I. Mười ba ý kiến về thơ, về dân tộc và hiện đại.
1. Bản sắc Việt Nam 1.000 năm qua gắn chặt với “văn hóa làng”. 100 năm cuối cùng chứng kiến sự rạn vỡ của văn hóa làng trước sự xâm nhập của văn hóa “á - hiện đại” Âu Mỹ, sự cưỡng hôn đẻ ra văn hóa “tiểu đô thị nửa mùa”. Sắp ập tới thiên kỉ thứ ba, thế giới bước vào hậu hiện đại. Việt Nam bước vào hiện đại hóa chủ động mở cửa cầu hôn, ai biết được thế hệ năm 2010 sẽ nhìn cái "bản lai diện mục Việt Nam" ra sao.
2. Người phương Tây thích coi múa rối nước, một trò vui kì lạ đối với đời sống tiện nghi của họ. Tôi rùng mình khi thấy những nữ nghệ sĩ của chúng ta ngâm mình trong nước bẩn và lạnh để giữ gìn những kỉ niệm thi vị của một quá khứ đau khổ!
3. Có sự khác nhau căn bản giữa cuộc chiến đấu của một dân tộc chống lại nguy cơ vong quốc với cuộc chiến đấu của mỗi cá thế chống lại nguy cơ vong thân trong xã hội hiện đại. Cuộc trước hào hùng, tập thể, còn cuộc sau âm thầm, đơn độc. Để đạt tới giác ngộ, không có con đường chung, mỗi người có một công án riêng cho mình.
4. Tất cả các cuộc cách mạng, cách tân thi pháp trên thế giới 100 năm nay chỉ có một ý nghĩa: giải phóng nhà thơ khỏi mọi khuôn thước nhanh chóng trở thành cứng nhắc trước sự biến động và phân hóa ngày càng tăng tốc của xã hội hiện đại. Thi pháp của thời hiện đại là thi pháp của từng nhà thơ, thậm chí của từng thời khắc trong nhà thơ.
5. Sẽ đến lúc bản sắc dân tộc không phải được hình dung như một gương mặt trung bình cộng khuyết danh của cộng đồng, mà được đúc kết từ những cá tính sáng tạo độc đáo, mạnh mẽ nhất.
6. Thơ hiện đại là nỗi khao khát tự nhận thức triệt để của con người hiện đại. Muốn đào tới "gốc rễ của tiếng kêu" (Lorca). Không còn tin ở những kết luận, giải thích minh thị sau khi mọi dữ kiện tâm linh đã đi qua cái computer chương trình hóa có tên là “lí trí”, nó đòi ghi hình trực tiếp diễn biến vật lộn, sinh thành trong bóng tối của bản năng.
7. Sự "cô đơn toàn phần" (Đặng Đình Hưng), hiện diện im lặng của vô thức tạo cho thơ hiện đại một thứ quyền lực mà thơ trước đó có lẽ chưa biết tớí, ám ảnh đến mức gây bất an.
8. Lật đổ chuyên chế của lí trí, nghệ thuật hiện đại phương Tây phát hiện được mặt nạ ma thuật châu Phi và con mắt thứ ba của Thiền. Sự hội nhập Đông Tây là một đặc trưng của tinh thần hiện đại.
9. Dân ca hát vào buổi sáng, thơ cổ điển viết ban ngày, thơ lãng mạng chiều tà, thơ tượng trưng lúc tối, thơ siêu thực nửa đêm, thơ đương đại viết lúc không đêm không ngày không chiều không sáng.
10. Không Lộ thiền sư kể chuyện ông tìm được đất tốt, lai láng tình quê, có khi ông lên thẳng đỉnh núi kêu dài một tiếng lạnh cả thái hư. Nhà thơ hiện đại chẳng phân giải gì cả. Tự nhiên hét lên một tiếng. Tiếng hét ấy là thơ hay khoảng im lặng sau đó là thơ?.
11. Thơ Việt Nam sẽ là bộ phận văn hóa gìn giữ được bản sắc dân tộc vững vàng nhất, vì nó ít thực dụng nhất, vì nó bấu víu vào cái phương tiện mang tính dân tộc triệt để nhất là ngôn ngữ.
12. 100 năm qua, tiếng Việt biến đổi rất nhiều về từ vựng và cú pháp - những yếu tố gắn nhiều với chức năng thông tin giao tiếp thực dụng, nhưng nhạc tính của nó - yếu tố ít tính thực dụng nhất, thì không thay đổi. Nhiều bài thơ lúc đầu bị kêu "đặc Tây" rồi lại được chấp nhận như di sản văn hóa dân tộc, là nhờ nhạc tính của từ ngữ. Cũng như nhiều ca khúc, hòa âm khúc thức "đặc Tây" nhưng vẫn Việt Nam nhờ ca từ bám vào đặc điểm đơn âm đa thanh của tiếng Việt.
Nắm vững những bí mật của nhạc tính tiếng Việt là bảo đảm chắc chắn nhất bản sắc dân tộc của thơ.
13. Trong các quan niệm của thơ hiện đại, có quan niệm đề cao, thậm chí tuyệt đối hóa, mục đích sáng tạo ngôn ngữ của thơ. Có người gọi đó là "dòng chữ" (để đối lập với "dòng nghĩa" là dòng xem trọng nội dung ý nghĩa của thơ). "Dòng chữ" muốn cất bỏ cho ngôn ngữ thơ cái ách ngữ nghĩa lắm khi biến nó thành con bò chở thông tin thông tục, muốn tạo nghĩa mới cho con chữ, muốn sống lại sự trinh nguyên của con âm. Tiếng Việt là một trong số ít ngôn ngữ có cả một không gian cho những phút tự do bay bổng đầy khoái cảm của ngữ âm, với sức khơi gợi những cảm giác - liên tưởng, những trạng thái tâm linh chưa có tên gọi. Hình như chính cái đặc sắc này của tiếng Việt tạo ra chất "mông lung duy cảm" của thơ Việt. Phải chăng đó là bản sắc của thơ Việt Nam?
II. Thử nói về bản sắc dân tộc của một bài thơ hiện đại.
Bến lạ của Đặng Đình Hưng là bài thơ đáng coi là hiện đại cả về quan niệm lẫn thi pháp. Đó là bài thơ văn xuôi dài viết khoảng cuối những năm 1970, khi Đặng Đình Hưng ngoài 50 tuổi, sau chặng đường hơn 25 năm âm thầm thể nghiệm một con đường thơ riêng với ảnh hưởng của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm. Đây cũng là lúc ông phát hiện ung thư trong phổi.
Bài thơ là một độc thoại trong nỗi cô đơn khó lòng chia sẻ. Một cuộc "tổng tảo mộ" ở cuối cuộc đời đầy bi kịch và thất bại, một dòng tâm thức rối bời những tia kí ức khi tỏ khi mờ, những khát khao thèm thuồng vô vọng từ tầm thường đến siêu hình, những lời tự phát xét không thiếu mỉa mai chua chát, thỉnh thoảng lại nhói lên những vết đau phải kêu thành tiếng, và ám ảnh tất cả là hình ảnh cái "Bến lạ" bí mật quyến rũ phấp phỏng lời hứa hẹn đa nghĩa ở cuối cuộc ra đi sau chót.
Một cuộc phơi bày tận cùng bản ngã trong một bút pháp rất gần với lối "viết tự động" (écriture automatique) mà trường phái siêu thực đã thể nghiệm, để ngòi bút dẫn dắt bởi một lực giấu mặt, khiến đồng hiện bên nhau những mảnh vụn thực tại xa cách về không gian thời gian giống như trong giấc mơ, hòa tấu những ngôn ngữ của trí tuệ, tình cảm, trực giác, tiềm thức và tâm linh. Nhưng thực ra, Đặng Đình Hưng biết phối hợp sự buột miệng tình cờ với lao động kĩ lưỡng trên từng con chữ, từng cách ngắt câu xuống dòng để tạo hiệu quả tổng lực cho bài thơ.
Đường lối hiện đại ấy chẳng hề làm hư hại bản sắc Việt Nam của bài thơ.
Việt Nam ở toàn bộ không khí gợi những không gian thời gian cụ thể với những thực tế của đời sống người Việt, đời sống tác giả.
"Tôi lại đi...
Giữa cái nong hình dáng lưng tôi, một bảng đen trước mặt, một vòng phấn dưới chân, dính dính... những con 8 lộn dọc nhẵn thín nam châm gói trong hạt thóc giống của không biết.
Tôi khắc biết mênh mông một cái bẹn Epicure ngập chìa truồng bốn phía cơn mưa tu lơ khơ xanh đỏ con sập sành - bọ ngựa bám vào nhảy tung! Cõng đi chơi trên lưng Nilông - Cactông của Định mệnh!
Tôi hề biết
Kể cả quả mít nứt
Tôi đã tìm ở sau cái gương/ cũng không có gì hết
Tôi đã tiếp đau thương những nhỏ nhỏ thường thường
Đã húp ra đi từng bát những nhạt nhạt mềm mềm
và rất ngon
Tôi đã bưng
Nhẹ thôi
/ Một nong nghiêng cơn mưa ở trên lưng alfa
cõng tôi Uynh đơ toa... tôi cõng phạt alfa.
Có lẽ dẹt. Bởi trên ngực, cứ thình thình một tiếng đập.”
Đặng Đình Hưng đã điềm nhiên đưa những từ ngữ, khái niệm hiện đại và quốc tế như "Epicure, tu lơ khơ, nilông-cactông, alfa, Uynh đơ toa" vào chung sống với những "cái nong, hạt thóc giống, con sập sành bọ ngựa, quả mít"... thuần Việt, đúng như sự chung sống của quá khứ và hiện đại trong thực trạng đời sống. Với thế hệ sinh ra và lớn lên ở những đô thị lớn, chắc từ "nilông - cactông" quen thuộc chẳng kém gì "quả mít", và dĩ nhiên quen thuộc hơn "cái nong", còn những hình ảnh "cõng phạt" và "cơn mưa tu lơ khơ" chỉ có thể gợi cảm với những ai có tuổi thơ trường tiểu học trước và sau cách mạng rồi lớn lên trong đời sống tập thể kháng chiến và miền Bắc trước 1975. Chính những giới hạn cụ thể ấy khiến bài thơ không sa vào "lieu commun".
Bản sắc Việt Nam của Bến lạ ở cú pháp không duy lí, những kết hợp trong đó chức năng các chữ lấn vào nhau tạo thành một trường đa tương tác gây nên tính đa nghĩa của câu thơ:
"một nong nghiêng cơn mưa ở trên lưng alfa cõng tôi".
Bản sắc Việt Nam ở sự thực thể hóa tài chính và bất ngờ những cái trừu tượng:
"hạt thóc giống của không biết"
"đã húp ra đi từng bát những nhạt nhạt mềm mềm"
(Sự ra đi trong mơ tưởng bất lực của kẻ nằm khuôn lưng cái nong, có thể húp từng bát, mới vô vị làm sao. Nhưng sau khi ngẫm nghĩ, bỗng buông lời tự dối: "Và rất ngon").
"Cõng đi chơi trên lưng nilông-cáctông của Định mênh" (Định mệnh này hóa ra cũng đò bỏ, đồ chơi).
"Hễ mưa
một cái túi to
tôi ra đường vồ sẹo"
(Tai họa nhiều như ếch sau mưa, con người hóa cái túi đựng tai ương).
"Bao giờ về quê trong
Khoanh một cái ao giặt áo cả ngày" (Ô mai)
(đời đục quá, phải khoanh một cái ao tâm tưởng).
Bản sắc Việt Nam ở những kết cấu đặc biệt của tiếng Việt được dùng với sáng tạo bất ngờ "tôi quên, là quên hết..." "mỗi ăn xong lại một rửa mồm".
Và trên hết, bản sắc Việt Nam ở nhạc tính bên trong thật phong phú nhờ phối âm các từ ngữ, nhất là khai thác khả năng gợi cảm của ngữ âm các từ láy, các từ tự tạo:
"Thứ bảy giờ dâng
Mâng lại mùa mâng (Ô mai)
(Thời gian biến thành không gian, thời gian chín như nỗi niềm da thịt).
"Hôm qua, tôi ghé alfa
Alfa không có nhà
ồ gặp nhau rồi, sao vẫn cứ li
một nắm hột khuya rắc rối vào bến lạ
Đời gì
Sao cứ đi đi, những cái va li cứ về Bến Lạ!"
(Nhạc tính ám ảnh của đoạn kết Bến lạ dựa trên hai chđ âm "a" và "i" lặp đi lặp lại như những bước chân buông hờ hững đều đều về cõi khác trong khi lòng còn chưa nguôi thắc mắc về sự phi lí của kiếp người).
Một lời kết
60 năm sau cuộc Cách mạng thơ mới, thơ Việt Nam lại đứng trước một thách đố lớn lao trước bước chuyển lớn của lịch sư. Lại thêm một dịp để thấy bản sắc dân tộc không hình thành một lần xong.
Bản sắc dân tộc có nên được giữ gìn theo kiểu người già giữ bát hương trong khi dân tộc đang ở tư thế chàng trai xông vào trận mới? Trong thế hai mặt của bản sắc dân tộc, nhà thơ chúng ta chọn vị thế nào?./.
SG-HN 4/1994
(Tham luận tại Hội thảo “Bản sắc dân tộc của thơ Việt Nam”, trường Viết văn Nguyễn Du 1994. Đăng trên tạp chí Sông Hương (Huế) và Tạp chí Thơ (Mỹ) cùng năm). Bản gửi từ tác giả.