Decca Aitkenhead, Guardian.co.uk, Chủ nhật 3/4/2011
http://www.guardian.co.uk/books/2011/apr/03/grayling-good-book-atheism-philosophy
Trong cuốn sách mới của ông “Quyển Sách Tốt: một kinh thánh thế tục” nhà triết học đưa ra những tuyên ngôn về tư duy hợp lý. Ông nói chuyện về tại sao tôn giáo làm cho ông tức giận, về sức mạnh của triết học, và cái bờm tóc của ông.
AC Grayling với con chó Misty của ông. Ảnh: Christian Sinibaldi
Trong bộ ba vô tín ngưỡng của các nhà vô thần chuyên nghiệp, AC Grayling luôn luôn có xu hướng được coi như một viên cảnh sát hiền từ. Không có dáng vẻ lạnh lùng như Richard Dawkins, không hung hăng gây gổ như Christopher Hitchens, Grayling tiếp cận cuộc tranh luận về Thượng Đế với lối chọc tức nhẹ nhàng hấp dẫn hầu như có thể - nhưng không bao giờ nên - bị nhầm là hòa giải. “Vâng, tôi là loại nhung” ông lặng lẽ cười thầm.
Bởi vậy ông khăng khăng nói rằng quyển sách mới của ông không cùng một loại như những cuốn Thượng Đế Đánh Lừa và Thượng Đế của Hitchens Không Vĩ đại. “Không, bởi vì nó không chống tôn giáo. Không có một sự cố nào về từ “Chúa”, hay thế giới bên kia, hay bất kỳ cái gì giống như thế. Nó không công kích tôn giáo, nó là một quyển sách tích cực, không có cái gì tiêu cực trong đó. Người ta có thể nghĩ là nó chống tôn giáo - nhưng không phải.” Nhưng sau đó ông nói, với một cái nháy mắt tinh quái: “Tất nhiên, có lẽ điều thật sự giúp nhiều cho quyển sách này ở Mỹ là nếu có ai đó bắn tôi.”
Mong sao không thể có chuyện đó, nhưng Grayling hầu như chắc chắn đang làm bối rối rất nhiều người Cơ đốc giáo, vì những gì ông đã viết là một cuốn kinh thánh thế tục. Cuốn Sách Tốt phản chiếu Kinh Thánh cả về hình thức và ngôn ngữ, và như tác giả của nó nói, là “tham vọng và xấc xược - một tinh túy của điều tốt nhất đã được nghĩ đến và nói đến, bởi những người thật sự trải nghiệm cuộc sống và suy nghĩ về nó.” Rút ra từ những văn bản thế tục kinh điển từ đông sang tây, Grayling đã làm đúng như những người tạo ra Kinh Thánh đã làm với những văn bản thiêng liêng ấy,” làm lại chúng thành một “kho báu tuyệt vời của nhìn thấu và an ủi và cảm hứng và nâng cao và hiểu biết trong những truyền thống không tôn giáo vĩ đại của thế giới.” Ông đã làm việc cho tác phẩm này trong nhiều thập niên, và kết quả là một tuyên ngôn uyên bác ngông cuồng về tư duy hợp lý.
Thật ra mọi thứ về Grayling đều là thông thái ngông cuồng cả. Tôi gặp ông ở ngôi nhà phía nam London, trong đó ông ngồi giữa những chồng sách rung rinh, những tòa tháp nghiêng lớn của học vấn, và cuộc nói chuyện liên tục chệch hướng sang mốt gia sư thông thái rởm. Bắt gặp tôi liếc nhìn một trong mấy tập sách mang nhãn Thuyết hiện tượng phụ, ông chuyển ngay sang giải thích chi tiết về khái niệm này - nhưng rồi vui vẻ ngưng ngay khi con chó của ông bước vào nằm cuộn tròn dưới chân ông.
“Ố ồ, trông mày kìa, Misty!” ông cười lục khục, cúi xuống vuốt lưng con chó. “Ố ồ, mày thích thế này, phải không? Sao mày không ra ngoài chơi? À, mày muốn ở lại đây để được phỏng vấn chứ gì ? Ồ, mày trả lời phỏng vấn rất hay, đúng không?” Rồi chỉ một lát sau chúng tôi đã quay trở lại với đề tài gia sư. “Nếu cô không cẩn thận “ ông mỉm cười tôi sẽ giải thích những thuật ngữ có thể thay thế lẫn nhau và tham chiếu chung salva veritate, và chắc chắn là ông làm.
Ông nghĩ những ai sẽ đọc Quyển Sách Tốt? “ Ờ, tôi đang tuyệt đối hy vọng mọi con người trên hành tinh này.” Ông chắc chắn rằng rất nhiều người sẽ tự hỏi ông nghĩ ông là ai mà dám viết một quyển thánh kinh, nhưng có vẻ ông không thấy quá bối rối với chuyện ấy. “Sự thật là quyển sách đã được viết một cách rất khiêm tốn. Vợ tôi đã đưa cho tôi một tấm thẻ,” ông cười rúc rích, “ghi rằng: ‘Tôi từng là một người vô thần cho đến khi tôi nhận ra tôi là Thượng Đế!’ Và tôi biết rằng trên những mảnh đất Monty Pythonesque rất có khả năng năm thế kỷ nữa tôi sẽ là một thượng đế do kết quả của điều này.” Ông lại nén tiếng cười một chút. “Nhưng chắc chắn bây giờ tôi không cảm thấy thích một thượng đế, chắc chắn đấy.”
Những chuyện cười nho nhỏ và tác phong dễ mến của Grayling có thể làm cho ông hoàn toàn vui vẻ hồn hậu nói về tôn giáo, những lúc ông cố nén tiếng cười về “những đàn ông mặc váy ” và “tin vào những cô tiên ở cuối vườn”, và ném ra lời chế nhạo khôi hài như “Anh có thể thấy chúng tôi không còn thật sự tin vào Chúa nữa, bởi vì tất cả các ống kính camera CCTV lúc nào cũng chĩa vào chúng tôi.” Nhưng khi tôi nhận xét rằng ông có vẻ thấy vui thích về tôn giáo hơn là tức giận với nó, ông nói nhanh: “Không, nó thật sự làm tôi tức giận, bởi vì nó gây ra rất nhiều tai ương và bất hạnh.”
Chẳng hạn ông rất bực mình với câu hỏi trong cuộc điều ra dân số ngày nay hỏi “Tôn giáo của anh là gì?” Hội Khoa học Nhân văn Anh vừa mới tiến hành một cuộc điều tra trong đó các đối tượng được hỏi có theo tôn giáo không - 65% trả lời không. Nhưng sau đó hỏi “Tôn giáo của bạn là gì?” 61 % cũng chính những người đó trả lời Cơ Đốc giáo. “Cô biết không, họ nói: ‘À bình thường tôi nghĩ tôi là người Cơ Đốc’. Nhưng hai phần ba dân số không tự coi họ là người có tôn giáo! Như vậy chúng ta phải cố gắng thuyết phục toàn thể xã hội nhận ra rằng các nhóm tôn giáo là các nhóm lợi ích tự quyền, chúng tồn tại để khuyến khích các quan điểm của chúng. Mà trong một xã hội tự do dân chủ thì họ có mọi quyền để làm điều đó. Nhưng họ không có quyền nào lớn hơn người khác, bất kỳ chính đảng nào hoặc Hội Phụ nữ nào hoặc công đoàn nào. Nhưng vì những lý do lịch sử, họ có ảnh hưởng bành trướng quá lớn - những trường học theo tín ngưỡng, truyền thông tôn giáo, các giám mục trong Thượng Viện, sự hiện diện của tôn giáo trong mọi sự kiện công cộng. Chúng ta phải đẩy chúng trở lại đúng tầm cỡ của chúng.”
Theo Grayling, những người vô thần chia ra ba loại chính. Có những người đối với họ sự phản đối thế tục với địa vị đặc quyền của tôn giáo trong đời sống xã hội là động lực những mối quan tâm của họ. Rồi có những người, “như ông bạn thân Richard Dawkins của tôi”, quan tâm về nguyên tắc đến những vấn đề siêu hình học về sự tồn tại của Chúa. “Và tôi có thể nói chắc rằng có một vấn đề thực chất về niềm tin vào cái giả dối.” Nói cách khác, ngay cả nếu tín ngưỡng của một người không làm hại đến ai, thì Grayling vẫn không thích nó. “Nhưng điểm thứ ba là về đạo đức của chúng ta - chúng ta sống như thế nào, chúng ta đối xử với nhau ra sao, một đời sống tốt đẹp là như thế nào. Và đó là vấn đến mà tôi thật sự bận tâm nhất.”
Chỉ trong thập niên vừa qua ba tuyến tư tưởng này đã phát triển thành một chiến dịch công khai chống lại tín ngưỡng - nhưng theo Grayling không phải là những người vô thần đã gây ra sự đối đầu ấy. “Lý do tại sao nó trở thành một vấn đề lớn là do tôn giáo đã lớn giọng lên (tăng volume) bởi họ đang đứng trên chân sau. Ảnh hưởng của tôn giáo đang yếu đi, rõ ràng, và đang giảm về số lượng. Lý do tại sao có cuộc tranh cãi sôi nổi như thế về nó là: con thú bị dồn vào chân tường, kẻ thua trận, bắt đầu lớn tiếng.”
Tuy nhiên, ngay cả nếu điều đó là thật, thì phong trào vô thần đã bị kết án là tự bắn vào chân mình vì đã dùng một giọng điệu quá hung hăng làm cho những người vốn có thể ủng hộ trở nên xa lánh, và làm cho cuộc vận động tôn giáo mạnh lên. Tôi hỏi Grayling ông có nghĩ trong lời buộc tội ấy có gì là đúng không, ông nghe một cách kiên nhẫn và nhã nhặn, nhưng sau đó gạt bỏ nó bằng một cái lắc đầu.
“Ờ, trước hết, tôi nghĩ những lời buộc tội về tính đấu đá và trào lưu chính thống tất nhiên đến từ những đối thủ của chúng tôi, những người hữu thần. Câu trả lời của tôi là nếu có điều kiện họ đã thiêu sống chúng tôi trên giàn hỏa. Tất cả những gì chúng tôi làm là nói thẳng thừng huỵch toẹt cả ra và họ không thích thế,” ông cười. “Bởi vậy chúng tôi nói thẳng thừng huỵch toẹt, và cái chương trình nghị sự đáng kính bây giờ biến mất, họ không còn còn có thể khua môi múa mép đằng sau tấm màn mờ nữa, ‘Ôi ôi, tôi có tín ngưỡng vậy nên anh không được xúc phạm tôi.’ Bởi vậy họ không thích nói thẳng thừng. Nhưng chúng tôi không thiêu sống họ trên giàn hỏa. Họ phải nhớ rằng nếu tình thế ngược lại sẽ là một vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều.
“Và ngoài ra, thật thế.” Ông cười thầm nhẹ nói thêm, “Làm thế nào anh có thể là một người vô thần chiến đấu được chứ? Làm sao anh có thể trở thành một người không-sưu-tầm-tem có tính chiến đấu được? Đây thật sự là cái mà nó phải đi đến. Anh đơn giản không sưu tầm tem. Vậy làm thế nào anh có thể là người không sưu tầm tem chính thống được? Nó giống như ngủ một cách hung hăng. Đơn giản là nó sai.”
Nếu quả thực Grayling có một niềm tin kiên định nào đó, thì đó là tất cả chúng ta có khả năng hiểu triết học. Ông lớn lên trong một gia đình thực dân ở nơi mà bây giờ là Zambia, ở đó mối bận tâm chính của người lớn là ngoại tình, thả lỏng cho ông tự do vùi đầu vào sách vở. Ông đọc Plato lần đầu năm 12 tuổi, và nói một cách nồng nhiệt “mọi người có thể đọc Đạo đức học cho Nichomachus của Aristotle trong bồn tắm, nó thật tuyệt diệu!” mặc dầu tôi ngờ rằng ý tưởng của ông về sự dễ đọc không giống như của bạn hay của tôi.
Là tác giả của 30 đầu sách, ông là giáo sư triết ở Đại học Birbeck ở London, và phụ giảng ở Đại học St Anne, Oxford đồng thời là nhà hoạt động nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Nhưng có lẽ mô tả ông hay nhất là câu nói có thể làm người Anh này khó chịu - trí thức của công chúng.
“Tôi dùng hơn một nửa đầu sự nghiệp của mình trong tháp ngà để viết triết lý chuyên môn, nhưng tôi nhận ra từ rất sớm rằng triết học hàn lâm là một phần rất nhỏ hẹp của lĩnh vực này. Đây là một trong những quan niệm lớn của tôi: rằng triết học thuộc về mọi người. Cho đến cách đây 100 năm triết học vẫn thuộc về mọi người. Tiếc thay ngày nay nó chứa đầy biệt ngữ và kinh viện, nên nó đã trở thành quá chuyên môn. Nhưng có nhiều cái tôi viết ra đã cố gắng chứng minh cho mọi người rằng đây là một phần của cuộc trò chuyện mà loài người tự nói với mình, về tất cả những câu hỏi lớn. Tất cả chúng ta là những con khỉ thông minh, 99% chúng ta có khả năng hoàn hảo để hiểu điều này, và tôi cảm thấy tin tưởng một cách có lý rằng nếu có đủ thời gian và máy chữ tôi có thể giải thích hầu hết những gì diễn ra trong triết học chuyên môn, cho một người hoàn toàn chưa có nền tảng gì trong môn này.
Trong thế giới triết học có một bè phái khinh thường tỏ ra không tin vào cố gắng đưa môn này đến với công chúng rộng rãi hơn không?
“Ồ, tôi hoàn toàn chắc chắn điều đó. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng thái độ đó theo thời gian đã biết điều hơn một cách đáng kể. Từ 10 đến 15 năm trước, khi tôi bắt đầu là làm việc này, tôi chắc chắn có nhiều khịt mũi khinh thường” Tuy nhiên một lát sau, ông khịt mũi đôi chút, khi tôi nhắc đến các tác giả ăn khách mà ông mô tả như những triết gia giả hiệu.
“Hừm, ừ, [Alian] de Bottons và vân vân,” Gryaling lầm bầm hơi buồn bã. “Anh ta là một anh chàng dễ thương tuyệt vời, nhưng không phải nhà triết học. Đó là một thứ người vô dụng. Điều làm tôi lo ngại là một ai đó sẽ đi vào đó và nghĩ “Ồ, đây là một cơ hội để suy nghĩ và tìm ra một cái gì” và sau đó thấy rằng nó thật sự rất nông cạn không có gốc rễ. Và tôi nghĩ rằng những người làm những loại việc đó nên thật sự làm một việc gì đó và lao mình vào cái gì đó nghiêm túc, thì sau đó họ sẽ không mắc nhiều sai lầm khi đến lúc phải cố gắng giới thiệu nó cho những người khác.”
Không ai có thể nghi ngờ rằng Grayling đã “thật sự làm một việc gì đó.” Lần đầu tiên ông nghĩ đến Quyển Sách Tốt là khi còn là sinh viên đại học, và chắc chắn nó giống như một tác phẩm của một người nghiện làm việc đích thực. “Tôi nghĩ cả nhà tôi sẽ nói tôi là một kẻ nghiện việc ở một mức độ nào đó” ông đồng ý, mỉm cười hài hước. Ông sống với người vợ thứ hai, một nhà tiểu thuyết, và đưa con gái 11 tuổi của họ, nhưng cũng có hai đứa con đã lớn từ cuộc hôn nhân đầu, và người ta không thể không nghĩ rằng tất cả bọn họ đã giúp ông liên lạc với một thế giới không đọc Plato từ năm 12 tuổi.
Ông cho rằng sự nghiện việc của ông là do cái chết của người em gái ông, bị giết ở Nam Phi khi cô 20 tuổi. Tình cảm của ông đối với lục địa của tuổi thơ ấy, và về cái chết của người em gái, là nỗi đau đớn nhạy cảm đến nỗi mãi đến năm ngoái ông mới có thể ăn đôi chút hoa quả nhiệt đới. “Tôi chỉ có thể bắt đầu ăn một vài miếng xoài,” ông khẽ nói.
Đây là một khoảnh khắc hiếm hoi khi trí óc hợp lý của Grayling để lộ ra một tia le lói của một cái gì đó có tính xúc cảm chủ quan hơn. Nhưng tất nhiên, phần lớn cuộc sống và những xét đoán của con người ta đâu có phải được dẫn dắt bằng lý trí nghiêm ngặt - là cái phải làm ông phát khùng. Bởi vậy tôi tự hỏi ông nghĩ gì về sự ngoan cố của loài người cứ gắn vào những thôi thúc không lý trí như thế.
“Tôi nghĩ họ đang thất bại trong trách nhiệm của họ đối với bản thân như những con người có trí tuệ. Nhưng không phải là có trí tuệ đầy đủ. Nếu bạn thật sự thúc ép họ, bằng cách hỏi họ: liệu bạn có vui lòng để cho những người chế tạo chiếc máy bay mà bạn đi dùng lý trí không? Bạn có vui lòng để cho các phi công được đào tạo theo lý trí không? Bạn có vui lòng không khi bác sĩ hoặc người lái tàu nghĩ về những việc họ làm và sử dụng lý trí? Và họ sẽ nói có. Khi đó bạn nói “Được, tốt thôi, nếu đã thế thì áp dụng điều đó cho cả cuộc sống của chính bạn nữa được không?”
Chúng tôi kết thúc, và tôi có một câu hỏi nữa. Tôi ngập ngừng, rồi đánh liều hỏi tôi có thể hỏi về tóc của ông không?
“Ôi Trời, tóc của tôi.”
Ông luôn được người ta miêu tả như một triết gia tóc bờm sư tử, do đó tôi tò mò muốn biết ông làm thế nào giữ được mái tóc tuyệt diệu đó. “À, tôi không thật sự dùng nhiều sản phẩm,” ông nói “trông nó phải giả tạo lắm, nhưng không, và tôi phải dùng nhiều keo cho nó. Tôi dùng một ít keo để giữ nó ở trên đây - tôi không biết nhãn hiệu của nó là gì, nó là một thứ như keo xịt tóc. Tôi muốn nói mọi thứ keo dính đều được cả, chỉ là để giữ cho trán cao lên thôi.”
Tuy vậy nó cần chú ý nhiều lắm, đúng không? “Không, không nhiều lắm, nhưng tôi tốn nhiều keo cho nó. Cô biết không, hồi những năm 60 tôi có một mớ tóc rất, rất dài, và nó làm tôi rất vướng víu. Nhưng mấy năm trước tôi nói với mấy đứa con tôi, rằng tôi sắp cắt mớ tóc của tôi đi, tôi vẫn bôi tất cả cái keo này lên nó, - tôi sắp cắt trụi cả mớ tóc của tôi đi, chúng nó bảo: “Không! Trông cha không giống cha nữa, như thế sẽ không còn là cha nữa.”
Ông nói ông không hề có ý tự đắc, nhưng ông đúng là trông giống một người chăm sóc kỹ lưỡng diện mạo bề ngoài của mình. “Ô, vâng, cô thật là tử tế đã nói thế” ông mỉm cười “tôi không tự ý thức hay nhận biết về bản thân mình. Tôi chỉ tạo ra một ấn tượng sai với kiểu tóc này. Điều này nói ra có thể là kỳ cục, tôi chắc rằng các nhà tâm lý học sẽ chụp lấy cái này, nhưng thật ra - ờ, thật ra tôi phần nào không tồn tại. Phần còn lại của thế giới có tồn tại, và tôi thật sự quan tâm đến nó. Nếu có một nhóm người ngồi quanh, và tôi nghĩ về nó sau đó, tôi luôn luôn quên không nhớ được rằng tôi có ở đó, nếu cô hiểu tôi muốn nói gì.”
Vậy khi ông nhìn thấy ông trong những bức ảnh chụp cả nhóm ?
“Ồ, tôi ngạc nhiên thấy tôi ở đó! Vâng rất ngạc nhiên.”/.