Phương Tây mất đi tay Bạo chúa được ưa chuộng của mình.
Florian Gathmann, Ulrike Putz và Severin Weiland, SPIEGEL, 11/02/2011
http://www.spiegel.de/international/world/0,1518,745104,00.html
Ảnh: DPA
http://www.spiegel.de/fotostrecke/fotostrecke-64586-2.html
Cuối cùng, số phận của ông ta đã được định đoạt vì những người biểu tình không chịu lùi bước. Nhân dân trên các đường phố Ai Cập kiên quyết đòi Mubarak phải ra đi. Nhưng Phương Tây đứng bên nhà lãnh đạo này gần như đến phút cuối cùng, bất chấp cái sự thật là tên bạo chúa này đã biến đất nước của y thành một nhà nước cảnh sát và cướp bóc nền kinh tế của nó.
Đúng vào 6 giờ chiều quyết định đó được công bố. Trong một tuyên bố cụt ngủn, Phó Tổng thống Ai Cập Omar Suleiman loan báo rằng Tổng thống Hosni Mubarak, vì “hoàn cảnh khó khăn” trong nước, sẽ từ chức. Suleiman nói quyền lực lúc đầu sẽ được chuyển giao cho quân đội Ai Cập.
Việc từ chức này là một thắng lợi của những người chống đối. Những cuộc biểu tình lớn lên trong nhiều tuần đã liên tục gia tăng áp lực lên Mubarak. Tổng thống đã ba lần ra nói trước nhân dân. Ba lần ông ta nói ông ta không từ chức.
Mubarak, 82 tuổi, cai trị đất nước ông ta đầy ba thập kỷ, nhưng cuối cùng, ngay cả ông ta cũng phải nhận ra rằng ông ta không thể nào đương đầu với những cuộc biểu tình quần chúng khổng lồ đã làm rung chuyển Ai Cập trong 18 ngày qua. Những người biểu tình giản đơn là không chịu bỏ cuộc. Và ngay cả những người từ lâu đứng bên Mubarak - như Tổng thống Mỹ Barak Obama; lãnh đạo các nước châu Âu - cũng từ bỏ ông ta. Họ nói đây là lúc để cho lãnh đạo Ai Cập mở đường cho một khởi đầu mới.
Hàng trăm nghìn người biểu tình chào mừng bản thông cáo tối thứ Sáu trên quảng trường Tahrir - tâm địa chấn của phong trào đòi dân chủ giữa trái tim của Cairo. Sau bài nói tối thứ Năm của Mubarak, trong đó ông ta nói ông ta sẽ ở lại cương vị cho đến tháng Chín, nhiều người đã gần như mất niềm tin rằng họ có thể đạt được yêu cầu chủ yếu của họ. Ngay tự đầu họ đã nói rằng Mubarak phải ra đi.
Trong 30 năm, các đối tác của Mubarak ở Phương Tây đã đứng bên khi ông ta cai trị Ai Cập bằng bàn tay sắt. Được gọi là “con bò cười” trước khi lên lên nắm quyền, cái biệt danh ông ta có được nhờ nụ cười toe toét ông thường phô ra khi đứng cạnh nguyên tổng thống Ai Cập Anwar al-Sadat -- Mubarak nhanh chóng trở thành lãnh tụ mạnh sau khi người tiền-chức (al-Sadat) của ông bị ám sát tháng Mười 1981. Ông trở thành đối tác đáng tin cậy của Phương Tây - và cai trị nước ông bằng bạo quyền.
Chân dung ông ta được treo trong mọi văn phòng trong nước, ông được tận lực ca ngợi trong các diễn văn. Giới trẻ Ai Cập, chiếm quá nửa dân số, chưa hề biết một lãnh tụ nào khác ngoài Mubarak. Thật ra, đối với họ, ông ta đã trở thành hiện thân của tất cả những gì tồi tệ của đất nước này: ít cơ hội về kinh tế, thiếu tự do và không có quyền cất lên tiếng nói phê phán.
Một chính sách bảo hiểm đối với Phương Tây
Nhưng Mubarak có giá trị đối với Phương Tây. Ông ta không bao giờ dao động trong việc duy trì thỏa thuận hòa bình với Israel và đóng một vai trò quá cỡ ở Trung Đông. Ảnh hưởng vươn xa của ông trong thế giới A rập cũng khiến ông trở thành tuyệt đối không thể thiếu được. Các Tổng thống Hoa Kỳ, các nguyên thủ nước Pháp, thủ tướng Anh, - tất cả đều giữ những mối quan hệ gần gũi với tổng thống Ai Cập này.
Ông cũng là vị khách được chào đón ở Đức, và đã gặp gỡ hầu hết các chính khách cao cấp nhất của Berlin. Quả thật, Đức thậm chí đã hiến cho Mubarak một nơi cư trú khả dĩ trước khi ông ta tính chuyện nghỉ ngơi.
Khi Bộ trưởng Ngoại giao Đức Hans-Dietrich Genscher thăm Cairo năm 1982, Mubarak đã “Nhân danh đức Allah Nhân từ” ca ngợi nhà chính khách này một cách quá lố, là “người anh em thân thiết nhất của tôi.” Sau cuộc gặp gỡ đó, khi Genscher ca tụng sự hào phóng của đối tác của ông ta, lãnh tụ Ai Cập đã làm đẹp lòng khách bằng câu trả lời rằng những sự việc như thế chỉ là bình thường giữa những người anh em với nhau.
Gia đình Mubarak rất được Đức trọng vọng. Năm 2004, trường Đại học Stuttgart đã tặng danh hiệu “công dân danh dự” của đại học này cho phu nhân tổng thống, Suzane Mubarak, vì sự nghiệp xã hội của bà và sự tận tụy đấu tranh cho các quyền của trẻ em và phụ nữ. Khi Tổng thống Ai cập được điều trị thoát vị đệm ở một bệnh viện Đức cùng năm ấy, ông đã được nhiều chính khách nổi bật đến thăm, trong đó có Thống đốc bang Bavarian Edmund Stoiber, Bộ trưởng Ngoại giao Joschka Fischer và Thủ tướng Gerhard Schröder. Schröder bào chữa cho việc viếng thăm ấy bằng cách nói rằng, là một trong những nhà chính khách dày kinh nghiệm trong khu vực, Mubarak là “một cố vấn đặc biệt quan trọng.”
Sự tán dương tài năng ngoại giao của Mubarak cho đến gần đây vẫn còn cao như thế. Tháng Ba 2010, ông ta được Thủ tướng Đức Angela Merkel tiếp ở Berlin, trước khi giải phẫu túi mật ở Heidelberg. Tuy nhiên chính phủ Đức vẫn tiếp tục đề cập vấn đề nhân quyền trong các cuộc đàm phán với Mubarak. Chẳng hạn, Bộ trường Ngoại giao Đức Guido Westerwelle nói rằng ông đã đưa vấn đề này ra trong cuộc viếng thăm Cairo mùa xuân năm 2010.
Nhưng nó chưa bao giờ vượt xa quá một cuộc đối thoại thận trọng, và Berlin chưa bao giờ đưa ra những đòi hỏi cải cách thật sự. Ngược lại, Mubarak còn được coi như một con đê chắn sóng trong cuộc đấu tranh chống Hồi giáo cực đoan. Chính quyền của Tổng thống George W. Bush cũng coi chế độ cứng rắn không khoan nhượng của Ai Cập là có lợi trong cuộc đấu tranh chống những kẻ bị tình nghi là khủng bố. Thí dụ ngoạn mục nhất của sự hợp tác của họ là vụ giáo sĩ Abu Omar, bị CIA bắt cóc ở nơi công cộng tại Italia trước khi có tin ông bị tra tấn ở Ai Cập. Mô tả của Abu Omar về việc ông bị giam giữ ở Ai Cập cung cấp cho ta cái nhìn sâu vào những điều khủng khiếp có thể thấy trong những ngục tối của Ai Cập
Mubarak đã biến thành một nhà độc tài như thế nào.
Ở Ai Cập, từ lâu Mubarak đã bị coi là một tên bạo chúa. Đât nước thường xuyên ở trong tình trạng khẩn cấp. Mubarak nắm chặt quyền lực bằng cách sử dụng các đạo luật chống khủng bố và các cuộc bầu cử rõ ràng là gian lận. Ông ta biến nước mình thành một nhà nước cảnh sát. Nghe nói có hơn một triệu chỉ điểm, nhân viên mật vụ và sĩ quan cảnh sát để giám sát số dân hơn 80 triệu. Phe đối lập được giữ nhỏ, và các phương tiện truyền thông phê phán chế độ gặp khốn khó. Những người bất đồng chính kiến bị đưa vào những nhà tù khét tiếng về tra tấn và nhiều người đơn giản biến mất không để lại dấu vết.
Những cuộc ám sát trong nhiều năm mà Mubarak đã may mắn thoát được chứng tỏ kẻ bạo ngược này đã bị căm ghét đến mức nào. Trường hợp gần cái chết nhất của ông ta là năm 1995 trong chuyến đi thăm Addis Ababa, thủ đô Ethiopi. Lúc đó Mubarak đang trên đường đến dự cuộc gặp cấp cao của Tổ chức Thống nhất Châu Phi, đoàn hộ tống của ông ta bị những người Islamist Ai cập tấn công. Chỉ có nhờ lớp vỏ thép của chiếc xe do Đức chế tạo mà lần ấy ông ta thoát chết.
Mubarak chống lại sức ép quốc tế đòi cho nhân dân ông ta nhiều quyền tự do hơn. Chịu sức ép của Washington, ông ta đành chấp nhận những ứng cử viên khác ngoài bản thân ông ta trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2005. Nhưng chế độ này rất ít cố gắng trong việc làm cho các cuộc bầu cử thành dân chủ. Do những mánh khóe rõ ràng, ứng cử viên đối lập Aiman Nur chỉ thu được 7 phần trăm phiếu. Vì ra ứng cử mà cá nhân Nur phải trả giá đắt. Ngay sau cuộc bầu cử, ông bị kết án năm năm tù bằng những lời buộc tội nghe có vẻ hợp lý.
Tuy nhiên, chính sự suy thoái của kinh tế Ai cập đã đổ thêm dầu vào đám lửa giận dữ. Trong những năm 1970, nước này vẫn còn đọ được với những nền kinh tế như của Nam Triều Tiên. Nhưng khi các nước châu Á bắt đầu vươn lên, thì Ai Cập không theo kịp.
Nước Ai Cập của Mubarak cũng đã thất bại về kinh tế.
Sự thất bại của nền kinh tế kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa, giống như nhiều nước A rập khác đã áp dụng, tất nhiên là một lý do. Nhưng chế độ của Mubarak còn chứng tỏ là mảnh đất màu mỡ cho nạn tham nhũng và cai trị bằng cướp bóc. Một bài phóng sự trên tờ báo Đức Die Tageszeitung đã nhắc đến một câu chuyện tiếu lâm mà nhân dân Ai Cập thích lưu truyền. Alaa, con trai Mubarak được mời đến đại lý hãng Mercedes ở Cairo. “Chỉ với 2€ ngài có thể nhận được chiếc xe mui kín thượng hạng, thưa điện hạ.” đại lý Mercedes nói. Con trai tổng thống liền rút ra tờ giấy bạc 10€. Khi người đại lý định ngăn lại, anh ta nói: “Tôi sẽ chỉ lấy năm chiếc thôi.”
Những cải cách nhằm củng cố ngân sách của đất nước nói chung chỉ làm lợi cho các giai cấp trung và thượng lưu. Nỗi thống khổ của người nghèo chỉ tiếp tục tăng lên, và cùng với nó là nỗi căm giận. Thông tin duy nhất về mức độ giầu có của nhà độc tài thì chỉ có những tin đồn. Tuy vậy, chúng cũng đủ để đổ dầu vào ngọn lửa căm hờn. Tài sản của gia đình Mubarak nghe nói trị giá khoảng 40 tỉ đô la, khối tài sản này được tích lũy qua, chẳng hạn, tiền hoa hồng của các hợp đồng quốc phòng. Truyền thông A rập cho biết khoản tiền đó đã được đầu tư an toàn ra nước ngoài. Cho dù mất hết quyền lực, thì gia đình Mubarak cũng sẽ không phải thiếu thốn. Tuy nhiên các chuyên gia nghi ngờ những ước tính về gia sản của nhà độc tài này là sát thực tế.
Những mối quan hệ của Mubarak với các nước khác trong thế giới A rập đã rắc rối ngay từ ban đầu. Hiệp định hòa bình riêng rẽ ký với Israel năm 1979 của người tiền chức của ông ta, Anwar Sadat đã phá hủy nghiêm trọng vị trí của Ai Cập như một sức mạnh chính trị chủ yếu với các nước A rập. Tuy nhiên, Mubarak quyết định gắn với hiệp định gây tranh cãi này. Điều đó bảo đảm quan hệ của Ai Cập với Phương Tây cũng như viện trợ nước ngoài từ Mỹ với số tiền 1,5 tỷ đô la, trong đó có 1,3 tỷ đô la viện trợ quân sự. Sau đó Mubarak thành công trong việc khôi phục vị trí thành viên cho Ai Cập trong Liên hiệp các nước A rập, nhờ đó kết thúc sự cô lập của nước này trong khu vực các nước A rập.
Tuy nhiên nhiều người không bao giờ tha thứ cho Mubarak vì đã tuyên bố hòa bình giữa Israel và các nước A rập là “sứ mệnh” của ông ta. Trong khắp thế giới A rập, một số người vẫn còn miệt thị Mubarak như một kẻ “Zionist” (người theo chủ nghĩa phục quốc Do thái) hay “đầy tớ của Phương Tây” cho đến tận khi ông ta từ chức. Những người Hồi giáo sùng đạo cũng coi ông ta là kẻ thù của họ vì việc đàn áp Muslim Brotherhood ở Ai Cập.
Cũng còn phải chờ xem việc chuyển giao quyền lực có ý nghĩa gì. Liệu quân đội có giữ đúng kế hoạch hiện nay là tổ chức các cuộc bầu cử vào tháng Chín hay nó sẽ đưa đối lập vào quá trình chuyển đổi sớm hơn nhiều. Vai trò tương lai của Phó Tổng thống Suleiman, mới được chỉ định cách đây ít ngày vào vị trí này, vẫn còn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, đó là những câu hỏi cho những ngày sắp tới.
Lúc này, người dân Ai Cập đang hân hoan chào mừng cuộc cách mạng của họ.