả bài thơ “Qua Bồ Bồ” của Bùi Quang Đoài. Tập thơ này do nhà sưu tầm Trinh Đường chủ biên năm 1956-1957... NXB Quân đội cũng như báo Quân đội Nhân dân đều có mặt từ năm 1955, khi NXB Quân đội mở rộng đề tài về truyền thống đấu tranh bảo vệ đất nước, Thái Vũ đưa bản thảo lần đầu cuốn tiểu thuyết lịch sử Cờ nghĩa Ba Đình do nhà thơ Minh Giang giới thiệu, dù biết rằng tác giả có cảm tình với nhóm Nhân văn-Giai phẩm. Vậy là cả nhà thơ Minh Giang cũng không thoát “tai nạn nghề nghiệp”…
Như trên là các nhà xuất bản trong biên chế. Sau đây là các nhà xuất bản tư nhân: NXB Lúa mới ở góc ngã tư Bà Triệu-Lý Thường Kiệt, có nhà in riêng là cơ sở cũ tờ báo Thời mới, chủ đã vô Nam. Số phóng viên còn lại, tháng 5/1955 hết hạn cho phép di cư tự do vào Nam, cũng vào Nam luôn. Một Việt kiều ở Pháp về thủ đô Hà Nội năm đó (1956) mở NXB Thép trên con đường ngắn Hàm Long đi lên đường Bà Triệu, song NXB này qua năm 1956 cũng đóng cửa vì không có khách hàng nào đến gõ cửa, sợ liên luỵ với tư sản…
NXB Minh Đức, tức NXB Xây dựng cũ từ Thanh Hóa về (Logo con ngựa bay trắng - Pégase -, thi hứng) do anh chị Trần Thiếu Bảo làm chủ. Trong kháng chiến chống Pháp ở thị xã Thanh Hóa lúc ấy có hai khu vực Rừng Thông và Cầu Bố nổi tiếng sầm uất, vì đây là nơi tập trung dân tản cư chống Pháp từ Vinh ra, nhất là dân buôn bán từ Liên khu 3, cả Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định vào. Thị xã Thanh Hóa lúc đó được coi như thủ đô kháng chiến của toàn miền Bắc, cuốn hút nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng và các tầng lớp trí thức, nhất là từ năm tướng Nguyễn Sơn về Liên khu 4 làm Tư lệnh trưởng. Các cơ quan văn hóa và bên quân sự đều tập trung ở đây. Thời gian này lớp dự bị đại học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng được sơ tán về Thanh Hóa, đóng ở Cầu Kè, trên Hậu Hiền. Hiệu trưởng là giáo sư Đặng Thai Mai, Bí thư đảng ủy là giáo sư Trần Văn Giàu cùng các giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu và các thầy Cao Xuân Huy, Tôn Thất Chiêm Tế v.v… Thị xã Thanh Hóa tấp nập như thế, đã trở thành mảnh đất văn hóa, cho nên anh chị Trần Thiếu Bảo mới lập NXB Xây dựng, Gs Trần Văn Giàu và thầy Đào Duy Anh đầu tiên được in sách tại nhà xuất bản này. Về Hà Nội, NXB Xây dựng đổi tên là Minh Đức, trụ sở khá rộng ở góc đường Phan Bội Châu, đầu ngã tư Lý Thường Kiệt đi lên. Trong năm 1955-1956 NXB Minh Đức đã cho in nhiều tư liệu uy tín, đặc biệt sách của nhà văn Vũ Trọng Phụng với cuốn Số đỏ rồi cuốn Vỡ đê, đáp ứng được nhu cầu về sách không những cho sinh viên các khóa trường ĐH Sư phạm Văn khoa, mà cả các trường cấp 3 toàn miền Bắc đang tìm hiểu về văn học hiện thực phê phán. Sau đó, Trần Thiếu Bảo được Gs Trương Tửu đỡ đầu nên đã cho xây mộ nhà văn Vũ Trọng Phụng ở làng Mọc, mời Gs chủ lễ khánh thành, có một số anh em sinh viên đại học cùng dự…
Tất cả những sự kiện trên về giáo dục, báo chí, xuất bản tạo nên một hướng “tự do dân chủ” không có tổ chức, đúng hơn là tự phát, vào thời điểm bài “Trăm hoa đua nở” của Chu Dương xuất hiện, lại được tờ Nhân văn đổ thêm dầu, với NXB Minh Đức tạo thành một xu thế đòi “tự do dân chủ” với sự hưởng ứng của các văn nghệ sĩ đàn anh cũng như một số trí thức cao cấp mấy năm đó. Hẳn đây là “điểm xoáy”, với nhóm Nhân văn-Giai phẩm trương ngọn cờ đầu đòi “tự do dân chủ” mà xông xáo nhất là một số nhà thơ nhà văn đối lập với Hội Nhà văn, dù chỉ là với mấy vị cầm chịch. Như vậy, hai chữ “nhân văn” mà triết gia Trần Đức Thảo thanh minh với ông Hà Xuân Trường không nằm trong phạm vi đòi “tự do dân chủ” của nhóm Nhân văn-Giai phẩm mà bao quát rộng hơn, như mệnh đề “cái gì có lý, cái ấy tồn tại, cái gì tồn tại, cái ấy có lý” đâu phải theo “hạt nhân duy lý” từ Hégel…
Vì thế, Ban chỉ đạo học tập Trung ương đã có biện pháp cho riêng nhóm Văn khóa đại học 1956 đang là cán bộ giảng dạy, học về “tự do dân chủ”, cho anh em phát biểu… thoải mái! Để tránh lầm lẫn như hiện nay, “năm 2006”, dựa trên cơ sở hạ tầng của nội dung xã hội, chúng tôi xin nói rõ: nhóm Đại học Sư phạm Văn khoa và nhóm Văn nghệ sĩ Hội Nhà văn Việt Nam là hai nhóm cách biệt, tuyệt đối không hề có chút quan hệ nào. Ví dụ, năm 1957, Trung ương cho học tập cải tạo và đi lao động thực tế thì chỉ riêng các nhà văn nhà thơ bên Hội Nhà văn bị cấm viết lách từ đó mãi đến năm 1990; còn bên nhóm đại học được “vô can”, kỷ luật không được dạy đại học và trường tư vì tránh tuyên truyền cho “bọn” Nhân văn-Giai phẩm, khi ký quyết định lại được Bộ trưởng Bộ Giáo dục “cải thiện”, cho về các thành phố dạy các trường cấp 3 đầu tỉnh: Hà Thúc Chỉ (Thúc Hà) về Hải Phòng dạy trường cấp 3 Ngô Quyền, nổi tiếng về dạy giỏi, Văn Tâm bị “biếm” lên tỉnh Phú Thọ, lại được về Hà Nội dạy trường cấp 3 Nguyễn Trãi, Phan Kế Hoành về dạy trường cấp 3 Hà Đông, lại được chuyển về Ban Tu thư Bộ Giáo dục, tham dự làm sách giáo khoa, nhưng anh lại rất mê viết về sân khấu…
Bùi Quang Đoài (Thái Vũ) được cho về Vinh dạy Đại học Sư phạm Vinh hay hiệu trưởng một trưởng trung học phổ thông ở ngay thủ đô Hà Nội, nhưng xin không nhận; Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên lại cho về Phòng Tuyên truyền báo chí (nhà văn Trần Thanh Mại làm trưởng phòng) của Bộ lúc đó (năm 1958), đảm nhận chức tùy viên văn hóa, quan hệ với tùy viên văn hóa các nước Hungari, Indonesia, Tiệp Khắc, đã đi Nam Định, Hải Phòng có đoàn quay phim và nhiếp ảnh đi theo.
Trường hợp “cải thiện” còn được Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An Võ Thúc Đồng thân ái xử trí, như với Ninh Viết Giao (tham gia viết Đất mới) khi anh được phân công về Vinh (Nghệ An) dạy trường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng. Gặp Ninh Viết Giao trong một cuộc họp, vì đã được chi ủy nhà trường và thị ủy Vinh báo cáo về việc Ninh Viết Giao “có ảnh hưởng Nhân văn-Giai phẩm”, Bí thư đã thân mật nói: “Mình thì nghĩ, chẳng qua là các thầy mới ra trường, có kiến thức đấy, song còn non người trẻ dạ, thấy cái mới thì vơ, chưa từng trải cuộc sống, chưa biết sàng lọc đó thôi. Mình tin rằng các thầy sẽ vững vàng đi lên trong cuộc sống, nên đã nói với nhà trường và thị ủy rằng đừng có chấp những điều đó ở các thầy”. (Theo Xứ Nghệ và tôi của Ninh Viết Giao, trang 49)
Chính nhờ đó, Ninh Viết Giao đã “đi tìm quặng Xứ Nghệ” (như lời nhà sử học Chương Thâu) với một “kho tàng sách biên thảo” về mặt xã hội văn hóa của xứ Nghệ mà chính ngay dân xứ Nghệ “gốc” cũng chào thua và anh đã trở thành giáo sư, người cầm chịch trong thể loại “Văn học dân gian” toàn quốc. Đặt biệt trường hợp Lê Bá Hán, khóa II ĐH Sư phạm năm 1957, tham gia Đất mới khá tích cực, nhưng vẫn được giữ lại trường, sau đó về Vinh làm cán bộ giảng dạy rồi Khoa trưởng khoa Văn ĐH Sư phạm Vinh, chưa nói đến một số các bạn khác cũng tham gia tờ Đất mới sau này đều trở thành nhà văn nhà thơ nổi tiếng của Hội Nhà văn Việt Nam, như Văn Tâm, Nguyễn Bùi Vợi. Riêng chuyện buồn là trường hợp Hà Thúc Chỉ, thủ khoa lớp 1956, lại là nhà thơ trẻ được Huy chương Vàng ở Đại hội Thanh niên Thế giới Warszawa, Ba Lan (1955) với bài thơ “Chờ con Má nhé”, khi anh được phân công về Hải Phòng dạy trường cấp 3 Ngô Quyền. Là thầy dạy giỏi nổi tiếng luôn mấy chục năm ở đất Cảng, học trò anh sau này nhiều người trở thành nhà văn nhà thơ, còn anh lại “bị bỏ quên hẳn”, kể cả chính quyền Hải Phòng - thành phố Biển. Năm 2000, chuyển thế kỷ 20 qua thế kỷ 21, thành phố cho in toàn tập Nhà văn Hải Phòng dày trên 1.400 trang mà “cho qua” tên Thúc Hà, dù rằng trước đó, anh đã có tập thơ Mưa biển và chính nhạc sĩ Hồng Đăng lúc ấy có lấy một bài phổ nhạc…
Tấm lòng lãnh đạo là thế mà tình đời phải chăng cũng là thế, khi vô khối những dây bìm bìm bám theo dai dẳng qua thời gian thành kiến, không biết anh sai lầm về vấn đề gì, chỉ mơ hồ nghe nói là theo Nhân văn-Giai phẩm. Viết đến đây cũng buồn khi nghĩ đến nhà văn Nguyễn Bính, ông cũng mê tự do dân chủ không kém chi ai, hẳn là đã chịu ảnh hưởng “Trăm hoa đua nở” nên dù nghèo cũng bỏ tiền túi ra in một tờ Trăm hoa (trụ sở ở đường Lê Văn Hưu). Đến khi Nhân văn-Giai phẩm bị kết án, nhà thơ cũng chịu nạn chung, phải về thành Nam lánh nạn. Lúc ấy giám đốc Sở Văn hóa Nam Định là nhà văn Chu Văn săn sóc quả là tận tình… đến “cái chết khó hiểu” của Nguyễn Bính. Sau đó, thời Đổi mới, Chu Văn lại ca ngợi Nguyễn Bính để lập công, khi đất nước đã mở rộng kinh tế thị trường. Cũng xin ghi thêm trường hợp hai nhà thơ trẻ hồi đó là Phùng Cung và Nguyễn Hà (tên nữa là Huyền), khi các anh vì mê văn thơ đúng lúc tờ Nhân văn nổi đình nổi đám, lại hợp tác không lương trong nhóm biên tập Nhân văn, dưới bàn tay tráo trở, lắm thủ đoạn của họa sĩ Trần Duy, thư ký biên tập tờ Nhân văn. Tôi biết Phùng Cung qua bài “Con ngựa già của Chúa Trịnh” đăng trên tờ Nhân văn, khi đến “Quán cơm sinh viên” cũng là CLB sinh viên bên số lẻ (gần một cái chùa nhỏ) khoảng đầu ngã tư Bà Triệu và đường Hai Bà Trưng (không xa Hồ Hoàn Kiếm). Gặp Nguyễn Hà cũng ở đó, quán cơm sinh viên rẻ tiền, ban quản lý là mấy bà mẹ, mấy chị lớn tuổi buôn bán ở Hà Nội, sau vụ Nhân văn-Giai phẩm cũng bị nạn là tan rã. Ôi Hà Nội hai năm đầu giải phóng!
Tháng 8/1956 tôi nghỉ hè nên về Vinh, nơi song thân tôi tản cư từ Thái Yên, Đức Thọ ra, vì trước 1945 gia đình tôi có ở Vinh. Giữa thị xã của nắng và gió Lào, đi ăn sáng về với ông anh rể thì gặp anh Phan Ngọc, chuyên viên về học thuật của trường đại học mới vào Vinh. Qua anh tôi mới biết có tập Giai phẩm mùa Thu, lại có cả tờ báo Nhân văn đang gây dư luận ở Hà Nội. Là thằng mê văn chương, làm thơ rất sớm, nên mấy ngày sau tôi đi tàu ra ngay Hà Nội.
Hà Nội mùa thu thật đẹp vào đầu tháng 9. Tờ Nhân văn đã ra đến số 2 và có lẽ sắp ra số 3, đúng lúc dư luận trong đám văn chương đang xôn xao về bài viết của ông Hoàng Xuân Nhị: “Tổ chức của Đảng và văn học có tính Đảng” đăng trên tờ Nhân dân. Đây là một chuyên đề hấp dẫn thời đó ở Hà Nội. Qua tài liệu sách báo, những năm đầu chính quyền Xô-viết, Lênin có nói chuyện về tính Đảng trong văn học với nhà báo cách mạng Đảng Cộng sản Đức Clara Zetkin. Tôi nói là “chuyên đề” vì chính tôi và một số bạn cùng lớp cũng đang tìm hiểu nghiên cứu đề tài hấp dẫn đó. Nghĩa là đề tài “trúng tủ” của chúng tôi, cũng có nghĩa là đề tài mà ông Hoàng Xuân Nhị đã chạm vào như giẫm phải ổ kiến lửa.
Tôi đang loay hoay tìm tờ Nhân dân để đọc thì thật tình cờ nhà thơ Vũ Đình Liên đến. Tôi đang ở 27 phố Lữ Gia, góc chéo đường Trần Xuân Soạn phố Lò Đúc. Anh Vũ Đình Liên đến gặp tôi vì có tin là trường ĐH Sư phạm mời anh về dạy năm tới, mà tôi là thư ký học thuật trong bộ môn Văn, tất biết. Đúng vậy, thầy hiệu trưởng Đặng Thai Mai rất tin tôi, mọi công việc giấy tờ thuộc “văn phòng” bộ môn Văn đều trong tay tôi, kể cả lý lịch cán bộ giảng dạy. Ví dụ: sách báo thư từ từ Pháp gửi về thầy đều ghi Monsieur le Doyen Đang Thai Mai, chứ không ghi là “Professeur” để tỏ lòng tôn kính thầy là bậc trưởng lão cao niên trên hàng professeur. Về lý lịch, Hoàng Xuân Nhị có một lý lịch đặc biệt buộc tôi phải chú ý: ông ta học ở Pháp; 1939 Đức Quốc xã chiếm Paris, lập chính phủ bù nhìn bán nước Vichy với thống chế Pétain, Hoàng Xuân Nhị đã theo quân Đức Quốc xã qua Berlin và được nuôi dưỡng; năm 1945 Đức bại trận, Hoàng Xuân Nhị trở về Paris và… sau đó gia nhập Đảng Cộng sản Pháp v.v… và v.v…, đến năm 1955 đã thấy ông ở Hà Nội dạy năm đầu ĐH Sư phạm Văn khoa, khi tôi học năm thứ 3. Về trình độ học vấn của ông thì sau này, khoảng sau năm 1970 còn có hai bài bàn tới, đăng trên hai số báo Văn nghệ, của Hoàng Minh và Tạ Ngọc Liễn.
Chuyện viết bài “kê” ông Hoàng Xuân Nhị trên tờ Nhân văn đúng là chuyện “không mời mà đến”, nhưng khoảng một tuần sau, họa sĩ Trần Duy đến đưa thư cảm ơn và “xin miễn nhuận bút vì tờ báo đang nghèo”. Song cùng lúc Trần Duy lại đưa ra một tập bản thảo viết tay, giấy đủ loại và đủ cỡ, rồi nói tiếp: “Sau tập Giai phẩm mùa Thu này là tập Giai phẩm Sinh viên”. Tôi thích thú vì đang định tập viết về chuyện sinh viên sau khi đọc cuốn Les Etudiants của Liên Xô, vì lúc đó có nhiều chuyện vui giữa sinh viên từ kháng chiến về Hà Nội và sinh viên Hà Nội cũ. Trần Duy cho biết sau tập Giai phẩm Sinh viên sẽ là tập Giai phẩm Công nhân, Giai phẩm Nông dân, gãi đúng mơ ước của tôi và các bạn ở đại học lúc đó. Hơn nữa người đứng đầu trong tập Giai phẩm Sinh viên này lại là Văn Tâm, bạn tốt nghiệp đại học cùng khóa, cũng là chỗ quen biết cũ ở thị xã Thanh Hóa, tôi quen cô Mai em gái Văn Tâm. Hơn nữa Trần Duy mở tập bản thảo có chữ ký của Văn Tâm là đã tuyển chọn kỹ, nay do tôi quyết định cuối cùng. Tâm lý tuổi trẻ là háo danh, “ngựa non háu đá”, được tâng bốc tôi nhận ngay. Tôi rủ Thúc Hà tuyển thơ, mới biết anh chị em sinh viên ai cũng mê văn chương. Khi biết tôi là người quyết định cuối cùng tập Giai phẩm Sinh viên, các tác giả có bài nhiều lần đến gặp tôi: ai cũng cho bài của mình là hay. Vì vậy chọn bài rất khó. Tôi thấy Cao Huy Đỉnh có bài; vì là bạn khá thân, Đỉnh là đảng viên, tôi bảo Đỉnh nên rút bài về. Đa số bài là chống tiêu cực, chống bè phái theo kiểu như báo Nhân văn. Duy bài đầu chống tiêu cực ở đại học, nhất là ở mấy năm dự bị đại học thì do Văn Tâm viết, liên quan đến khóa II dự bị đại học và khóa đầu đại học, tốt nghiệp 1956. Tôi phải viết lại, bổ sung việc của khóa dự bị đại học đầu tiên, chẳng hạn anh em rất bất mãn về việc xử lý của thầy T.V.G trong Đảng ủy với nhóm Thành, Khái, Nhâm, sau này là Ng. Duy Bình (như cắt học bổng của anh em Liên khu 4 và Bình Trị Thiên để bồi dưỡng cho Hiệu đoàn trường là cánh Liên khu 3 giàu có). Cho nên sau này phản ứng chính là từ tổ chức, lãnh đạo đại học chứ không phải từ các thầy dạy, các giáo sư. Riêng về truyện ngắn ít đạt, tôi loại khá nhiều, tuy nội dung tốt về chống tiêu cực tham ô, nói chung đó là tiêu điểm chính của nội dung tập Giai phẩm Sinh viên. Do vậy chỉ trong thời gian rất ngắn tôi viết “Lịch sử một chuyện tình” trong sinh viên mà các nhân vật đều có thật trong khóa học của chúng tôi (cả bên Văn và Sử).
Nhưng gay cấn nhất là tên Đất mới mà Văn Tâm và Trần Duy bảo lưu cho kỳ được, khi tôi phản ứng rằng cái tên đó là một địa điểm xưa ở Huế, ngay sau sân vận động Huế (nơi đó hiện giờ có “Quán cơm Âm Phủ”), trên làng Vân Dương, là nơi tụ tập đĩ điếm và dân nghiện hút. Khu vực này dân Huế đều biết. Vì chủ sòng Trần Duy và Văn Tâm trong nhóm NXB Minh Đức quen thân với anh Trần Thiếu Bảo, họ bỏ tiền in thì họ… có quyền giữ tên Đất mới.
Chuyện đời là thế, tôi cũng buồn khi “gặp tai nạn”, chịu đựng, vì dù sao tôi cũng là người lính trong kháng chiến chống Pháp, có công, cũng nhẹ tội hơn anh em mà đa số là sinh viên mới toanh, từ trường phổ thông trung học lên đại học. Hơn nữa gia đình, dòng họ tôi chống Pháp từ thời Cần Vương, cụ Lê Thước và thầy Đặng Thai Mai biết rất rõ. Khi cụ thân sinh thầy Đặng Thai Mai là Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn làm Đốc học tỉnh Hà Tỉnh những năm 1906-1908 chống sưu thuế, cụ và tiến sĩ Ngô Đức Kế bị bắt và đày đi Côn Đảo, còn cố nội tôi là cụ Bùi Quang Thích trước đó là Tuần vũ Hà Tĩnh thì bị thực dân cho “hưu dưỡng” vì tuổi già, kể từ những năm chống Pháp ngoài Bắc thời vua Tự Đức, 1880 đến thời vua Thành Thái 1907. Ông nội tôi, thời Đồng Khánh bị biếm ra giáo thụ tỉnh Phú Thọ từ thời tỉnh đó còn gọi là phủ Hưng Hóa. Cụ đã theo nghĩa quân của Tuần vũ tiến sĩ Nguyễn Quang Bích chống Pháp nên bị chúng đày qua Nam Mỹ, xứ Guyanna, 19 năm. Năm 1919 cụ được tha về, mất năm 1921 ngoài Phú Thọ, vì vậy thời Pháp thuộc, gia đình tôi bị liệt vào hàng “cừu gia tử đệ”.
Hôm nay viết những dòng này không phải để “khoe công” mà vì tôi đã giữ im lặng tuyệt đối bao năm, nay tuổi đã cao, có chăng vài dòng “sám hối” khi tôi lấy nhân vật Kỳ nữ Thais qua bản nhạc của Massenet, cho nhân vật Long kéo violông trong “Lịch sử một câu chuyện tình”, tập Đất mới…”.
- về “Triết gia Trần Đức Thảo và nỗi buồn từ Hà Nội”:
Nghĩa là triết gia Trần Đức Thảo chưa hiểu được thấu đáo sau trên 20 năm ở Pháp trở về Việt Nam, cũng là 2 năm chân ướt chân ráo về Hà Nội, lại ở ngay trong khuôn viên trường đại học, chỉ gần gũi với các đồng nghiệp và sinh viên Đại học Sư phạm. Như thế, hẳn sinh hoạt Paris đâu có phai mờ, nhất là những cuộc tranh luận về triết học với nhà văn triết gia J. P. Sartre. Trùm toàn bộ mọi mặt sinh hoạt của thầy hẳn vẫn là không khí Paris “tự do và dân chủ” và những suy nghĩ của thầy “thực chất chỉ là những suy nghĩ tìm tòi rất tự nhiên, chân thành” theo dòng suy tư quen thuộc của thầy trong định hướng triết học mà thầy hằng ấp ủ.
Tai nạn Nhân văn-Giai phẩm mà sau này người ta tránh né gọi là “tai nạn nghề nghiệp”, đúng ra chỉ đối với các nhà văn nhà thơ bên nhóm Hội Nhà văn VN, còn bên nhóm đại học thì như “vết thương đầu đời”, nhưng không ngờ nó lại bị khoét sâu thêm, khiến những dây “bìm bìm” thừa cơ xuyên tạc, chụp mũ khi xẩy ra hai sự kiện “đổi tiền qua thuế công thương nghiệp” và “đấu tranh cải tạo tư sản (mại bản)” trong các năm 1958-1960.
Đúng là “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”. Ở Việt Nam, chống chủ nghĩa xét lại đánh dấu từ sau đám tang Dương Bạch Mai - nguyên chủ tịch hội Hữu nghị Việt-xô, người bị cho là “chủ bài” của chủ nghĩa xét lại ở VN. Đây chính là lúc triết gia Trần Đức Thảo “lâm nạn” đi chu du lên Sơn Tây, thời điểm mà một số giáo viên nắm quyền lên chức tại trường ĐH Sư phạm Hà Nội ở Cầu Giấy đấu tố chụp mũ để lập công và một số giáo viên khóa đại học 1956 vốn đã bị quy là có dính dáng đến vụ Đất mới, nay lại thêm tội “theo chủ nghĩa xét lại”, nên đã “được” đi lao động cải tạo, lên Phú Thọ trồng chè một thời gian… Đúng là giây bìm bìm đâu có dứt, người bị “chụp mũ” mà không hề biết mình có tội gì, cứ bị quy có dính dáng đến “chủ nghĩa xét lại” là ok! Gần đây đâu có hết, cái đám dây bìm bìm đó vẫn tồn tại. Thời gian ngắn sau đó, trên báo Nhân dân có tin đăng “học đại học” thì được gọi là “học sinh đại học”, bỏ từ “sinh viên”. May sao, chuyện đó sớm bị bãi bỏ.
Đó chính là thời gian triết gia Trần Đức Thảo được chuyển lên khu tập thể Kim Liên ở nhà B6, “xóm giáo sư”, thời gian mà tác giả Phạm Thành Hưng nêu ở trang 44 báo Văn nghệ số 17-18 đầu năm 2006, khi vợ chồng triết gia chia tay và triết gia “trở thành người đàn ông độc thân, nổi tiếng thêm bởi sự đãng trí, hồn nhiên, cơ hàn trong sinh hoạt”.
Cũng xin cám ơn và trích đoạn sau đây của tác giả Phạm Thành Hưng về thời gian trên của triết gia Trần Đức Thảo: ông “vẫn ung dung tự tại chấp nhận hình thức cải tạo tư tưởng… một thời gian đúng với tư chất của một hiền nhân Đông phương rồi lại say sưa với công việc mới, công tác biên dịch tại NXB Sự Thật”. Chao ôi, đẹp thay và bình lặng thay một câu chữ đối với trường hợp một trí thức bậc thầy, một triết gia lặn lội từ bên trời Tây về với đất mẹ Việt Nam của phương Đông. Nghĩa là viết như thế chỉ có thể đúng với một anh chăn bò vô tư và an phận, với vợ hiền con thảo khi được trở về Hà Nội, từ đất cằn Sơn Tây… Vậy thì lý giải làm sao đối với trường hợp một triết gia đã từng bao năm suy tư và giảng dạy trên giảng đường đại học về “cái hạt nhân duy lý” mà Hégel đề xuất, về cái “hình thức ý thức và hoạt động khác nhau của con người” dẫn đến thành quả trong phép biện chứng hiện tượng học để rồi chính ông, triết gia Trần Đức Thảo đã đảo ngược lại trong Hiện tượng học và phép biện chứng chủ nghĩa Mác? Rõ ràng là trong thời gian chu du với mấy con bò, “kẻ lữ hành” đâu có “ung dung tự tại” để suy nghĩ về công trình Logic của cái hiện tại sống động “của một hiền nhân phương Đông khi làm biên dịch ở NXB Sự Thật”?
… Người tu hành thường chịu khổ hạnh để mong lên được Niết bàn, triết gia Trần Đức Thảo cũng thế, dù có đói khát cơ hàn trong sinh hoạt, mất mát trong tình cảm, thầy cũng mong qua được nước Pháp để hoàn tất công trình triết học của mình, như nhà văn nhà thơ quên đời khi thai nghén để hoàn chỉnh tác phẩm… Nhưng buồn thay, lần trở về nước thứ hai này từ đất Pháp lại là đống tro tàn “cát bụi trở về cát bụi”… Vậy, hẳn ai đâu có quên cái câu chữ của Descartes: “Je pense, donc je suis”!
Ở phần hai bài viết nói trên của Phạm Thành Hưng là về sinh hoạt đời thường của triết gia Trần Đức Thảo, như chuyện mà bà hàng nước ở Kim Liên kể lại, chuyện tự đi chợ mua rau mua củi “hỏi giá hàng rồi trả giá”, chuyện “nằm ngủ” ở nhà tang lễ Phùng Hưng Hà Nội mà nhà thơ Phùng Quán đã kể khá tỉ mỉ. Tuy nhiên, đó chỉ là chuyện kể của những người ngoài cuộc, những người xa lạ, những người “không hề biết tên Trần Đức Thảo là ai”! Xin nói rõ rằng những dây bìm bìm có leo và bịa chuyện này nọ để mong thăng quan tiến chức chứ ai đâu xa lánh thầy khi thầy về nhận công tác ở NXB Sự Thật, vì có trong biên chế mới có lương để sống. Thưa rằng, thầy chỉ có mấy người học trò, ít thôi, vẫn âm thầm tìm cách giúp đỡ thầy trong cơn hoạn nạn và người duy nhất tôi xin được nêu tên và thắp nén hương tưởng nhớ hương hồn là anh bạn học khóa hai ĐH Sư phạm, tốt nghiệp năm 1957, anh Đoàn Mai Thi.
Mỗi lần cần mua cái gì trong sinh hoạt thường ngày, nhất là mật ong khó kiếm thời bao cấp, thầy cũng chậm chạp trên chiếc xe đạp “mini” kiểu Liên Xô cũ, đến lối ngã 5 đường Lò Đúc Phan Chu Trinh, dừng xe đứng chờ anh Đoàn Mai Thi vì nhà anh ở gần đó…
…Riêng tôi thời gian này cũng rất bận vì cuốn Ba Đình được NXB Quân đội “bảo vệ và giúp đỡ”, song 1973 vì tình hình viện trợ cách mạng miền Nam nên 1976 mới in xong. Từ đó, tôi vào Huế cuối năm 1980, trở thành nhà văn được nhiều NXB xin bản thảo, nên tôi không ra Hà Nội gặp thầy được. Đúng ra tôi đã lầm nghĩ là thầy đã an bài làm công tác dịch thuật ở Nhà xuất bản Sự Thật, cũng như tác giả Phạm Thành Hưng mới chỉ hiểu được một mức độ nhất định khi ông viết về Trần Đức Thảo. Phạm Thành Hưng không phải là học trò của triết gia Trần Đức Thảo, nên khó hiểu nổi “tư duy kiểu Trần Đức Thảo”, tuy bài của ông ta có công tâm, khách quan. Thầy từ nước Pháp về Việt Nam theo “đường zigzag” bằng tiền túi, nhưng nay muốn qua Pháp để hoàn tất công trình triết học của mình thì chẳng qua như “nước đại dương kết giọt chốn không bờ”, như “giữa mênh mông sa mạc mà mây trời không ánh”. Cho nên khi được chính phủ ta trợ cấp cho qua Pháp 3 tháng để viết “công trình triết học” như vậy, thầy đâu có “ung dung, tự tại”, vì 3 tháng là thời gian quá hạn chế cho một công trình triết học đòi hỏi thời gian một năm, có khi đến vài năm…
Khi thầy từ Hà Nội vào TPHCM, tôi đâu có biết vì đó là thời gian tôi đang ở Huế, viết mấy cuốn tiểu thuyết lịch sử, có tiền nhuận bút tôi mới về lại TP.HCM.
Tôi đến Viện Khoa học Xã hội gặp Nguyễn Công Bình, đại diện cho các tỉnh phía Nam (anh là bạn cũ từ Hà Nội), tình cờ thấy cuốn Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không con người với tên tác giả: Giáo sư Trần Đức Thảo, mới biết hiện thầy đang ở khách sạn Bến Nghé, đường Nguyễn Trung Trực. Tôi định tìm mua một cuốn, mừng thầy được in sách thì Nguyễn Công Bình cho biết ngoài Hà Nội đã có lệnh vào là phải thu hồi cuốn đó lại, nhưng khó khăn là sách đợt một đã bán hết sạch, sách tái bản lại vừa in xong, có cả phần Kết luận bổ sung, nên trước “lệnh” từ Hà Nội, Nguyễn Công Bình đành bất lực. Nghe cái “lệnh” thu hồi cuốn Vấn đề con người… tôi đã buồn, nhưng tin sách đã lỡ tái bản, tôi chợt hiểu mặt sau của vấn đề và lại thấy vui vui, nên sáng đó tôi vội vã đến ngay khách sạn Bến Nghé…
Cuốn sách hấp dẫn chẳng những đối với giới trí thức TPHCM mà cả với các nhà giáo và sinh viên, vì thời gian từ 1980 người đọc dễ liên hệ tình hình diệt chủng dã man của bọn Pol Pot -Ieng Sary bên Kampuchia. Nhưng tác phẩm của thầy lại không hề nói mảy may đến vấn đề đó. Triết gia chỉ nêu những quan điểm triết học chung quanh những vấn đề con người, xã hội, giai cấp và lịch sử cũng như các vấn đề về quan điểm con người dưới góc độ triết học trong dân chủ hóa và đấu tranh chống tiêu cực mà tác giả đã từng quan tâm. Đây là một phương pháp luận của vấn đề Con Người.
- về “Triết gia Trần Đức Thảo và con đường lữ hành về với… đất”:
…Đến khách sạn Bến Nghé, nhân viên phục vụ hướng dẫn tôi lên lầu 2. Tôi đứng nín thở lát sau mới gõ cửa, nghĩ lâu năm có lẽ Thầy đã quên mình. Nhưng không, Thầy vẫn nhớ, ôm lấy hai vai tôi lắc lắc. Nước mắt ngấn trên mi, tôi chỉ hỏi Thầy có khỏe không. Phòng khách sạn ðúng ra chỉ là một phòng trọ tạm thời, một cái giường đôi trải nệm chiếm gần trọn căn phòng, nhưng đặc biệt ngay từ lối vào là hai cái tủ đứng… đầy sách, đến một cái bàn nhỏ để sách báo và phía ngang pḥng lại một cái bàn nữa và hai cái ghế gỗ có nệm, trên bàn có mấy tập Tạp chí Cộng sản và mấy tờ Tin Moscow bằng tiếng Pháp. Vậy là Thầy vẫn mê Liên Xô, tuy là để lấy tin tức, vì năm 1988 này là thời gian Gorbachev đang làm Tổng Bí thư và quan hệ chặt chẽ với Mỹ từ 1985. Gần đó trên một cái ghế nhỏ có một bếp điện nối dây may-so, cũng lại của Liên Xô vốn đang được dùng ở Việt Nam từ Bắc chí Nam. Thêm một tờ báo Sài Gòn Giải phóng mở rộng nằm trên giường, có lẽ thầy đang đọc.
Tất nhiên hai thầy trò ngồi bên mép giường nói chuyện. Nhìn đồ vật trong phòng, tôi thấy một cái làn nhựa, trong đó có mấy quả cà chua chín đỏ và linh tinh mấy thứ thuộc về bếp núc, lại ở sát cửa phòng WC. Té ra là Thầy vẫn tự nấu ăn, kiểu ăn chay với gói mì tôm hay bánh mì, cả một túi gạo nhỏ có lẽ để nấu cơm. Trời ơi! Thiếu hẳn một bàn tay chăm sóc của người đàn bà…
…Năm 1988, tôi gần triết gia Trần Đức Thảo nhiều nhất cũng là thời gian thầy tặng tôi cuốn Vấn đề con người và vấn đề lý luận không con người, đúng lúc đất nước đang chuyển bước sang kinh tế thị trường, rồi chuyện “giá-lương-tiền” ra rả trên đài, nhưng thầy không chú ý. Thầy biết là thầy sắp được qua Pháp vì lãnh đạo Thành ủy có cử người đến khách sạn thăm sức khỏe của thầy. Thành ủy muốn thầy thật khỏe để thầy sang Pháp. Điều này có lẽ làm thầy suy nghĩ vì đơn thương độc mã, thầy chỉ biết lo cho thầy. Từ tình cảm đó tôi xin kể mấy chuyện sau đây, rất thân tình thầy mới nói với tôi.
Ở khách sạn, khách đến trọ thường chỉ ngắn ngày. Vì vậy nhân viên phục vụ phải lễ độ, nhưng với trường hợp thầy vì ở quá lâu, mỗi lần họ lên dọn dẹp phòng biết cuộc sống đơn chiếc của thầy nên thái độ của họ cũng có khác: họ đề nghị với thầy không được cắm phích điện để nấu thức ăn, nếu muốn nấu thì xuống tầng trệt ở dưới. Họ chỉ gợi ý thôi nhưng có lẽ thầy thấy “tủi thân” kiếp ở nhờ, nên một lần tôi đến, thầy bảo: nếu có thể thuê giúp thầy một căn phòng nhỏ ở dưới đất để thầy dọn đến, sống tự do, độc lập. Tôi có hỏi về gia đình người cháu, thầy không nói gì, chỉ nhún nhẹ đôi vai đã xệ xuống. Tình cảnh của thầy làm tôi đau xé lòng, vì không thể mời thầy đến ở cùng tôi, nhà tôi cũng khá chật. Tôi đến Sở Nhà đất và công trình công cộng xin nhà khác để có phòng riêng viết sách nhưng họ bắt chờ đến cả năm. Rõ ràng cái bếp điện có dây may-xo đã làm khổ một triết gia đang khổ hạnh. Điều đó, có lẽ Thành ủy Thành phố HCM biết nên sau đó thầy được đưa đến ở riêng một căn nhà nhỏ, trong phạm vi Quận 1, phía Nam chợ Bến Thành, khi khách sạn Bến Nghé bị phá bỏ, cải tạo mở rộng, lớn hơn. Nhưng không lâu sau, thầy được Thành ủy mời đến nơi ở mới của khách sạn Bến Nghé, trên đường Điện Biên Phủ, phía Quận 3. Đây là nơi ở cuối cùng của thầy ở Việt Nam trước khi thầy được qua Pháp. Nhưng lại là điều buồn đối với tôi, vì không được gặp thầy, tạm chia tay với thầy. Đó là thời gian tôi ra Huế và Quảng Bình (khi đó còn thuộc tỉnh Bình-Trị-Thiên), đi Tuyên Hóa lấy tài liệu theo con đường của ngự đoàn vua Hàm Nghi “bá thiên” tránh sự truy lùng của bọn Pháp, để viết cuốn Những ngày Cần Vương. Ngày nay nghĩ lại, tôi thấy quả là linh ứng giữa tình nghĩa thầy trò, vì trước khi ra Huế, tôi có đến tạm biệt thầy, như những lần trước từ Huế về, tôi cũng đến thăm thầy. Hôm đó, vào tháng 8/1989, khi còn ở khách sạn Bến Nghé cũ, thầy tiễn tôi ra cửa, khác mọi hôm thầy nắm tay tôi, rồi nói: “Mình chẳng sống may ra được 4 năm nữa”!
Chao ôi, linh nghiệm thay, năm 1993 thầy đang ở Pháp, thứ Bảy ngày 24-4-1993, lúc 20 giờ đài RFI của Pháp báo tin là giáo sư Trần Đức Thảo vừa từ trần, thọ 76 tuổi. Sáng 28-4-1993, thầy được chôn ở nghĩa trang Père La Chaise cùng các danh nhân nước Pháp. Vâng, thưa thầy vậy là đúng 4 năm, tính từ tháng 8/1989, thầy chợt nói câu nói đó và nay thầy mất là vào giữa năm 1993. Lòng tôi buồn lặng khi viết những dòng này.
Điều thứ hai, định không viết, nhưng đành phải viết: Những ngày ở khách sạn Bến Nghé, gặp trắc trở về sinh hoạt như thế, thầy muốn có một nơi ở cho được “độc lập, tự do”, tất phải có tiền và thuê nhà ở riêng. Mà tiền đâu để thuê nhà? Có lẽ thầy nghĩ đến căn phòng B6 khu Kim Liên, nên khi biết tôi sắp ra Huế, có thể tranh thủ ra Hà Nội, thầy đột nhiên nói với tôi: “Bán nhà đó, thầy mong được độ 2 lạng vàng, nếu được, có thêm tiền lúc qua Pháp”. Chuyện nhà cửa mua bán, nhất là “mấy lạng vàng” làm tôi phân vân. Thứ nhất tôi rất sợ vàng, thứ hai có được phép bán nhà đó không? Rồi lại bị quy là “tích lũy tư bản” như hồi bao cấp, của công thành của tư! Có lẽ thầy cũng nghĩ như vậy, nên mấy ngày sau, tôi đến, thầy bảo thôi để nhờ người ngoài Hà Nội. Nhờ ai? Tôi rất ngại… Song vì khi tôi về lại Thành phố HCM, thầy đã qua ở nơi mới của khách sạn Bến Nghé trên đường Điện Biên Phủ rồi qua Pháp. Lại không được gặp thầy! Đến nay chuyện đó tuyệt nhiên tôi không thể biết được.
Chuyện thứ ba là sách, có chăng còn là di cảo? Nếu có vợ và có con thì chuyện thừa kế di cảo sách của thầy đâu có khó, mà thầy thì rõ ràng “tứ cố vô thân”! Toàn sách về triết học, đa số lại là sách ngoại ngữ. Thầy có nói với tôi là trước đây thầy có gửi tặng một số sách cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi còn ở Hà Nội. Nay ở Thành phố HCM, nếu qua Pháp thầy chỉ có thể mang theo một số cùng với bản thảo sách đang viết… Thầy có nói là có thể thầy gửi người cháu, khi về Việt Nam sẽ nhận lại. Đó là việc lâu dài, vì thầy nghĩ “có ra đi, tất có ngày sẽ trở về”! Cho nên vì không được gặp thầy trước ngày thầy qua Pháp, tôi cũng không thể biết số phận những sách di cảo, một đời người trên trang giấy của thầy, nếu thầy có gửi nay ai giữ? Điều duy nhất tôi hy vọng là người cháu đã nhận. Nhưng khổ nỗi là tuy không gặp người cháu đó lần nào, tôi có ý nghĩ là họ có đến gặp thầy cũng chỉ là chuyện bất đắc dĩ trong tình thân, ruột thịt, vì hẳn họ vẫn sợ thầy về vụ Nhân văn-Giai phẩm sẽ có liên quan, nên chắc họ tránh không nhận số sách đó. Tôi lại không biết nơi ở của người cháu đó, nên “số phận di cảo triết học của triết gia Trần Đức Thảo” vẫn không nơi trú ngụ.
Vậy “người có lòng nhân mà tìm không ra cõi thiện”, có thể là như thế, cả với di cảo chứ nói gì đến số phận con người. Đúng là thầy “như nước đại dương kết giọt chốn không bờ”…
Sài Gòn, cuối năm 2010
Chú thích:
(1) Thái Vũ: sinh năm 1928: Sau cách mạng tháng 8/1945, ông đã từ giã Trường Quốc học Huế trở thành lính Trung đoàn Trần Cao Vân, rồi sung vào đoàn quân Nam tiến và từ năm 1948-1950 là giáo viên trường “Trung học bình dân quân sự Liên Khu 5”…Sau “kháng chiến Chín năm”, Bùi Quang Đoài được ra Hà Nội học tại Khoa Văn trường Đại học Sư Phạm Hà Nội. Năm 1956, tốt nghiệp Đại học Sư Phạm, anh trở thành giảng viên của trường, nhưng rồi “tai nạn nghề nghiệp” (bởi “Đất Mới” chứ không dính gì đến nhóm Nhân văn - Giai phẩm như không ít người đã lầm tưởng) khiến anh phải rời bục giảng cùng với Cao Xuân Hạo (1*), Thúc Hà (1**) Văn Tâm (1***)… năm 1958, Thái Vũ đã chuyển về Phòng Tuyên truyền báo chí Bộ Giáo dục, rồi ở Báo Người giáo viên nhân dân...
Tác phẩm: “Đường vô Huế”- ký, NXB Thuận Hóa -1972; tiểu thuyết lịch sử: “Cờ nghĩa Ba Đình” – NXB QĐND (2 tập - 1100 trang), NXB Thuận Hóa 1987, NXB Thanh Hóa in lần thứ ba;“Xứ Ròn-Di Luân, thời gian và lịch sử”, “Tuổi xanh Nguyễn Đình Chiểu”; Hịch truyền - NXB QĐND; bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”- NXB Thuận Hóa, 1984; “Huế 1885”(NXB Thuận Hóa, 1985, tái bản 2002), “Những ngày Cần Vương”- NXB Thuận Hóa (1200 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” - NXB Trẻ, 1988 (300 trang); Những Chiếc Lá Thời Gian (Tuyển tập Thái Vũ), NXB Thanh Hóa, 2004; Thành Thái - "người điên" đầu thế kỷ XX - NXB Thuận Hóa, 2004;
(1*) Cao Xuân Hạo (1930 - 2007): là một nhà ngôn ngữ học với nhiều đóng góp trong việc định hình phương pháp phân tích cấu trúc câu tiếng Việt và là một dịch giả, giáo sư văn chương uyên bác. Thân phụ là Cao Xuân Huy. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng với giai thoại tự học nghe, nói và viết thành thạo tiếng Pháp chỉ từ việc chơi với một người bạn Pháp. Ông từng làm giảng viên ngôn ngữ học, khi đó ông đảm nhận phần lớn công việc dịch sách và hiệu đính các sách dịch tại bộ môn ngôn ngữ học, tại Đại học tổng hợp Hà Nội. Ông nổi tiếng cả với tư cách nhà ngôn ngữ học và dịch giả, và là thành viên Hội Nhà văn Việt Nam. GS Cao Xuân Hạo đã được trao tặng Giải thưởng về dịch thuật năm 1985 của Hội Nhà văn VN. Cao Xuân Hạo đã dịch một lượng tác phẩm văn học khổng lồ: hơn 30.000 trang sách, chủ yếu từ tiếng Pháp và tiếng Nga. Mãi tới năm 1991, tức lúc bước qua tuổi 60, Cao Xuân Hạo mới xuất bản chuyên luận ngôn ngữ học đầu tiên: Tiếng Việt: Sơ thảo ngữ pháp chức năng. Cuốn sách thật sự gây sửng sốt đối với giới ngôn ngữ học VN. Trước khi viết công trình này, Cao Xuân Hạo đã dịch khá nhiều tác phẩm ngữ học của thế giới: Nguyên lý âm vị học (N. S. Trubezkoy), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (F. de Saussure), Ngôn ngữ và cấu trúc (A. Martinet)...
(1**) Thúc Hà (1934-1994) tên thật là Hà Thúc Chỉ, sinh năm 1934 tại TP. Vinh, Nghệ An; quê gốc ở Hương Trà, Thừa Thiên - Huế. Năm 1956 Hà Thúc Chỉ đỗ thủ khoa kỳ thi tốt nghiệp Khóa 1 Đại học Sư phạm Hà Nội, được giữ lại trường làm "Trợ lý giảng dạy Đại học",
rồi chuyển về ban Tu thư (Bộ phận soạn sách giáo khoa) thuộc Vụ Giáo dục phổ thông, …Sau vụ “Đất Mới”, từ năm học 1960-1961, Hà Thúc Chỉ chuyển về dạy văn ở trường THPT Ngô Quyền, THPT thông Thái Phiên (hệ chuyên Văn) rồi trở lại trường THPT Ngô Quyền, Hải Phòng cho đến ngày ra đi. - Tác phẩm: Khi trời mới sáng (thơ, NXB Xây dựng, 1956); Mưa biển (NXB Hải Phòng, 1990); Xem ảo thuật (Tuyển tập Thơ lục bát Việt Nam- NXB Văn hóa,1994); Vầng trăng gặp lại (Thơ tình Việt Nam thế kỷ 20- NXB Quân đội Nhân dân, 1996).
(1***) Văn Tâm (1930 - 2004): nhà nghiên cứu văn học - nhà giáo ưu tú. Thuở nhỏ học trung học ở xứ Thanh. Sau 1954, Văn Tâm cùng với Cao Xuân Hạo, Thái Vũ, Ninh Viết Giao, Bạch Diệp... là lớp sinh viên văn khoa đầu tiên của Đại học sư phạm Hà Nội. Thật tiếc là sau đó vì “mắc tội”, anh phải gác bút hơn 1/4 thế kỷ, cần mẫn làm người thầy gieo niềm yêu thích văn chương cho bao lớp học sinh đất Hà thành. Mãi cho đến thời kỳ đất nước đổi mới, cây bút tài hoa Văn Tâm lại “tái xuất giang hồ” với những tác phẩm được đánh giá cao như Suy nghĩ mới về “Nhật ký trong tù”, Giảng văn văn học lãng mạn và Góp lời thiên cổ sự (1992 - tặng thưởng Hội Nhà văn VN), Thơ Việt Nam 1930-1945 - Tuyển và b́nh chú (viết chung, 1993)...Nhớ Phùng Quán (NXB Trẻ, 2004). Và những cuốn sách từng được giới phê bình đánh giá cao như Vườn khuya một mình, Tản Đà khối mâu thuẫn lớn, Góp lời thiên cổ sự, Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm, Tác phẩm Vũ Trọng Phụng - nhà văn hiện thực (với lời giới thiệu của GS Trương Tửu, in lần đầu năm 1957) đã hợp thành Tuyển tập Văn Tâm bề thế: hơn ngàn trang, khổ lớn do NXB Văn Hóa Sài Gòn xuất bản năm 2006…
(2) Nguyễn Đức Đàn (1928-1997): Bút danh khác: Việt Trung Liên, Hoàng Nguyễn. Quê quán: xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Đảng viên Đảng CSVN. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1968). Đã học qua các trường Sư phạm cao cấp, đại học Sư phạm (Văn khoa) và thực tập ở Liên Xô (1962-1963). Tham gia Cách mạng từ 4-1945, đảm nhiệm chức trách Bí thư Việt Minh xã. Từ đó đến nay đã kinh qua nhiều công tác: nghiên cứu văn học ở Viện Văn học, Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật (Bộ Văn hóa), Hiệu trưởng Trường Viết văn Nguyễn Du.
(3) Bác sĩ Trần Văn Lai (1894-1975): quê gốc của ông là Tức Mặc, Phủ Thiên Trường,thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Trần Văn Lai sinh ra trong một gia đình làm nghề khảm trai có tiếng đất kinh kỳ nhưng cụ lại theo học ngành y và trở thành một bác sĩ có tên tuổi. Luôn mang trong mình tư tưởng chống Pháp, nên dù là một bác sĩ tài năng ở nhà thương Phủ Doãn (nay là bệnh viện Việt Đức), người thanh niên Trần Văn Lai từng bị Pháp giam giữ tại nhà tù Sơn La và nhà tù Hỏa Lò với những người như Hoàng Công Khanh, Phạm Khắc Hòe. Đầu năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp, bác sĩ Trần Văn Lai được mời ra giữ chức Đốc lý Hà Nội (tương đương với chức thị trưởng). Có lẽ đó là nhiệm kỳ của một ông Thị trưởng ngắn nhất hành tinh (từ 20/7/1945 đến 19/8/1945) nhưng ông đã làm được không ít việc lợi cho quốc dân: Vừa nhận chức, BS Trần Văn Lai đã thể hiện ngay tư tưởng yêu nước của mình bằng việc cho phá bỏ tất cả những pho tượng mà trước đó Pháp đã cho dựng ở Thủ đô (ví như tượng Toàn quyền Đông Dương Paul Bert ở Bờ Hồ (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ), tượng "mụ đầm xòe" ở vườn hoa Cửa Nam…). Tiếp theo là đặt lại hàng loạt tên phố mang hơi hướng thực dân ở Hà Nội . Những đại lộ đẹp nhất Hà thành như Briére de L'isle đã trở thành Hùng Vương, Carnot đã trở thành Phan Đình Phùng, Henri d'Orléans là đường Phùng Hưng, Gambetta trở thành Trần Hưng Đạo, F. Garnier trở thành đường Đinh Tiên Hoàng,...Không chỉ lấy tên những võ tướng với chiến công hiển hách trong lịch sử dân tộc mà nhiều tên các danh sĩ nổi tiếng được dùng để đặt tên mới cho những đường phố Hà Nội như Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, v.v…cũng một tay ông Thị trưởng này đặt ra cả! Có lẽ tên hai người Pháp duy nhất ông Thị trưởng cho giữ nguyên mà bây giờ ta vẫn quen gọi là phố Yersin cũng như bức tượng nhà khoa học nổi tiếng này cùng với tượng nhà khoa học Pasteur ở vườn hoa Pasteur ; Vườn hoa trước phủ khâm sai (nay là Nhà khách Chính phủ số 12 phố Ngô Quyền), dân quen gọi là “vườn hoa con cóc”, ông đặt là Diên Hồng; vườn hoa Paul Bert được đổi là vườn hoa Chí Linh. Còn con đường mang tên vị linh mục Puyghiniê được đổi là đường Điện Biên Phủ. Cuối con đường này, ở mạn Bắc có một bãi đất trống cỏ dại mọc có tên là poanh (Point: điểm bắt đầu phố). Bác sĩ Trần Văn Lai đã đặt tên cho bãi đất trống ấy là Quảng trường Ba Đình lấy tên căn cứ của nghĩa quân Đinh Công Tráng chống Pháp rất anh dũng ở huyện Nga Sơn, Thanh Hóa mà người ta thường gọi là Khởi nghĩa Ba Đình. Và chỉ hơn một tháng sau khi có tên Quảng trường Ba Đình: Ngày mồng 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... Sau thời điểm đó, Quảng trường Ba Đình có tên mới là Quảng trường Độc Lập. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Pháp chiếm lại đặt tên là Quảng trường Hồng Bàng. Sau năm 1954, lấy lại tên Quảng trường Ba Đình cho đến bây giờ … Trong thời gian kháng chiến, bác sĩ Trần Văn Lai ở lại Hà Nội, nhưng người con trai duy nhất của ông là Trần Mạnh Chu (1926-1991) đi theo kháng chiến và tiếp tục làm nghề thầy thuốc như cha và sau này là Giáo sư, Tiến sĩ, Chuyên viên đầu ngành ngoại khoa Tiết niệu Quân y, Chủ nhiệm Khoa phẫu thuật Tiết niệu Quân y viện 108. Sau 1954, BS Trần Văn Lai được cử làm Thứ trưởng Bộ Thương binh - Xã hội (cụ Vũ Đình Tụng là Bộ trưởng), rồi sau làm Phó Chủ tịch ủy ban hành chính thành phố Hà Nội, BS Trần Duy Hưng làm Chủ tịch.
(4) Nguyễn Khắc Phê: Sinh năm 1939 tại Huế. Có sách in từ năm 1968 và họcTrường ''Bồi dưỡng những người viết văn trẻ'' khóa 3 (1969-1970), về Hội văn nghệ Quảng Bình từ năm 1974. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1977, Hiện là Thư ký Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế. Tiểu thuyết dày 700 trang Biết đâu địa ngục thiên đường là cuốn sách hay nhất của Nguyễn Khắc Phê vừa được giải C cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba (2006 - 2010) của Hội Nhà văn Việt Nam.
(5) Thân mẫu của Thái Vũ quê làng An Truyền (Thừa Thiên-Huế) là cháu Đoàn Trưng-Đoàn Trực - thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa “Chày Vôi”.
(6) Hoàng Xuân Nhị (1914- 1991): Quê Hà Tĩnh.. Sau khi đỗ bằng tú tài toàn phần, Hoàng Xuân Nhị ghi tên theo học tại Khoa Luật Trường Đại học Hà Nội. Năm 1936, ông được Hội Khuyến khích du học cho một nửa suất học bổng đi du học tại Pháp. Sau hội nghị Fontainebleau , Hoàng Xuân Nhị cùng một số trí thức yêu nước khác hưởng ứng lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên tầu về nước rồi vào chiến khu Đồng Tháp Mười tham gia kháng chiến. Năm 1947, Chính phủ kháng chiến bổ nhiệm Hoàng Xuân Nhị làm Giám đốc Viện Văn hóa kháng chiến. đặc biệt, khi ngành văn hóa thống nhất với ngành giáo dục, Hoàng Xuân Nhị được bổ nhiệm làm Giám đốc Nha Giáo dục nam Bộ. Ngoài ra, ông còn được cử làm Ủy viên Ủy ban kháng chiến Hành chính Nam Bộ và tham gia Ban chấp hành ĐCS khu Ủy khu 9. Sau 1954, Hoàng Xuân Nhị tập kết ra Miền Bắc và dạy học tại Trường ĐH Sư phạm Hà Nội…
(*) Aleksandr Sergeyevich Pushkin (1799-1837) là đại thi hào - “Mặt trời của Thi ca Nga”. Pushkin còn là nhà văn, nhà viết kịch tài ba. Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại. Ông mất khi mới 37 tuổi nhưng đã để lại nhiều kiệt tác như "Evegny Onegin", "Người con gái viên đại úy", "Con đầm bích", "Boris Godunov"... Ông được coi là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn và tả thực nước Nga thế kỷ 19. Sau này, Bá tước Lev Nikolayevich Tolstoy (1828 -1910) là một tiểu thuyết gia vĩ đại nhất trong tất cả các nhà viết tiểu thuyết, đặc biệt nổi tiếng với kiệt tác Chiến tranh và hoà bình, thì không vì thế mà "Người con gái viên đại úy” bị lu mờ đi!
(**)Đinh Công Tráng (1842 - 1887) là lãnh tụ chính của khởi nghĩa Ba Đình trong phong trào Cần vương chống Pháp ở cuối thế kỷ 19 tại VN. Quê làng Trinh Xá, huyện Thanh Liêm (nay là xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Khi quân Pháp tiến hành công cuộc xâm chiếm Bắc Kỳ, đang là một chánh tổng, ông đến gia nhập đội quân của Hoàng Kế Viêm, rồi tham gia trận Cầu Giấy ngày 19 tháng 5 năm 1883. Tháng 7 năm 1885, sau khi kinh thành Huế thất thủ, tướng Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi lên chiến khu Tân Sở (Quảng Trị) ban dụ Cần Vương kêu gọi toàn dân kháng chiến. Hưởng ứng, Đinh Công Tráng bèn cùng các đồng chí của mình đã chọn Ba Đình (trên vùng đất thuộc ba làng: Mậu Thịnh, Thượng Thọ, Mỹ Khê thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa) làm căn cứ kháng chiến lâu dài.Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nước mênh mông, tách biệt với các làng khác. Căn cứ này gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một cái đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia. Có thể nói căn cứ Ba Đình có vị trí tiêu biểu nhất, là một chiến tuyến phòng ngự quy mô nhất thời kỳ Cần Vương cuối thế kỷ 19. Chính người Pháp đã phải thừa nhận “1886-1887, cuộc công hãm Ba Đình là quan trọng nhất, cuộc chiến đấu này thu hút nhiều quân lực nhất và làm cho các cấp chỉ huy lo ngại nhiều nhất". Chính vì vậy, mà quân Pháp rất quyết tâm đánh dẹp. Trận ngày 18 tháng 12 năm 1886: Quân Pháp gồm 500 lính, có đại bác 80 ly yểm hộ, tấn công căn cứ Ba Đình từ hai hướng, nhưng đều bị nghĩa quân đánh lui. Sau trận này, thấy không thể thắng nhanh được, nên quân Pháp chuyển sang phương án bao vây. Trận ngày 6 tháng 1 năm 1887 - 21 tháng 1 năm 1887: Ngày 6 tháng 1 năm 1887, quân Pháp lại cho quân tấn công đợt nữa, nhưng cũng không thành công, ông bèn cho quân rút ra xa, tổ chức bao vây và chờ viện binh. Sau khi cắt đứt xong đường tiếp tế của nghĩa quân, Đại tá Brissaud liền cho quân tiến đánh căn cứ Ba Đình. Lần này, Brissaud vừa cho phun dầu đốt cháy các lũy tre, vừa cho nã pháo tới tấp, biến căn cứ Ba Đình thành một biển lửa. Trước sức mạnh của đối phương, đêm 20 rạng 21 tháng 1 năm 1887, Đinh Công Tráng cho quân phá vòng vây, rút về căn cứ dự phòng ở Mã Cao. Sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân Pháp chiếm được cứ điểm Ba Đình. Sau khi ra sức tàn phá, họ còn bắt buộc triều đình nhà Nguyễn phải xóa tên ba làng trên bản đồ hành chính. Trận đồn Mã Cao: Đinh Công Tráng vừa đến Mã Cao, chưa kịp củng cố lực lượng, thì đã bị quân Pháp đuổi theo tấn công. Sau 10 ngày giao tranh ác liệt, đến ngày 2 tháng 2 năm 1887, căn cứ Mã Cao mới bị đánh hạ. Sau đó, một số đông nghĩa quân rút lên Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây Thanh Hóa sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Một số khác theo Đinh Công Tráng rút về Nghệ An. Về Nghệ An, Đinh Công Tráng định gây lại phong trào, nhưng đến ngày 5 tháng 10 năm 1887 Ngày Đinh Công Tráng hy sinh trong một trận chiến đấu với đối phương tại làng Tang Yên, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An .
(***) Xin xem nguyên văn bài viết: Bùi Quang Đoài: Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị
Trên báo Nhân dân ngày 16 và 17-10-56 có đăng bài “Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta” của ông Hoàng Xuân Nhị.
Bài này trên căn bản cũng không khác gì những bài của các ông Nguyễn Chương, Xuân Trường, Quang Đạm cũng đăng trên báo Nhân dân và cùng nằm trong phạm trù những ý kiến là có ý đổ cho anh em Nhân văn và Giai phẩm là muốn tách rời văn nghệ khỏi chính trị, chịu ảnh hưởng của nhân văn tư sản, không chịu sự lãnh đạo của Đảng, nói xấu chế độ v.v…
Sau đây là những ý kiến tôi đặt lại vấn đề với ông Hoàng Xuân Nhị. Trong nhận thức sai lầm của ông và ý kiến văn học của Lê-nin.
Trong bài “Tổ chức của Đảng và văn học của Đảng” mà ông Hoàng Xuân Nhị dịch là “tổ chức của Đảng
và văn học có Đảng tính” của Lê-nin đã nêu lên hai vấn đề:
1. Vấn đề văn học của Đảng nghĩa là văn học tuyên truyền cho những nguyên lý tư tưởng và tổ chức của Đảng Bôn-sê-vik.
2. Vấn đề đảng tính trong sự sáng tác văn học, theo nghĩa rộng của nó. (Những ý kiến này chúng tôi dựa vào tập Lê-nin và những vấn đề văn học Nga của Boris Meilakh. NXB Xã hội 4-4-56).
Sự phân biệt hai vấn đề này rất quan trọng, nếu không rất dễ đi đến những hành động máy móc, hẹp hòi, thô bạo.
Trong vấn đề văn học của Đảng, Lê-nin viết: “Tất cả văn học của Đảng, dù là địa phương hay Trung ương phải phục tùng một cách vô điều kiện Hội nghị của Đảng và những tổ chức địa phương hay trung ương của Đảng. Sự tồn tại của một văn học của Đảng mà không liên hệ với Đảng theo tổ chức thì không thể dung nạp được.” (Lê-nin toàn tập cuốn X, trang 144). Đó là thời kỳ trước cách mạng 1905-1907, Đảng Bôn-sê-vik tích cực hoạt động chống bọn Men và báo chí của chúng đang tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Mác-xít dưới danh nghĩa “mác-xít”. Ông Hoàng Xuân Nhị đã máy móc đưa thời gian lịch sử của thời kỳ trước cách mạng 1905-1907 đem áp dụng vào hoàn cảnh xă hội ta hiện nay. Chính trong nguyên tắc căn bản đó, Lê-nin đã nhắc nhở các nhà văn của Đảng là “Sự nghiệp văn học phải trở thành một bộ phận trong toàn bộ sự nghiệp của giai cấp vô sản, phải trở thành một bộ phận cấu tạo trong công tác của Đảng…” Theo tinh thần nguyên tắc đó các nhà văn của Đảng, các nhà văn đảng viên, các nhà văn viết trên báo chí của Đảng, tuyệt đối phải chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, của tổ chức của Đảng, không được nhân danh Đảng để tuyên truyền những quan điểm chống Đảng (cuốn X, trang 31), và khi Lê-nin viết “đả đảo những nhà văn học phi Đảng” (mà ông Hoàng Xuân Nhị chú thích sai là chống lại Đảng thời ấy) chính là nhằm phản đối những nhà văn đảng viên chủ trương đứng trên tổ chức của Đảng, phản đối những nhà văn Men-sơ-vích tán thành sự công tác của nhà văn xã hội dân chủ với các tờ báo tư sản (lúc bấy giờ là giai cấp cầm quyền). Nó hoàn toàn không giống một chút nào với trường hợp của anh em Nhân văn và Giai phẩm đương đấu tranh đòi mở rộng tự do dân chủ chống những tệ lậu của lãnh đạo. Gán ghép như ông Hoàng Xuân Nhị tỏ ra rằng một là ông Nhị không tiêu hóa được tài liệu, hai là ông Nhị đã lợi dụng tài liệu một cách xuyên tạc. Nó không đúng với tinh thần trung thực của người trí thức.
Ông Nhị còn đề nghị: “Bài của Lê-nin được viết ra cuối năm 1905 thời mà Đảng chưa lên nắm chính quyền. Đến lúc Đảng đã nắm chính quyền rồi thì lẽ cố nhiên nguyên tắc Đảng lãnh đạo và tổ chức lãnh đạo chuyên môn lại càng chặt chẽ hơn nữa”.
Sáng tỏ và chặt chẽ hơn, đồng ý. Nhưng chặt chẽ như thế nào? Có phải chặt chẽ là văn học nhất cử nhất động phải tuân theo ý kiến của một phái, chặt chẽ là chuyên môn vâng theo những ý kiến về chuyên môn của một số lãnh đạo không am hiểu về chuyên môn không?
Danh từ chặt chẽ buông xuôi như thế, rất có thể dẫn đến những sai lầm tai hại. Hoàng Xuân Nhị có nhớ kinh nghiệm đau xót của nhóm Prô-le-kun và nhóm R. A. P. P không?
Vấn đề thứ hai là vấn đề đảng tính trong văn học.
Lê-nin đã giải thích văn học có đảng tính như thế nào? Trong sự đấu tranh chống lại văn học tư sản địa vị chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa, vô chính phủ v.v… “Lênin đã đề nghị sáng tạo ra một nền văn học xã hội chủ nghĩa, thực sự tự do và liên hệ công khai với văn học của giai cấp vô sản. Theo ý Lê-nin thì nền văn học đó phải thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Nó phải phục vụ cho hàng triệu triệu người lao động, những người con ưu tú, sức mạnh và tương lai của đất nước. Nền văn học đó phải là mối dây nối giữa kinh nghiệm quá khứ và cuộc đấu tranh hiện đại của giai cấp vô sản.” (B. Meilakh).
Văn học có đảng tính là như thế. Nó là một nền văn học “thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa, công khai bênh vực quyền lợi của nhân dân đứng trên lập trường của Đảng”. Cho nên văn học có đảng tính tuyệt đối không có nghĩa là văn học của những nhà văn trong tổ chức của Đảng. Càng tuyệt đối không có nghĩa là bắt buộc tất cả mọi nhà văn phải vào tổ chức của Đảng. Một tấm thẻ đảng viên không thể bảo đảm được đảng tính của một tác phẩm văn học. Trái lại một tác phẩm văn học có đảng tính rất có thể là của một nhà văn đứng ngoài tổ chức của Đảng.
Ví dụ: Mai-a-cốp-ski, Lỗ Tấn v.v…
Văn học có đảng tính nghĩa là văn học có lập trường đấu tranh rõ rệt trong “ý nghĩa thống nhất và tự nguyện” của những người sáng tác văn học xã hội chủ nghĩa. Như thế thì người sáng tác có đủ mọi quyền tự do của mình, tất nhiên cả quyền tự do tư tưởng, có quyền đi sâu vào từng sở thích riêng của mình. Lê-nin đã viết:
“Trong lãnh vực đó, tuyệt đối cần phải bảo đảm một sự tự do rộng lớn cho sáng kiến cá nhân, cho các khuynh hướng cá nhân, bảo đảm sự tự do tư tưởng và sức tưởng tượng, sự tự do về hình thức và về nội dung.” (Cuốn X trang 28)
Ta thấy ngày trước Lê nin đã có một quan niệm rộng rãi trong sự sáng tác văn học. Chính Lê-nin đã khiêm tốn trả lời Clara Zetkin khi họa sĩ này hỏi ý kiến Lê-nin về họa lập thể và vị lai:
“Tôi không biết nhiều về lãnh vực đó, nhưng tôi nghĩ rằng nếu những nhà nghệ sĩ trẻ tuổi biểu lộ nhiều cảm xúc của mình trước những xu hướng đó thì nó phải có một lý do hợp lý và người ta cần phải phân tích cái lý do đó theo quan điểm xã hội học”. (Les Lettres Francaices số 609).
Lê-nin đã không kết án phái họa đó và Lê-nin đã đặt vấn đề cần phải phân tích nghiên cứu nội dung xã hội của nó…
Do sự không phân biệt nổi hai vấn đề văn học của Đảng và văn học có đảng tính trên, nên chỉ quan niệm về tự do tư tưởng ông Nhị cũng đã ngã vào những sai lầm nghiêm trọng:
Hoàng Xuân Nhị chứng minh rằng sở dĩ các nhà văn nghệ được tự do tư tưởng là nhờ Đảng. Ông đã đem ví dụ con chim bay trên bầu trời xanh để làm chân lý phổ biến muôn đời. Trong lịch sử tư tưởng của con người, người văn nghệ sĩ cũng như người khoa học, triết học qua bao chế độ khác nhau, dù bị giai cấp thống trị hành hạ, giết chết cũng không vì quyền uy mà hủy bỏ ý kiến sáng tạo của mình: M. Servet và L. Vanini trên giàn củi lửa cũng không từ bỏ tư tưởng khoa học của mình; Cao Bá Quát đâu có vì lưỡi đao bạo lực của triều Nguyễn mà mất cái khí thế ngang tàng bất khuất của kẻ sĩ biết tự trọng.
Xuất phát từ lệch lạc đó, Hoàng Xuân Nhị cho rằng nhờ có Đảng mới có tự do tư tưởng. Như ý kiến tôi vừa trình bày, tôi hỏi lại ông Nhị là có Đảng rồi mới có quần chúng hay có quần chúng rồi mới có Đảng? Như thế thì rõ ràng là không phải có Đảng người văn nghệ sĩ mới có tự do tư tưởng mà ngay những thế kỷ trước cũng như thời kỳ trước cách mạng, mặc dầu thực dân đàn áp khủng bố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan vẫn kiên quyết tự do tư tưởng, tố cáo "cái xã hội chó đểu" buộc tội giới cầm quyền bấy giờ. Lúc ấy họ ấy họ có là đảng viên đâu; chỉ có là sáng tác phẩm của họ chịu ảnh hưởng ít nhiều của phong trào đấu tranh cách mạng mà thôi.
Như thế thì tự do tư tưởng không phải là một vấn đề do Đảng ban ơn cho quần chúng như ông Nhị đã lầm tưởng. Sở dĩ quần chúng văn nghệ sĩ mến Đảng, tin Đảng, thừa nhận sự lãnh đạo là vì Đảng là người lính tiền phong trong đội quân tự do tư tưởng đó, đã đấu tranh vì quyền lợi của nhân dân lao động cũng là mục đích của họ đấu tranh trong sáng tác văn học. Ðảng tạo điều kiện tốt cho người ta tự do tư tưởng.
Trên đây, tôi đã trả lời ông Hoàng Xuân Nhị về một điểm lý luận chủ chốt trong bài của ông.
Tôi xin nói qua một số điểm khác. Để chứng tỏ những non yếu trong kiến thức của ông Nhị, và đề nghị ông nên khiêm tốn học hỏi hơn.
Dưới cái đầu đề rất to "Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta", dưới những đề mục có vẻ khoa học ông Nhị đã có những lập luận nông cạn và sơ đẳng.
Chẳng hạn trong mục "Quan điểm khoa học" ông viết: "không sùng bái cá nhân vì bản thân mình quá sùng bái cá nhân mình thì không hay ho gì hơn và chắc cũng đã kém hay ho hơn là sùng bái lãnh tụ".
Thật là lý luận buồn cười. Theo ông Nhị thì có lẽ khuyết điểm sùng bái cá nhân nặng nhẹ tùy theo cấp bực, sùng bái cán bộ cao cấp thì hay ho hơn sùng bái cán bộ trung cấp v.v… Thật là phê bình bệnh sùng bái cá nhân mà bệnh sùng bái cá nhân nó lại thò ra ngay từ túi mình. Quan điểm ông đưa ra không khoa học như ông tưởng.
Đấy là về khoa học. Bây giờ về nghệ thuật. Nói về chủ nghĩa lập thể và Picasso, ông Nhị viết: "Trong khoảng 8 năm họa sĩ đã tiến nhiều… chúng ta không hoan nghênh phần lập thể hoặc đa đa chủ nghĩa nơi họa sĩ là đúng thôi" (thật là oan cho Picasso vì Picasso có theo chủ nghĩa đa đa bao giờ đâu, có lẽ ông Nhị nên nghiên cứu thêm về văn học và nghệ thuật thế giới hồi đầu thế kỷ XX để nắm vững hơn) "… Và phần tiến bộ của họa sĩ vượt khỏi hẳn chủ nghĩa đa đa, như con chim bồ câu hòa bình…"
Chết thật! Nói về tác phẩm nghệ thuật của Picasso mà chỉ nhắc đến con chim bồ câu hòa bình thôi thì tai hại quá. Chúng ta không phủ nhận giá trị của con chim bồ câu, nhưng không biết ông Nhị có biết đến bức Guernica hồi chiến tranh Tây Ban Nha và bức Chiến tranh và Hòa bình hồi gần đây không? Nó vẫn lập thể đấy ông Nhị ạ! Mà hội họa thế giới vẫn công nhận nó, mà Aragon người phụ trách văn nghệ của Đảng Cộng sản Pháp vẫn ca ngợi nó.
Ông Nhị thường hay dẫn Lê-nin, sao ông Nhị không học Lê-nin về thái độ khiêm tốn, tôn trọng tự do sáng tác và nghệ thuật độc đáo, tôn trọng cá tính con người? Ông Nhị đã vội vàng chê trách người ta là quá ư nông nổi…
Ông Nhị sa vào sai lầm đó cũng dễ hiểu. Bởi lập luận như Palisse thì nguyên nhân chính là vì Lê-nin là Lê nin và ông Hoàng Xuân Nhị mặc dầu luôn nhắc đến Lê-nin cũng vẫn chỉ là ông Hoàng Xuân Nhị.
Trong một bài báo ngắn tôi đã cố gắng trình bày vài sai lầm hoặc vài thiếu sót của ông Nhị về mặt kiến thức. Tôi xin đề nghị với ông Nhị một điều mà ông Nhị đã từng đề nghị với anh em Nhân văn và Giai phẩm: cố gắng nghiên cứu, suy nghĩ để giữ cho được bản chất trung thực của người trí thức.
(hết)