Trong những năm 1957-1963, Đặng Phùng Quân viết văn, làm thơ với bút hiệu Trường Dzi trên những tạp chí Sáng Tạo (hiện còn giữ được truyện ngắn Tuổi Trẻ trong số đặc biệt Hà Nội), Thế Hệ (Xuyên Sơn làm Tổng thư ký), Tiểu thuyết tuần san (Nguyễn thiện Dzai làm Chủ nhiệm), trang Văn Nghệ (Hồ Nam /Vương Tân phụ trách)v.v..Bỏ viết từ đó cho đến 1969.
Hiện nay, ngoài tên thật còn viết với bút hiệu V.T.D.
Các sách biên khảo đã xuất bản: L'existence d'autrui et la fidelite dans l'oeuvre de Gabriel Marcel (1967), Hiện hữu tha nhân với G. Marcel (1969), Triết học và Khoa học (1972), Chân dung triết gia (1973), Triết học và Văn chương (1974), Văn chương và Lưu đày (1985), Hành trạng tư tưởng giữa hai thế kỷ (2002) [trong sách này có một bài tổng quan về tình hình triết học và văn chương 100 năm qua (tức thế kỷ XX), một bài chuyên khảo về 2 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp của Trần Đức Thảo (Phenomenologie et Materialisme Dialectique và Recherches sur l'origine du langage et de la conscience)], Phê phán hệ tư tưởng Mac-xit (2002) [bàn về những vấn đề tha hoá, tư bản, ý thức hệ của Marx và Engels, vấn đề vật hoá (Verdinglichung) của Georg Lukács, vần đề lịch sử của Louis Athusser v.v.].
Một số tập truyện ngắn đã xuất bản (in chung hoặc in riêng): Miền thượng uyển xưa (1983), Một dặm tương thân (1987), Tự truyện (1997).
Những dự án nghiên cứu đang xúc tiến: Cơ sở tư tưởng thời quá độ, Phê phán lý trí văn chương…
VCV lần lượt giới thiệu tác phẩm của anh, nếu đã được đưa lên ở các trang khác sẽ trích một phần cho bạn đọc tiện theo dỏi và ghi rõ đường link, như bài này, anh đã đưa lên gio-o, sẽ trích 2 kỳ , anh cũng có một trang web dangphungquan.com để bạn đọc tiện việc tìm đọc anh.
Thế kỷ XXI đã qua năm thứ chín - đối với những người sinh vào nửa đầu thế kỷ XX thật là một hành trình dài, kinh qua những cuộc chiến tự sát và tiêu diệt. Những khái niệm bạo động, khủng bố, cách mạng dường như không còn ý nghĩa của điều ác, những mục tiêu dân chủ, độc lập, nhân quyền, tự do cạn kiệt những ý nghĩa về thiện. Thời đại của nghi hoặc có một quá trình vô tận. Trước sự băng hoại to lớn ấy, không chỉ là hiện tượng kinh tế suy thoái toàn cầu, mà cả một cuộc phá sản tư tưởng, khởi sự là ý thức hệ cộng sản.
Trong cuộc khủng hoảng ấy, triết học đi đến đâu? Câu hỏi có quá vô tình trước những thảm họa nhân loại đang chịu đựng không? Hay vấn đề cấp thiết, trước một thế giới thiếu sinh lực động não?
Tiểu luận này sẽ bắt đầu bằng ba chặng:
1/ nhìn lại 100 năm triết học của thế kỷ vừa qua.
2/ những bước ngoặt ở cuối-thế-kỷ.
3/ thời quá độ
1/ nhìn lại 100 năm triết học
Năm 1900: mở đầu một thế kỷ. Die Traumdeutung của Sigmund Freud xuất bản vào năm này, với tầm quan trọng trong việc đóng góp cho khoa tâm lý học (ngự trị qua hai thế kỷ) cũng như trong khoa học mới - phân tâm học - và chính Freud nhận định nó chứa đựng những cái giá trị nhất trong những khám phá ông đã may mắn thực hiện vì nhận thức sáng suốt như vậy rớt vào số phận một người nhưng chỉ xảy đến một lần trong suốt cuộc đời. Một tác phẩm khác Logischen Untersuchungen của Edmund Husserl cũng xuất bản vào năm này. Mục tiêu của những nghiên cứu nhằm soi sáng những vấn đề cơ bản của lý luận về nhận thức và lĩnh hội phê phán về luận lý như một khoa học.
Freud và Husserl đã mở ra những con đường cho phân tâm học và hiện tượng luận ảnh hưởng trên nhận thức con người trong suốt quá trình của thế kỷ.
Tuy nhiên, trước hết đặt vấn đề nhìn lại 100 năm. Tại sao nhìn lại? nhìn lại thường để kiểm điểm, tổng kết, phê phán những thành quả đắc thủ, những tồn tại, tuy nhiên quá trình không diễn ra trên một cương tuyến liên tục mà có những cách quãng nhảy vọt ( như Bachelard hay Althusser quan niệm, là những bước cắt tri thức). Nhìn lại còn hàm ngụ sự khủng hoảng tất yếu khi một thời đại đã cáo chung, đến bước quá độ.
Có thể xác định thời quá độ ? Lấy tình hình triết học tư tưởng tây phương làm mẫu mực: Nếu như những Nietzsche, Kierkegaard chấm dứt thế kỷ của Hegel trước khi bước chuyển tiếp cho những trào lưu hiện tượng luận, phân tâm học và hiện sinh xác định thế kỷ hai mươi, thì với sự phê phán chủ nghĩa Mác, hậu hiện đại, hậu cấu trúc luận, sự gặp gỡ giữa triết học (quen gọi là) lục địa truyền thống với triết học Anh-Mỹ (ít ra là sự đối đầu giữa triết học phân tích, chủ nghĩa thực chứng và thuyết hủy tạo) có thể là dấu mốc của thời quá độ.
Có thể xác định thời quá độ vì chuyển tiếp của thế kỷ, không hẳn theo niên biểu, nhưng những vấn đề đặt ra chưa chứng thực là những dấu hiệu của thế kỷ kế tiếp. Sự kế thừa những di sản của giai đoạn hậu hiện đại, hậu cộng sản, hậu thuộc địa cũng như quá trình tiến hóa hậu công nghiệp đã đưa ra những vấn nạn về sự cáo chung của lịch sử (chỉ khác biệt ở chỗ khủng hoảng của thời hậu thế chiến thứ hai dẫn tới viễn cảnh bi quan về cái chết của con người, còn sự khủng hoảng của thời hậu lịch sử là tuyệt lộ của tư tưởng ?)
Như đã chỉ ra ở tiểu đề, một trăm năm triết học. Nhưng triết học nào ?
Ngày nay người ta có thể nói đến triết học châu Mỹ La tinh (ít ra là tư tưởng thời tiền thuộc địa), triết học (falsafâ) Ả rập, triết học Ba tư thời tiền Hồi đến đoàn nhóm sufi, triết học châu Phi. Tuy vậy ảnh hưởng giao lưu văn hóa rõ ràng đã xóa bỏ những phân định, nếu không muốn nói đến là cơ sở tư tưởng vẫn là sự thống nhất giữa những mặt khác biệt. Cho nên khi đề cập đến những vấn đề như những vấn đề trong một triết học, như triết học Nhật bản chẳng hạn, không phải chỉ chuyển nhập từ triết học/philosophia qua tetsugaku, công trình của Nishi Amane, mà là sự thống nhất ngôn ngữ trong tác động thông giao của con người nói chung.
Không thể bỏ qua những cơ hội lịch sử xác định : thế chiến thứ Nhất đánh dấu sự phân hóa cùng cực của nền văn hóa châu Âu, thế chiến thứ Hai với hội chứng Auschwitz thúc đẩy làn sóng di dân từ cựu lục địa sang châu Mỹ làm thay đổi hẳn quan niệm về sự cách biệt giữa hai nền triết học. Những vận động trí thức từ châu Âu đã đem đến nước Mỹ một luồng gió mới như những người siêu thực trong những năm 40, những thành viên của Học viện Nghiên cứu xã hội ở Frankfurt (Institut für Sozialforschung) lưu đày sau khi đảng Quốc xã lên cầm quyền. Trong thời Chiến tranh Lạnh, những hiện tượng samizdat và tamizdat nổi lên tại những xứ sở đảng Cộng sản nắm chính quyền đưa ra một hình thức văn chương mới chống lại cái văn chương “chính thống” ở trong nước. Những phong trào giải thực đã hóa giải những lý luận sai lạc về văn hóa khác biệt và tạo điều kiện cho những nền văn chương đa dạng ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ La tinh. Sự sụp đổ toàn diện khối Cộng sản Liên Xô và Đông Âu không phải chỉ một sớm một chiều mà là thành quả của một hệ tư tưởng tan rã qua thử thách phê phán.
Tôi không nhằm đưa ra một bức tranh toàn cảnh về triết học thế giới mà giới hạn vào một vấn đề: cơ sở của ý nghĩa hành trạng triết học và trong một thế kỷ vừa kết thúc.
Đặt vấn đề như vậy có thể như hỏi chung cuộc của triết học trong cái chung cuộc của con người và lịch sử.
Cho nên tôi sẽ không phân định những trào lưu tư tưởng như Ludwig Landgrebe, J.M. Bochenski, Mikel Dufrenne hay Paul Ricoeur , chỉ kể một vài tiêu biểu. Tôi chỉ đề ra một số những thảo luận trong quá trình vận động của tư tưởng thông qua những sở cứ triết học và văn chương để thử tìm xem những hạn chế về tri thức của con người trong một thế kỷ. Dường như sự cáo chung của triết học, sự thất lạc của chủ thể, sự vắng mặt của tác giả, cái chết của hiện diện là những ẩn số của một nền tảng siêu hình dấu mặt của con người về cả hai bộ diện tri thức luận và bản thể luận ?
Những vận động tư tưởng không phải không hàm ngụ bạo động, nghĩa là muốn biến đổi tự căn để. Cho nên khi chỉ ra con đường hiện tượng luận, Husserl đề xuất một phương pháp giảm trừ ý tượng - eidetische Reduktion - muốn vượt lên khỏi phương pháp quy nạp thông thường của kinh nghiệm khoa học, điều mà ông gọi trực giác như nguyên lý của mọi nguyên lý trong Ideen I :
“Mọi trực giác đã có tự nguyên ủy là cội nguồn chính đáng (Rechtsquelle) của tri thức/daß jede originär gebende Anschauung eine Rechtsquelle der Erkenntnis sei.”
Tuy nhiên vào gần cuối đời, lý tưởng đeo đuổi xây dựng hiện tượng luận một triết học như thể khoa học nghiêm xác của Husserl chỉ như một giấc mộng đã qua (der Traum ist ausgetraumt).
Giấc mộng đã dẫn Heidegger đi vào con đường Hỏi về Hữu đồng thời cũng là Hỏi về Chân lý (Aletheia), khởi từ đó chỉ ra Hữu thể luận cơ bản với nhiệm vụ triệt hủy lịch sử hữu thể luận :
“Vấn đề hữu thể chỉ đạt được tính cụ thể thực khi chúng ta thể hiện sự triệt hủy truyền thống hữu thể/in der Durchführung der Destruktion der ontologischen Überlieferung gewinnt die Seinsfrage ihre wahrhafte Konkretion.”
Hủy triệt căn để đưa đến vấn nạn về quan hệ giữa ý nghĩa về Hữu trong tư tưởng Heidegger với phong trào Quốc xã trong những năm 80. Vấn nạn kéo theo những tranh luận không lối thoát với nhiều khuôn mặt quen thuộc của triết học đương đại.
Ở vào những năm đầu thập niên 20, Nicolai Hartmann đã chỉ ra mối quan hệ giữa tri thức luận và hữu thể luận khi xác quyết tri thức luận phải xây trên cơ sở hữu thể luận, phân biệt hai phương thức cơ bản của Hữu (Seinsweisen):
“Mọi tính thể (Sosein) cũng như mọi hiện thể (Dasein) có được sự xác định trên cơ sở toàn chuỗi những xác định, và chính những chuỗi xác định này cấu thành toàn bộ thực tại (Realzusammenhang). Đặc tính cô lập của những sự vật cá thể chỉ là trừu tượng. Thế nên cái hiện thực là thực cũng thực sự khả hữu và tất yếu, ngay trong những đặc trưng của nó; nhưng nó có thực khả hữu và tất yếu là trên cơ sở những phức thể điều kiện bao dung tòan diện của một sắp đặt cấu trúc thực (Realkollokation) trong bất kỳ thời gian nhất định nào/Wie alles Dasein,so hat auch alles Sosein seine Bestimmtheit auf Grund von Determinationsketten, und diese eben sind es, die den Realzusammenhang ausmachen. Isolierte Beschaffenheit eines Einzeldinges ist eine Abstraktion. Was real wirklich ist, das ist auch bis in seine letzen Sonderzüge hinein real möglich und real notwendig; beides aber ist est auf Grund von Bedinungskomplexen, welche die ganze Breite der jeweiligen Realkollokation umfassen.”
Toàn bộ thực tại - ở đó không biệt phân giữa hữu và tính - mở ra con đường cấu trúc luận sau này, cũng như thành tựu trong quá trình và tiến bộ của tri thức khoa học.
Chính nhìn ra quan điểm ấy, vào cuối đời Georg Lukács khi nói đến hữu thể luận đã chỉ ra chính Hartmann là người đầu tiên đưa ra vấn đề hình thái sơ cấp của hiện thể là phức thể, cho nên người ta phải nghiên cứu phức thể như là phức thể và phải đi từ phức thể đến những thành tố chứ không phải (như khoa học nói chung tin tưởng) là trước hết tìm ra một số thành tố rồi cấu tạo những phức thể nhất định này từ tác động qua lại giữa những thành tố (das Komplexe das primär Existierende ist, wobei man den Komplex als Komplex zu untersuchen und vom Komplex zu seinen Elementen und Elementarprozessen zu kommen hat - und nicht (wie die Wissenschaft im allgemeinen meint), daß man gewisse Elemente finden muß und aus dem Zusammenwirken der Elemente bestimmte Komplexe aufbaut).
Có thể nói Heidegger như cái gạch nối giữa triết học và văn chương không phải vì “giai đọan sau” ông đi lý giải những tác phẩm thơ của Holderlin, Trakl hay Rilke, nhưng qua thông diễn học, ông đã phát hiện “Ngôn ngữ là căn nhà của Hữu thể”, và nghệ thuật cũng như triết lý là con đường “khai mở Hữu như một tổng thể chân lý”. Hartmann như cái gạch nối giữa triết học và khoa học khi quan niệm những khoa học tự nhiên không thể đọan lìa với nền tảng siêu hình, trong khi nỗ lực đi tìm những minh chứng khoa học cho những nguyên lý và đa tầng của hữu (Seinsschichten).
Như đã nói ở trên, đề cương của bài viết này đưa ra một cái nhìn tổng quan về ý nghĩa hành trạng của triết học trong một trăm năm, ở đó những mặt đối lập diễn ra :
Những biên giới địa chí như giữa hai nước (chẳng hạn Pháp và Đức, tinh thần nhận thức khác biệt), môi trường trí thức (trong và ngòai Đại học, lấy ví dụ trường hợp Marx hay Bergson - tư tưởng Marx khi xâm nhập xã hội đã không ảnh hưởng trong Đại học, triết học Bergson lôi cuốn tầng lớp trí thức ở Collège de France đã không ảnh hưởng tới sự giảng dạy tại Sorbonne), triết học Đại lục châu Âu với triết học Anh Mỹ, tư tưởng Đông phương và Tây phương.
Những biên giới xã hội-chính trị như sự phân cách nhất định giữa mẫu quốc và thuộc địa trong giai đọan thực dân, sự đọan tuyệt thông giao giữa khối Cộng sản với bên ngòai (triết học nói chung và triết học Diamat, hủy triệt sự phát triển của những trường phái văn học như chủ nghĩa Hình thái hay Vị lai..), sự chênh lệch giữa những nước phát triển và Thế giới thứ Ba. Đó là chưa kể đến những mâu thuẫn nan giải về mặt tôn giáo.
Những mặt đối lập kể trên ngày nay phần nào đã hóa giải dựa trên những biến đổi thể chế hoặc giao lưu văn hóa.
Tuy vậy cũng cần phải xác định là những phân định đó chỉ tương đối hoặc biểu kiến vì xu hướng gọi là triết học Anh Mỹ không hẳn chỉ giới hạn ở ngòai đại lục, hay tư tưởng Đông Tây không triệt để khu biệt.
Ngay trên lục địa châu Âu, tư tưởng của Wolfgang Stegmuller, phần lớn xu hướng triết học Phần lan, Ba lan hay Nam tư là triết học phân tích, mặt khác nguồn cội truyền thống thực nghiệm Anh từ lý luận của Frege và những nhà thực chứng Áo, Karl Popper, Wittgenstein và xa hơn là ảnh hưởng của Brentano, Bolzano và Meinong. Ở Pháp trong những năm chủ nghĩa hiện sinh thống trị, những triết gia như Cavaillès, Jules Vuillemin, Gilles Granger vẫn tiếp tục con đường luận lý thực nghiệm mặc dầu khoa luận lý bị coi là thứ yếu. Mặt khác triết học phân tích dựa trên phương pháp phân tích ngữ học cũng như quan niệm ngôn ngữ thường tục là phần sơ cấp của triết học hãy còn xa lạ với những ưu tư siêu hình đang được coi như tiên quyết. Phải đợi tới giai đọan hậu cấu trúc, một thế hệ mới với những Francis Jacques, Denis Zaslawsky mới đưa những vấn đề của Peirce, Quine, Austin vào cuộc thảo luận. Jacques Bouveresse làm quen với tư tưởng của Wittgenstein, Deleuze và Guattari đến gần với những vấn đề của chủ nghĩa thực dụng trong tác phẩm Mille Plateaux, Paul Ricoeur khi rời châu Âu qua Mỹ đã đưa ra những đối thọai giữa thông diễn học và triết học phân tích .
Mối quan hệ giữa hai nền triết học phương Đông và phương Tây trong thế kỷ này không còn xa lạ với nhiều triết gia. Trong Dẫn vào triết học, Karl Jaspers khẳng định:
“Triết học trong phong cách lớn và tòan bộ hệ thống đã hiện hữu từ hai thiên niên kỷ rưỡi ở phương Tây, Trung quốc và Ấn độ”.
Trong bộ Die grossen Philosophen, ông thảo luận về những nhà tư tưởng lớn như Lão, Khổng, Thích Ca, Long Thọ bên cạnh những Sokrates, Jesus, Nicolaus Cusanus…
Dẫn lời Jean-Pierre Faye trong La raison narrative, hai tác giả Deleuze và Guattari chỉ ra là những triết gia như những người khách lạ đến từ phương Đông. Tuy nhiên, ảnh hưởng của phương Đông in dấu ấn đậm nét nơi một nhà tư tưởng lớn nhất thế kỷ này là Martin Heidegger. Trong hai tác phẩm Trên đường tới Ngôn ngữ và Nguyên lý Đồng nhất, Heidegger đã nói đến từ then chốt (Đạo) trong tư tưởng của Lão tử “có lẽ ẩn trong từ “con đường” Đạo là huyền nhiệm trên mọi huyền nhiệm của Ngôn từ đầy vẻ tư duy…tất cả là Đạo”. Otto Pöggeler, một học giả Đức uy tín chuyên về Heidegger đã chỉ ra là triết học phương Đông nơi Lão tử và Trang tử đã ảnh hưởng từ sớm vào tư tưởng Heidegger, không phải chỉ qua hai tác phẩm dẫn trên, khi liên kết Logos với Đạo, khái niệm tương hữu (Mitsein) với ngụ ngôn của Trang tử. Một học giả Đức khác, Reinhard May cũng chỉ ra những ảnh hưởng Á đông như Đạo học và Thiền học trong tư tưởng Heidegger trong nỗ lực vượt và hủy triệt truyền thống siêu hình học tây phương. Heidegger cũng đã cùng với một học giả Trung hoa, Paul Shih-yi Hsiao cộng tác thử dịch một số chương trong Đạo đức kinh.
Những kiến thức về Đạo học và Thiền học của Heidegger một phần dựa trên những tư liệu chuyển qua Đức ngữ (Thuyết và ngụ ngôn của Trang tử do Martin Buber tuyển chọn xb. năm 1910, Lão tử của Wilhem xb năm, 1911), mặt khác do sự tiếp cận với những học giả đến từ Nhật như Tanabe Hajime, Kuki Shùzò, Nishitani Keiji, Yuasa Seinosuke, Tezuka Tomio (nhân vật trong đối thọai với Heidegger luận về ngôn ngữ dẫn nơi trên). Trong hội thảo ở Le Thor, một trong những sở cứ cơ bản của triết học Heidegger là khái niệm Vô (das Nichts), sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng của ông đã được định nghĩa như “biểu thị (Kennzeichnung) của Hữu”. Một triết gia lớn nhất của Nhật, Nishida Kitarò đã phát biểu trước đó vào năm 1939: Hữu tức vô, vô tức hữu. Tanabe Hajime, Nishitani Keiji là những môn đệ của Nishida Kitaro, nên người ta có thể ngờ rằng Heidegger đã làm quen với tư tưởng của ông chịu ảnh hưởng Thiền học (tác phẩm chính của Nishida - Hỏi về điều Thiện (Zen no kenkỳu) - đã xuất bản vào năm 1911). Trong tác phẩm này, khi luận về ý thức, Nishida viết “hữu được coi như phát sinh từ vô”.
Biến hóa tương liên giữa triết học chịu ảnh hưởng Tây phương và bắt nguồn từ Thiền học là sự gặp gỡ giữa Đông và Tây trong tư tưởng Nishida. Trong lời tựa tác phẩm từ Hành động đến thị kiến (Hataraku moro kara miru, 1927), ông viết:
“Không cần phải nói cũng thấy là nhiều điều được đánh giá và học hỏi từ sự phát triển của văn hóa tây phương, coi hình tượng (eidos) là hiện hữu và hình thành là thiện. Tuy nhiên ở cơ sở của văn hóa Á châu đã nuôi dưỡng tiền nhân ta từ bảy ngàn năm qua, có một điều có thể gọi là nhìn hình tượng của cái vô hình và nghe âm thanh của cái vô thanh…Tôi muốn đưa ra một cơ sở triết lý cho yêu cầu này”.
Thông thường người ta có định kiến là khoa siêu hình học không phát triển ở Á đông. Nishida bác bỏ lối nhìn này khi ông khẳng định là “dầu không có khoa siêu hình học rõ rệt cũng không có nghĩa là không có tư tưởng siêu hình. Khi một nền văn hóa đặc thù phát triển tới mức độ nào đó thì có thể xét bằng những từ siêu hình. Mỗi văn hóa có một cái nhìn về đời sống. Ở cơ sở của nhân sinh quan phải có một lọai tư tưởng siêu hình, dầu không được nghĩ đến một cách ý thức”. Khi đi sâu vào những đặc tính của mỗi nền văn hóa, Nishida cũng nhìn ra sự đối lập bổ xung. Chẳng hạn như Ý tượng của Platon là hình, nhưng không có nghĩa là hình trạng vật lý, theo nghĩa tri giác mà có một ý nghĩa ngược lại, có thể gọi là đối tượng của lý trí, như vậy có thể coi là vô hình. Tư tưởng thiên chúa giáo thời trung cổ như Augustin coi thực tại không là một ý tượng mà là một nhân vị, thiên chúa là Nhân vị tuyệt đối,vượt khả năng nhận thức của con người, Thiên chúa là Deus absconditus. Xem như vậy, nếu triết học hy lạp được coi là một triết học về hữu thì triết học thiên chúa giáo mang ý nghĩa của một triết học về vô.
Kuki Shùzò, triết gia Nhật được nhắc trong Trên đường tới Ngôn ngữ của Heidegger đã từng dự lớp của Husserl tại Freiburg vào năm 1927 và Heidegger ở Marburg, với tác phẩm Triết học Heidegger (Haideggà no tetsugaku) xuất bản năm 1933 có thể coi như công trình đầu tiên viết về tư tưởng Heidegger. Kuki trong thời gian dừng lại Paris đã gặp một sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm và nói về hiện tượng luận Đức cho người này, về sau trở thành triết gia sáng tạo ra chủ nghĩa hiện sinh Pháp, Jean Paul Sartre.
Chủ nghĩa hiện sinh của Sartre chỉ là một tư trào nổi lên sau năm 1945, bắt nguồn từ hiện tượng luận Đức (mà Kuki thực sự là một người Á đông đầu tiên đã dẫn khởi cho Sartre trước cả R. Aron và Levinas) và triết học hiện sinh Đức với K. Jaspers và M. Heidegger. Khi Sartre đưa ra tuyên ngôn: chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản thì điều đó chỉ có nghĩa : “con người không là gì ngòai điều con người tự tạo” (l'homme n'est rien d'autre que ce qu'il se fait). Ông coi đó là nguyên lý thứ nhất của chủ nghĩa hiện sinh, có nghĩa là tính chủ thể. Chính trong chiều hướng này, ông dẫn giải “hiện hữu có trước yếu tính” và hiểu từ Dasein của Heidegger là ”thực tại con người” (la réalité humaine - H. Corbin là người dịch Heidegger đầu tiên tại Pháp đã dùng từ này). Một quan niệm về nhân bản như vậy đã không phản ảnh đúng tư tưởng của Heidegger, nên Heidegger đã phản bác trong Thư về chủ nghĩa nhân bản, coi Sartre chỉ đảo ngược một diễn từ siêu hình và thay thế bằng một diễn từ khác. Thật vậy triết học hiện sinh với Heidegger, Jaspers, G. Marcel và M.Merleau-Ponty có chung một số vấn đề cơ bản như vấn đề thân xác, nhập thể, tha nhân trong phản ứng vượt lên trên triết học duy tâm kiểu Kant hay Descartes.
Chủ nghĩa chống nhân bản thực sự là một tuyên ngôn của một tư trào triết lý nổi lên chung quanh thập niên 60 dưới một hình thái mới mệnh danh là cấu trúc luận, với những tên tuổi tiêu biểu như Claude Lévi-Strauss, Roland Barthes, Jacques Lacan, Michel Foucault và Louis Althusser trong những lĩnh vực khác nhau. Từ ngữ cấu trúc (structure) bắt nguồn từ tiếng La tinh struere có nghĩa là xây dựng. Ngay trong Sein und Zeit, Heidegger đã dùng từ “cấu trúc quan tâm”(Sorgestruktur) ở đó hiện thể là mục tiêu của tư duy hữu thể, khi đặt định vấn đề tìm hiểu yếu tính của con người có liên hệ cấu trúc với chân lý của Hữu. Có thể nói Heidegger là một trong bốn nguồn suối tư tưởng (Marx, Nietzsche, Freud) của tư trào chống nhân bản này. Michel Foucault trong tác phẩm Những từ ngữ và sự vật (Les mots et les choses) đã đặt vấn đề “con người” chỉ xuất hiện trong tri thức qua ba mặt: ngôn ngữ, đời sống và lao động, nói khác đi chỉ là một phụ tượng trong những khoa ngữ học, sinh học và kinh tế học mới hình thành trong thế kỷ 19 và đi đến câu hỏi: một khi những điều kiện tri thức này thay đổi, lúc đó con người cũng cáo chung. Trong những giòng kết tác phẩm, M. Foucault viết “con người có thể bị xóa bỏ giống như một khuôn mặt vẽ trên cát bên bờ đại dương”. Jacques Lacan cũng xác định trong phân tâm học khởi từ Freud “cái trung tâm thực của con người giờ đây không còn cùng chỗ như cả một truyền thống nhân bản gán cho nó nữa”. Những quan điểm tương tự có thể tìm thấy ở J. Derrida, J.F. Lyotard hay Louis Althusser.
Luc Ferry và Alain Renaut trong Tư tưởng 68: Luận về chủ nghĩa chống nhân bản hiện đại (La pensée 68: Essai sur l'anti-humanisme contemporain) nhận định rằng triết học Pháp của giai đoạn '68 kiên quyết chọn vị thế chống nhân bản. Lời phê phán này không có gì quá đáng và còn áp dụng chung cho hòan cảnh một thế giới ở vào giai đọan phân hóa cùng cực: Chiến tranh Lạnh vẫn ở cao điểm, cuộc chiến Việt nam, cuộc chiến Algérie, cao trào sinh viên tại nhiều nơi trên thế giới, ảnh hưởng của Lý luận phê phán (từ những triết gia di dân từ Đức qua Mỹ trong thời Quốc xã như Max Horkheimer, Theodor Adorno và nhất là Herbert Marcuse với tác phẩm Con người một chiều kích/One dimensional Man nhằm phê phán kỹ thuật giảm thăng áp chế của những xã hội công nghiệp trong thời đại kỹ học cùng với hệ tư tưởng thống trị của những nước phát triển cao cấp nhằm nô dịch mọi công dân; quan điểm này thích ứng với nhu cầu sinh viên trong giai đọan này), sự tấn công bằng bạo lực xe tăng của Liên xô vào những nước trong quỹ đạo đang khao khát độc lập dân chủ.
Triết học trong thời kỳ này là triết học khái niệm thay thế cho triết học ý thức để có thể đi tới một học thuyết về khoa học, như Cavaillès tiên đóan trước đó và Deleuze-Guattari sau Nietzsche khẳng định nhiệm vụ của triết học là sáng tạo những khái niệm mới.
Lý luận về một vị thế phi chủ thể phản ảnh trong triết học và văn chương rõ rệt: sự xuất hiện của phong trào Tiểu thuyết mới (Nouveau Roman) ở Pháp ngay từ thập niên 60, phong trào Tiểu thuyết thực nghiệm (Experimental Novels), Phá thể tiểu thuyết ở Mỹ, luận điểm cái chết của tác giả trong phê bình văn học nơi những nhà phê bình mới như R. Barthes, M. Foucault, Gérard Genette (viết là ẩn dấu, là đeo mặt nạ), thuyết hủy tạo (Deconstruction) của Derrida xâm nhập văn học Mỹ, thuyết quá trình phi chủ thể của L. Althusser nhằm lý giải quan điểm khoa học của Marx đối nghịch với ý thức hệ khi đề ra khái niệm về phương thức sản xuất trong lịch sử.
Một nét đặc thù của thế kỷ hai mươi là phê bình luận văn chương trở thành một khoa học - nhà phê bình phải trang bị những kiến thức triết học và ngữ học. Cuộc cách mạng Nga 1917 đã dẫn khởi hai nguồn phê bình luận văn chương quan trọng: chủ nghĩa Hình thái với Shklovsky, Eikhenbaum, Tomashevsky, Tynjanov và Mikhail Bakhtin tuy cả hai lý luận này bị áp chế ngay tại đất nước của nó và chỉ phát triển vào nửa thế kỷ sau tại Tây Aâu cùng với sự xuất hiện cấu trúc luận. Đóng góp chủ yếu của cấu trúc luận là khai mở những dấu chỉ, trong vận động văn chương có thể tóm trong một nhận định của nhóm Tel Quel Pháp: Phân tích đến tận cùng, chúng ta không là gì hết ngòai hệ thống viết/đọc của chúng ta (Nous ne sommes rien d'autre, en dernìere analyse, que notre système écriture/lecture).
Chủ nghĩa Mác trong thế kỷ chứng thực sự thất bại về mặt lý luận qua những bế tắc của Lukács, Althusser và những người một thời tham gia đã từ bỏ như Bourdieu, Baudrillard, J.F. Lyotard, về mặt thực tiễn khởi từ sự sụp đổ bức tường Berlin vào năm 1989 đánh dấu sự sụp đổ tòan diện chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa thực chứng luận lý xuất phát từ trường phái Vienne vào nửa đầu thế kỷ với tham vọng xây dựng một khoa học thuần nhất (Einheitwissenschaft) đã thất bại trong tham vọng lý giải khoa học thay cho khoa học. Mặt khác chủ nghĩa thực dụng khởi từ công trình ngữ học của Peirce, Wittgenstein, triết học về ngôn ngữ thông tục, lý luận ngôn tác (speech act) của John Austin, Searle, Dieter Wunderlich, Utz Maas, lý luận văn bản (texttheorie) của S.J. Schmidt, đến những tranh luận thực chứng trong những công trình của H. Albert, Karl-Otto Apel, Jürgen Habermas, Richard Rorty, Richard Bernstein trong quan niệm thực tại không những được xây dựng về mặt xã tính mà còn về mặt ngữ tính, trong khi đi khai phá cấu trúc của ngôn ngữ, tác động và thông giao cũng không ra khỏi những bế tắc của cấu trúc luận. Chỉ có sự khác biệt, đó là nỗ lực trở về chủ thể, như Apel quan niệm “làm mới câu hỏi của Kant về những điều kiện của khả năng và tính giá trị của kiến thức khoa học như là một câu hỏi liên quan đến khả năng của một đồng thuận liên chủ thể về ý nghĩa và chân lý của những câu hay hệ thống những câu”.
Trong chiều hướng đi tìm một kiểu mẫu mới (new paradigm) vào những thập niên cuối-thế-kỷ này, những dự phóng của Michel Serres (liên kết văn chương với những kỹ học mới như thông tin học), Jean Baudrillard (những hệ quả biến đổi của những hình thái vật chất và tượng trưng trong khoa học kỹ thuật hiện đại), Bruno Latour (Nghị hội của sự vật: Nếu chúng ta không biến đổi chung cư, chúng ta sẽ không hội nhập những văn hóa khác mà chúng ta không còn thống trị nữa vào trong nó, và chúng ta cũng sẽ mãi mãi không thể thích nghi môi sinh mà chúng ta không còn kiểm sóat được nữa. Không phải Thiên nhiên hay Tha nhân trở thành hiện đại mà chính là tùy vào chúng ta có biến đổi đường lối biến đổi của chúng ta.)
Quan điểm này có thể là mối ưu tư của nhiều người trong thời quá độ sang một thiên niên kỷ mới, khi vấn đề cáo chung của triết học hay văn chương không hẳn như cáo chung của lịch sử, hoặc phục hưng của một thời đại Ánh Sáng ở cuối đường hầm của nền văn minh khoa học kỹ thuật hậu hiện đại ?
2/ những bước ngoặt ở cuối-thế-kỷ
Từ thập niên 60 của thế kỷ 20, phong trào tư tưởng cấu trúc luận bùng xuất mạnh mẽ, tạo một chấn động lớn trong việc xét lại mọi mặt, từ cơ sở, phương pháp đến vị thế khoa học, xét lại ý nghĩa của lịch sử và biện chứng pháp, ý thức và vô thức, con người và chống con người (như trong khoa học tự nhiên, vật chất và phản vật chất) - điều quan trọng nhất là phải chăng triết học cáo chung, nhường chỗ cho những khoa học nhân văn?
Tại sao vậy? Thử xét những tư trào cấu trúc luận ở hai vùng khác biệt, như Pháp và Anh/Mỹ: ở Pháp những đại biểu chính của cấu trúc luận như R. Jakobson là một nhà ngữ học, C. Lévi-Strauss là một nhà nhân loại học, M. Foucault là một triết gia chuyển biến tri thức luận, J. Lacan là một nhà phân tâm học, R. Barthes là một nhà phê bình văn học; ở Anh/Mỹ, E. Leach là một nhà nhân loại học (chịu ảnh hưởng Lévi-Strauss, ví như Ernest Jones đối với Freud), sự phát triển cấu trúc luận bắt nguồn từ tổng hợp những lãnh vực đa biệt, từ dân tộc học/folklore (du nhập từ lý luận của nhà nghiên cứu người Nga Troubetzkoy), bác ngữ học/philology Đức và triết lý phân tích, học thuyết Charles Sanders Peirce, Lewis H. Morgan, ngữ học với Zellig Harris và Noam Chomsky. Xét trên bình diện quốc tế, vị thế của Lévi-Strauss, Foucault, Barthes có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến độ nói đến cấu trúc luận không thể vượt qua những nhân vật này, bất kể ranh giới địa chí. Có thể nói, những biến động lịch sử từ áp lực bạo chế phát-xít tạo một cơ hội di chuyển chất xám sang vùng đất mở rộng đón làn sóng trí thức lưu đày là đất Mỹ đã dậy lên tinh thần siêu quốc khởi từ trước và sau Thế chiến Hai. Morgan (1818-1881) và Peirce (1839-1914) thật ra là những nhà tư tưởng của thế kỷ 19, song khái niệm về quan hệ hỗ tương trong hệ thống liên hệ thân tộc của Morgan và khái niệm cấu trúc là cái mà sự vật phụ thuộc hơn là sở hữu là những khái niệm cấu trúc luận lấy lại trong thời đại mới này. Về mặt cấu trúc ngữ học Mỹ cũng phân biệt với trường phái Pháp ở chỗ nghirên cứu cấu trúc dựa trên những ngôn ngữ đặc thù thay vì phổ quát. Những công trình nhân loại học, ngữ học của Victor Turner, Harold Scheffler và Floyd Lounsbury, Clifford Geertz, Kenneth Pike, J. Culler, René Girard đánh dấu đa hiệu thay vì phụ thuộc vào một phong trào.
Sự khác biệt về mặt triết học giữa cấu trúc luận và hiện tượng luận rõ rệt ở chỗ, cấu trúc luận chú trọng đến những quan hệ hơn là yếu tố, đến cấu trúc hơn là là bản thể, đến cơ sở ngoại tại hơn là nội tại, giải thích/erklären hơn là lý hội/aufklären tuy nhiên không phải giải thích sự kiện mà là giải thích tại sao sự kiện có ý nghĩa. François Wahl trong dẫn nhập tác phẩm tập thể về cấu trúc luận xác định: nếu danh xưng cấu trúc luận đáp ứng điều gì, chính là một cách thế mới đặt để và khai thác những vấn đề trong những khoa học khảo ký hiệu: một cách thế khởi đầu với ngữ học Saussure.
Khi luận về làm thế nào nhận biết cấu trúc luận, Gilles Deleuze xác định không chỉ riêng Saussure, mà cả trường phái Moskva và Pra-ha cũng là nguồn của cấu trúc luận. Theo ông, cái biểu tượng cùng với cái thực và cái tri tuởng là tiêu chuẩn khai phá cấu trúc luận; biểu tượng là một nhân tố của cấu trúc. Tương phản với triết học phi lý, chủ yếu thiếu ý nghĩa, cấu trúc luận chỉ ra quá thừa ý nghĩa, siêu sản xuất, siêu xác định ý nghĩa luôn luôn sản xuất quá thừa qua sự phối hợp những chỗ trong cấu trúc. Những nhân tố biểu tượng hay những thống nhất vị thế dựa vào cái gì? Lévi-Strauss chỉ ra “vị thế” trong nghĩa cấu trúc, tức là trong một không gian thực sự cấu trúc/tọa hình học. Những nhà tư tưởng khác như Foucault khi xác định những tất định như chết, dục vọng, lao động cũng coi theo vị thế, trong trật tự của cấu trúc, Althusser khi xác định cấu trúc kinh tế coi chủ thể thực trước hết ở trong một không gian tọa hình xác định bởi những quan hệ sản xuất (đó là lý do ông quan niệm có một “quá trình phi chủ thể” trong chủ nghĩa Mác).
Nói chung, những nhà cấu trúc luận gặp nhau ở chỗ xét mọi sự trên bình diện những quan hệ, dầu là dưới dạng những dãy (hiểu theo nghĩa toán học), hay cấu trúc đơn giản nhất, hoặc khu biệt (hiểu theo nghĩa tích phân trong toán học).
Tác phẩm Phê phán lý trí biện chứng của Sartre xuất hiện vào 1960 (sau nhiều năm miệt mài nghiên cứu) đã là cung đàn lạc điệu trong thế giới cấu trúc, ngoài hai mục đích: một, để định vị chủ nghĩa hiện sinh như một giai đoạn cá thể nằm trong tổng thể là chủ nghĩa Mác (ông đưa ra ba thời kỳ sáng tạo triết học, thời của Descartes và Locke, thời của Kant và Hegel, sau cùng là thời của Marx, và xác quyết những triết học sau Marx, chống Marx hay vượt Marx chỉ là trở lại thời tiền Marx - cho nên để hợp lý, chủ nghĩa hiện sinh của ông nằm trong chủ nghĩa Marx), hai, để thanh toán với những ràng buộc kế thừa tư tưởng là Kierkegaard (khi vay mượn ngôn ngữ ký hiệu học hiện đại trong so sánh quan hệ ngữ ý/ngữ thái nơi Kierkegaard và Hegel) và Jaspers (khi còn là sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm, Sartre và mấy người bạn như Nizan toan tính dịch bộ Allgemeine Psychopathologie/Tâm bệnh học tổng quát của Jaspers đánh dấu bước đầu vào tư tưởng hiện sinh của Sartre). Chủ ý của Sartre khi nêu ra: “người Đan mạch [để chỉ Kierkegaard - ĐPQ] tái xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, khi người ta [để chỉ tư tưởng tư sản - ĐPQ] tính kích bác biện chứng pháp mác-xít qua việc chống lại nó bằng những chủ nghĩa đa nguyên, những hàm hồ, những nghịch lý nghĩa là vào thời điểm tư tưởng tư sản lần đầu tiên thu giản vào phòng vệ. Sựï xuất hiện một chủ nghĩa hiện sinh đức, giữa hai cuộc chiến, chắc chắn tương ứng, ít ra là nơi Jaspers, với một ý chí âm hiểm/sournoise volonté là làm trỗi dậy cái siêu việt”. (Để không tự mâu thuẫn trong hành trạng tư tưởng của mình, Sartre tránh không phê phán người thày khi viết: trường hợp Heidegger phức tạp nên không thể trình bày ở đây được). Aûnh hưởng của cấu trúc luận vào thập niên 60 này, như chính Sartre phải vay mượn, mạnh đến nỗi Sartre phản bác bằng luận điệu của một cán bộ chính trị khi cho rằng cấu trúc luận nhằm cấu thành một hệ tư tưởng mới, be bờ sau cùng mà giai cấp tư sản còn có thể dựng lên chống lại Marx (trong tạp chí L'Arc số 30, 1966 phần Jean-Paul Sartre répond).
Sartre nói đến lịch sử khi phê phán Foucault, đó cũng là nhan đề bài viết về quan hệ lịch sử và biện chứng của Claude Lévi-Strauss trong chương IX tác phẩm La pensée sauvage, 1962 để phản bác Sartre. Ông dẫn ra cái lúng túng của Sartre về hai quan niệm của lý trí biện chứng: khi thì Sartre đối lập lý phân tích với lý biện chứng như giữa giả và chân, khi thì cho hai lý này có vẻ bổ túc cho nhau như hai con đường khác biệt dẫn đến cùng những chân lý, mà tác phẩm mệnh danh Phê phán lý trí biện chứng là kết quả của thao tác bởi chính tác giả trong lý phân tích của ông khi định nghĩa, phân biệt, xếp loại và đối nghịch. Lévi-Strausse hỏi: làm thế nào lý phân tích có thể áp dụng vào lý biện chứng và nhằm xây dựng nó, nếu cả hai lý được xác định bởi những đặc tính loại trừ lẫn nhau? Ngược lại, nếu rốt cuộc cả hai lý dẫn đến cùng những kết quả, và những chân lý của chúng nhập vào một chân lý duy nhất, thì dựa vào cái gì để đối lập chúng, và nhất là cho rằng cái này ưu việt hơn cái kia? Trong trường hợp thứ nhất, công việc của Sartre tỏ ra mâu thuẫn, ở trường hợp thứ hai tỏ ra hời hợt.
Những người tham gia vào cuộc tranh luận này như Jean Pouillon và Raymond Aron đưa ra những nhận xét: Theo Pouillon, cả hai nhà tư tưởng khởi từ cùng kinh nghiệm hiện sinh, nói rõ hơn là thiết lập thông giao giữa mọi xã hội, đặc biệt là giữa những xã hội thường gọi là nguyên thủy và xã hội công nghệ, phát triển của chúng ta; từ kinh nghiệm chung này, Lévi-Strauss nghĩ về sự đa biệt của các xã hội trên cùng một mức độ bằng nhau như thể mọi biến thiên cùng loại, trong khi Sartre nghĩ về chuyển biến của Nhân loại thông qua nhận thức hỗ tương những tổng thể xã hội của mỗi nhóm cho đến khi đạt tới một Chân lý toàn diện. Theo Aron, điểm hội tụ giữa Lévi-Strauss và Sartre ở chỗ họ nhìn nhận dây liên lạc giữa cấu trúc của đối tượng và phương pháp hay bản tính của nhận thức: một đằng ở Sartre, ý thức bao gồm thực tiễn vì đối tượng biểu hiện cùng một cấu trúc biện chứng như chủ thể, không thể lý hội được biện chứng của thực tại nếu như thực tại không có tính biện chứng; một đằng ở Lévi-Strauss, những cấu trúc của những sự kiện nhân chủng học như trao đổi vợ, hay đối lập nhị thứccủa huyền thoại tái sinh sản ra cấu trúc của thực tại xã hội hay tinh thần con người. Cả hai nhà tư tưởng đều cùng hướng là đi tìm cái toàn thể hay tổng thể hóa, cái toàn thể hệ thống những đối lập nơi Lévi-Strauss hay cái tổng thể hóa của thực tiễn trong mỗi kinh nghiệm sống cá thể cũng như của xã hội chung nơi Sartre.
Sự khác biệt thực ra vẫn ở vấn đề triết lý về mặt hữu thể học, đó là ý thức cá thể hay thực tiễn cá thể nơi Sartre là thực tại chủ yếu, có trước, cho nên mọi nhận thức phải trở về kinh nghiệm sống này cấu thành lý trí, còn nơi Lévi-Strauss phân tích cấu trúc là phương thức nhận thức khoa học chính, nghĩa là những hệ thống nhị thức đối lập có trước, là những quy luật cho mọi chức năng xã hội.
Ở vào nửa sau thế kỷ XX có một hiện tượng chưa từng nhận thấy trong lịch sử tư tưởng về trước, đó là những chủ nghĩa hậu/post- với hậu hiện đại luận, hậu cấu trúc luận, hậu siêu hình học, hậu phân tích, hậu công nghiệp, hậu thực dân, hậu cộng sản v.v.. (không nghe nói đến hậu hiện tượng luận, hậu hiện sinh, hậu siêu thực v.v..?). Tại sao vậy? Có những khúc quanh tư tưởng, từ khúc quanh ngữ học/linguistic turn đến khúc quanh hủy tạo/deconstructive turn đánh dấu những chuyển biến quan trọng trong thời đại này. Thực ra khái niệm khúc quanh/Kehre là một dấu chỉ trong hành trạng của mỗi nhà tư tưởng, của mỗi tư trào: như trường hợp Heidegger I và II (khái niệm thủ đắc/Ereignis, để phân chia giai đoạn thực hiện một quyển sách Aristote/Aristotlesbuch, hay từ hiện tượng luận sang thông diễn luận, hay từ Sein und Zeit đến Zeit und Sein?), như trường hợp triết học phân tích, theo Michael Dummett khai sinh từ khi có khúc quanh ngữ học (Frege là người tiền bối của triết học phân tích, khi chỉ ra sự khác biệt giữa ý nghĩa và tham chiếu), như trường hợp Michel Foucault quá độ từ cấu trúc luận qua hậu cấu trúc luận (Peter Tepe trong Postmoderne/Poststrukturalismus, 1992 phân chia ba giai đoạn Foucault 1, Foucault 2 và Foucault 3, sớm nhất là từ Les mots et les choses đến L'archéologie du savoir, giai đoạn giữa từ Surveiller et punir đến La volonté de savoir (Histoire de la sexualité I) và giai đoạn sau cùng là dự án 2 trở đi của bộ lịch sử tính dục).
Cấu trúc luận với Lévi-Strauss và Lacan đã loại bỏ hay đóng triết học lại, trong khi diễn ngôn của Foucault hay Derrida mở ra những vấn đề như đồng thể/tha thể, nhất thể/phức thể, chủ thể/khách thể, vơi/đầy v.v… Nếu Saussure là khuôn mẫu cho cấu trúc luận, thì Nietzsche trở lại trong những tác phẩm của Foucault (ảnh hưởng sâu sắc của phân tích quyền lực/Macht-Analytik), Deleuze và Derrida. Bốn khuôn mặt chính hậu cấu trúc thường được nói đến là Lyotard. Derrida, Deleuze, Foucault, tuy nhiên khác biệt cũng sâu sắc. Lyotard và Derrida khởi cuộc hành trình từ hiện tượng luận, trong khi Deleuze và Foucault chống hiện tượng luận, có thể nói họ khởi đi từ duy nghiệm luận.
Hậu cấu trúc luận xét lại những sai sót của cấu trúc luận qua những giả định mới, cũng như phê phán Saussure và Lévi-Strauss. Chẳng hạn tham luận Cấu trúc, dấu chỉ và phép chơi trong diễn ngôn của các khoa học nhân văn Derrida viết cho Hội thảo quốc tế của đại học John Hopkins vào tháng Mười năm 1966, khi nhận xét cấu trúc luận mệnh danh phê phán duy nghiệm luận “song cùng lúc, không một quyển sách hay một nghiên cứu nào của Lévi-Strauss không tỏ ra là một tiểu luận duy nghiệm mà những thông tin khác luôn có thể bổ xuyết hay bài xích”.
Những khuôn mặt lớn của cấu trúc luận như Barthes, Lévi-Strauss, Althusser xuất thân là những người mác-xít, cho nên luận cứ dẫn trên của Sartre vô căn cứ, và một nhà hậu cấu trúc như Foucault vào năm 1968 trên La Quinzaine littéraire đã phản bác; tôi đã ở trong đảng cộng sản Pháp một thời gian vài tháng…và vào lúc đó Sartre đối với chúng tôi được xác định như thành lũy cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc tư sản… cho nên thật ngạc nhiên thích thú là thấy câu này ngày nay lại thấy từ ngòi bút của Sartre mười lăm năm sau. Tình huống này sau giai đoạn 1968 chỉ để muốn nói đến sự thất bại của cấu trúc luận đã dẫn đến khúc quanh tư tưởng, vào lúc hệ tư tưởng mác-xít rơi vào chỗ bế tắc, đảng CS Pháp trì nõa trước biến động lịch sử, sự ra đời của một dòng ý thức hệ mệnh danh là “tân triết học” với Bernard-Henri Lévy, André Glucksmann, Jean-Marie Benoist, Jean-Paul Dollé, Michel Guérin, Christian Jambet, Guy Lardreau v.v… chịu ảnh hưởng sâu xa hậu cấu trúc luận trong phê phán Marx của Foucault hay Lyotard.
Còn tiếp.