Thơ Vương Duy ( 699-759), Nam Dao dịch
tự Ma Cật, người Sơn Tây, đỗ Tiến Sĩ năm 21 tuổi. Tài hoa trong thi- họa- nhạc, thơ Vương Duy là những bức tranh có âm thanh. Tô Thức bình : ‘’ đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa, xem họa Ma Cật, thấy trong họa có thơ’’. Vương Duy xuất thế, sống thanh tịnh, thơ nhuốm tư tưởng Phật giáo, đời sau gọi ông là Phật thi.
Vị thành khúc
Vị thành triêu vũ ấp khinh trần
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương quan vô cố nhân
Khúc hát thành Vị
Thành Vị mưa mai đường bụi ướt
Quán khách xanh ngần liễu trước sân
Khuyên ai rượu cạn cho một chén
Lìa Dương quan là không cố nhân
Tống Xuân từ
Nhật nhật nhân không lão
Niên niên xuân cánh qui
Tương hoan tại tôn tửu
Bất dụng tích hoa phi
Tiễn xuân
Mỗi năm xuân lại về &
Mỗi ngày người già đi
Rượu cùng cui, cứ uống
Hoa rơi, tiếc làm chi
Trúc Lý quán
Độc tọa u hoàng lý
Đàn cầm phục trường khiếu
Thâm yâm nhân bất tri
Minh nguyệt lai tương chiếu
Bên quán trúc
1²
Một mình bên khóm trúc
Miệng sáo, tay gẩy đàn
Rừng sâu, nào ai biết
Đánh bạn cùng ánh trăng
2
Bên khóm trúc, một mình
Tay ôm đàn, miệng sáo
Rừng sâu, ai biết ai
Trăng ghé, soi lên áo
Tống biệt
Hạ mã ẩm quân tửu
Vấn quân hà sở chi
Quân ngôn bất đắc ý
Qui ngọa Nam sơn thùy
Đãn khứ mạc phục vấn
Bạch vân vô tận thì
Tiễn biệt
Xuống ngựa, tay nâng chén
Hỏi người đâu đến đây
Người rằng không đắc ý
Về ẩn núi Nam này
Khách đi, xin đừng hỏi
Mặc cho mây trắng bay
Điểu Minh giản
Nhàn nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung
Tiếng chim khe núi
Thân nhàn, hoa quế rơi
Đêm lặng, núi quạnh quẽ
Trăng lên, chim rừng sợ
Chíu chít kêu trong khe
Tích vũ Võng Xuyên trang tác
Tích vũ không lâm yên hỏa trì
Chưng lẽ xuy thử hướng đông ti
Mạc mạc thủy điền phi bạch lộ
Âm âm hạ mộc chuyển hoàng ly
Sơn trung tập tĩnh quan chiêu cận
Tùng hạ thanh trai chiết lộ quì
Dã lão dữ nhân tranh tịch bãi
Hải âu hà sự cánh tương nghi
Mưa Võng Xuyên
Mưa trong rừng vắng khói mang mang
Cơm nếp, canh lê đã sẵn sàng
Xanh ngát cánh đồng cò lượn trắng
Âm u cây vẳng tiếng oanh vàng
Giữa núi tĩnh tâm nhìn cây mọc
Dưới thông chay tịnh gạt cành ngang
Lão chẳng dám tranh ai chỗ đậu
Hải âu sao lại vội bay sang
Sơn trung
Kinh khê bạch thạch xuất
Thiên hàn hồng diệp hi
Sơn lộ nguyên vô vũ
Không thúy thấp nhân y
Trong núi
Suối Kinh lòng đá trắng
Trời lạnh, lá phớt hồng
Mưa chẳng rơi, sương núi
Ướt áo thấm vào trong
Lộc trại
Không sơn bất kiến nhân
Đãn văn nhân ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng
Trại Lộc
1-
Núi vắng chẳng bong người
Văng vẳng đâu tiếng nói
Nắng lẻn vào trong rừng
Rêu xanh mầu nắng mới
2-
Núi vắng không một bóng
Loáng thoáng nghe tiếng người
Giữa rừng sâu le lói
Rêu xanh mầu nắng tươi
Hí đề bàn thạch
Khả liên bàn thạch lâm tuyền thủy
Phục hữu thùy dương phất tửu bôi
Nhược đạo xuân phong bất giải ý
Hà nhân suy tống lạc hoa lai
Viết chơi trên đá
Thương cho tảng đá chìm suối nước
Bù lại thùy dương chạm miệng bôi
Nếu bảo gió xuân không cố ý
Thì ai thổi để cánh hoa rơi
Hàn thực dỉ thượng tác
Quảng-Vũ thành biên phùng mộ xuân
Văn-Dương qui khách triêm lệ bố
Lạc hoa tịch tịch đề sơ điểu
Dương liễu thanh thanh độ thủy nhân
Thơ để buổi hàn thực
Cạnh thành Quảng-Vũ nhìn xuân chết
Ngoái lại Văn-Dương lệ tuôn tràn
Hoa lặng lẽ rơi, chim núi hót
Liễu xanh xanh biếc, kẻ đò sang
Lâm cao đài tống Lý Thập Di
Tương tống Lâm Cao đài
Xuyên nguyên hương hà cực
Nhật mộ phi điểu hoàn
Hành nhân khứ bất tức
Tiễn họ Lý
Tiễn nhau trên đài cao
Đồng xa nhìn ngút mắt
Chiểu rơi, cánh chim chao
Theo người đi xa lắc
Sĩ Hưng Tông Lâm Đình
Lục thụ trùng âm cái tứ lân
Thanh đài nhật hậu tự vô trần
Khoa đầu cơ cứ trường tùng hạ
Bạch nhãn khán tha thế thượng nhân
Thăm người khổ hạnh
Cây xanh lá rủ rờm che bóng
Rêu biếc phủ lên lớp bụi trần
Đầu trần, chân xếp, tùng dựa gốc
Mắt trắng nhìn lên xem thế nhân
Mạnh thành
Tân gia Mạnh thành khẩu
Cổ mộc dư suy liễu
Lai giả phục vi thùy
Không bi tích nhân hữu
Thành Mạnh
Nhà mới cửa thành Mạnh
Rặng liễu giờ đã tàn
Ai kẻ đến đây ở
Thương người cũ, thở than
Lâm Hồ Đình
Khinh chu nghinh thượng khách
Du du hồ thượng lai
Đương hiên đối tôn tửu
Tứ diện phù dung khai
Đình Lâm Hồ
Thuyền con ra đón khách
Đầu hồ dập dềnh xa
Ngoài hiên nào cùng uống
Phù dung nở rộ hoa
Chung Nam Biệt Nghiệp
Trung tuế phả hiếu đạo
Văn gia Nam sơn thùy
Hứng lai môi độc vãng
Thắng sự không tự tri
Hành đáo thủy cùng xứ
Tọa khán vân khởi thì
Ngẫu nhiên trị lâm tẩu
Đàm tiếu vô hoàn kỳ
Nhà ở núi Nam
Nửa đời duyên ngộ đạo
Tuổi già về Nam sơn
Cao hứng quay chân lại
Nào có chỗ nào hơn
Lần theo mạch nguồn nước
Ngồi ngắm đám mây vờn
Giữa rừng bỗng gặp bạn
Cười nói thỏa một cơn
Kỳ Hồ
Xuy tiêu lâm cực phổ
Nhật mộ tống phu quân
Hồ thượng nhất hồi thủ
Sơn thanh quyển bạch vân
Hồ Kỳ
Tiếng sáo xa bờ nước
Tiễn chồng đi, cuối ngày
Trên hồ quay đầu lại
Núi xanh đầu trắng mây
Thư Sự
Khinh âm các tiểu vũ
Thâm viện họa dong khai
Tọa khán thương đài sắc
Dục thượng nhân y lai
Truyện kể
Gác mưa rơi nhe nhẹ
Phòng vẽ chực mở ra
Ngồi ngắm rêu xanh nhớt
Chợt bám vào áo ta
Tân Di
Mộc mạt phù dung hoa
Sơn trung phát hồng ngạc
Giản hộ tịch vô nhân
Phân phân khai thả lạc
Bến Tân Di
Đầu cành phù dung nở
Giữa núi rộ hồng hoa
Nhà yên, người vắng bóng
Tha hồ hoa nở ra
Bình Trì
Xuân trì thâm thả khoáng
Hội đãi khinh chu hồi
Ma ma lục bình hợp
Thùy dương tảo phục khai
Ao lặng
Ao xuân sâu, nước cả
Đợi chiếc thuyền câu về
Lục bình dạt đến tụ
Gió thổi lại trôi đi
Hoa Tử Cương
Phi điểu khứ bất cùng
Liên sơn phục thu sắc
Thượng hạ hoa tử cương
Trù trướng tình hà cực
Gềnh núi
Chim bay, chim bay mãi
Trừng trùng núi, sắc thu
Xuống rồi lên, gềnh núi
Tình ơi, đã cùng chưa