- Anh muốn hỏi chuyện Cù Cưa, hử? – hướng đôi mắt mờ đục và bất động về phía tôi, ông già ghé sát vào mặt tôi để nghe rõ câu hỏi – Nhưng cụ thể là chuyện gì cơ?
- Dạ, chả là cháu phải viết một bài báo.
Ông già suy nghĩ.
- Anh là nhà báo hử?
- Vâng.
- Ầy à…, nhà báo… - cụ Cần im lặng một lát; rồi gãi đầu - Cái ấy thì… thế này: nói thật, tôi không rành. Anh hỏi uỷ ban, họ có trách nhiệm. Hay là… thế này: anh tìm cụ Trưởng Giám. Người ở đây lâu nhất là cụ ấy. Tôi mới có ba chục năm. Kể như mới. Tôi chẳng biết bao nhiêu đâu.
Một cây bút nữ nổi tiếng trong nhóm Phá Cách giới thiệu ông ngoại của cô với tôi. Cổ nhân dạy: đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ, có người để hỏi là tuyệt rồi. Nhưng tôi không may - ông già mà tôi đặt nhiều hi vọng vào đấy lại tiếp tôi không nhiệt tình.
- Cháu nó quen anh thế nào?
Tôi vội vã trình bày. Cô cháu cụ thỉnh thoảng có thơ đăng trên tờ báo của chúng tôi. Quan hệ cộng tác viên với toà soạn, không hơn không kém. Cụ Cần nghe, không tỏ thái độ. Nhưng cái sự không tỏ thái độ ấy là thái độ rõ ràng - cụ không hài lòng về sự giới thiệu của cô cháu gái. Tôi đoán cụ còn không hài lòng về hoạt động của chính cô cháu nữa kia. Nhóm Phá Cách của cô tên tuổi rùm beng vì sự hăng hái tấn công vào mọi loại bút pháp của các nhà văn nhà thơ mà họ cho là cổ hủ. Tôi cho cụ biết nhóm của cháu cụ không dại, họ biết tránh né những chỗ cần tránh né.
- Ông em biết mọi chuyện ở Cù Cưa – cô khoe - Ngồi một chỗ mà cụ thấy hết. Cấm cái gì lọt qua mắt cụ.
- Tính tôi không thích rắc rối. – cụ Cần thủng thẳng – Ở đây nhiều đứa thối mồm lắm. Mà ở đâu chẳng vậy, có phải không ạ? Phàm chuyện gì đưa lên báo là y như rằng thiên hạ nhao nhao bình phẩm. Phải không sao, chệch một cái là y như rằng lôi thôi, chờ được vạ thì má đã sưng, chẳng phải đầu cũng phải tai.
Tôi nhìn cụ, thông cảm. Cụ nói phải. Đầu cụ lơ thơ mấy sợi tóc, tai cụ nghễnh ngãng, cả hai thứ đều mỏng manh, bất cứ va chạm nhỏ nào cũng gây ra hư hỏng.
- Nhưng cháu nó đã giới thiệu thì có việc gì cần đến tôi, anh cứ lại. Mà này, chớ ở khách sạn làm gì cho tốn tiền. Tối cứ về đây, có mình tôi thôi. – cụ lầu bầu - Ở chốn này làm gì có khách sạn, một cái nhà trọ chết tiệt, cơ mà người ta thích nói thánh nói tướng, cho nó sướng cái miệng.
Ngày thứ nhất
Tìm nhà cụ Trưởng Giám không khó. Đó là một túp lều ở đầu thị trấn, cách xa những ngôi nhà tân thời, bên một bãi rác. Người đầu tiên đặt nền móng cho cái thị trấn sầm uất đáp lời hỏi thăm của tôi bằng một tràng ho khan.
- Đẩy cửa mà vào.
Cánh cửa bằng nứa ken, méo xẹo, xệ xuống đất. Muốn vào nhà, khách phải nâng nó lên bằng cả hai tay rồi đẩy về phía trước. Nó cưỡng lại, bực bội kêu kèn kẹt.
Một ông già thấp tè, lưng còng, xương xẩu, còn điếc hơn cả ông già chỉ đường cho tôi đến hỏi thăm nữa. Trong nhà không có bàn tay đàn bà, rõ ràng thế. Tuềnh toàng, ngập ngụa. Có mùi mốc và mùi chuột chù.
Cụ Trưởng Giám ngồi chồm hổm trên giường, vai khoác hờ cái chăn dạ rách rưới, mặt gày quắt, trên đó sáng quắc một cặp mắt hướng ra cửa, tức là chỗ có cái ô sáng méo mó hình chữ nhật:
– Nhà báo hử? Vào đây, vào đây. Đứa nào chỉ cho nhà anh đến tìm ta? Lại lão Cần, phải không?
- Dạ, phải.
- Lão ấy khôn như rận. Lão khôn từ lúc còn trẻ kia, càng già càng khôn, càng già càng nhát. Lão biết nhiều lắm đấy, còn nhiều hơn ta kia, nhưng lão im, không nói. Ta thì ta cóc sợ thằng nào con nào hết. Nhà báo cứ việc hỏi. Hỏi cái gì cũng được.
Tôi đứng giữa nhà, trình bày mục đích gặp cụ. Cù Cưa nổi tiếng, cần một phóng sự.
- Thế thì ngồi xuống đây đã, chuyện dài đấy. Nghe rồi ghi, này, đã ghi thì ghi cho chính xác vào nhá.
- Dạ.
- Ghi đi, rằng ta, lão Trưởng Giám này này, nói thế: chúng nó rặt một lũ vô ơn.
Cụ không kể, cụ chửi.
- Chúng nó là ai, thưa cụ?
- Còn đứa nào vào đấy nữa – là cái bọn đang ngồi trên đầu trên cổ cái xóm này này.
Bằng ngón trỏ cong queo cụ Trưởng Giám chỉ ra ngoài cửa. Rồi vừa khò khè nguyền rủa vừa chỉ cho tôi chỗ để ấm nước vối, bảo tôi rót lấy mà uống. Nước nguội tanh trong giỏ.
- Ở đây, cụ là người khai sơn phá thạch, cụ Cần bảo thế…
- Thì còn đứa chó nào vào đấy nữa.
Cụ Trưởng Giám ưỡn bộ ngực lép kẹp trong dáng tự hào.
- Nhưng lão Cần không dám kể gì hết, đúng không nào? Thế đấy, ai hỏi chuyện Cù Cưa là lão đùn đẩy, lão sợ đụng chạm. Ta thì không. Trước ta cũng sợ. Nhưng giờ ta không sợ nữa.
Sổ tay đặt trên đùi, tôi ngồi trên chõng, bên cạnh cụ, tôi ghi.
Cụ trưởng Giám thôi chửi, cụ mệt. Tôi mường tượng cái xóm nhỏ đìu hiu nửa thế kỷ trước – cái xóm tí tẹo với dăm nóc tranh, gọi là xóm còn không đáng, đừng nói làng. Người đàn ông già ngồi bên tôi lúc ấy là một anh bộ đội, thời ấy người ta gọi là “đi làm cách mạng”. Duyên trời, cụ gặp cụ bà ở vùng này. Vất vả lắm họ mới cưới được nhau.
- Kỷ luật trong quân ngũ ngày ấy nghiêm lắm: luyến ái - cấm, hủ hoá – kỷ luật. Không như bây giờ.
- Tức là trước kia tốt hơn?
- Tốt chó gì mà tốt.
- Hai cụ vẫn cứ lấy nhau?
- Chứ sao.
Cụ không nói vì lẽ gì cụ không ở bộ đội nữa. Có thể đoán là cụ bị thương, có thể cụ bị sốt rét nặng không đủ sức ở lại đơn vị chiến đấu, hoặc cụ nại ra một cớ gì để không ra chiến trường nữa. Trong câu chuyện cụ lờ đi những chi tiết ấy, những chi tiết cũng rất đáng để biết, cho một truyện ngắn nhiều hơn cho một bài báo. Bù vào đó cụ dẫn tích bằng giọng hào hứng, với những chi tiết huyền thoại, chuyện cụ đã dựng nên nóc nhà đầu tiên ở đây như thế nào. Bây giờ cái chỗ cụ dựng túp lều đầu tiên đã là một thị trấn, được nhà nước thừa nhận, bằng văn bản hẳn hoi, được đăng trên công báo. Có đèn điện, có nước máy, có quan có dân, có trộm có đĩ, có xì ke ma tuý, có công an vận cảnh phục đi lại, có xe cảnh sát giao thông hú còi ầm ĩ, có sòng bạc nhởn nhơ, có đủ thứ, không là thị trấn còn là cái gì. Có hai xã gần, một ở trên đường, một trong rừng. Theo lệ thường, nó phải được gọi là Xóm Trại, xóm của dân ngụ cư, thuộc một trong hai xã kia.
- Tại sao nó lại có tên Cù Cưa, thưa cụ?
- Cái ấy có tích của nó. Nhẩn nha rồi ta kể.
Trên con đường xuyên sơn được Nhật làm trong đại chiến, hai bên toàn rừng với đồi tranh, bỗng chồi ra một rẻo đất bằng phẳng, sim mua lúp xúp. Nó lại ở sát giao lộ của con đường tạm, trải đá, với tỉnh lộ trải nhựa do Pháp xây dựng. Thoạt đầu, trên rẻo đất hoang mọc lên một quán nước tự giác. Chủ quán chính là cụ Trưởng Giám bây giờ.
- Tức thị, cụ sống bằng buôn bán?
- Xì, buôn bán gì. Tôi làm ruộng. Buôn bán thời ấy có mà chết. To bị cấm, nhỏ bị khinh, không như bây giờ.
Những người già thường thế - lúc nào cũng so sánh ngày trước và bây giờ. Trong cách nói của họ cái ngày trước dù có tồi tàn đến mấy, dù họ có chê bai nó đến mấy, cũng vẫn cứ tốt hơn bây giờ.
Cụ Trưởng Giám làm ruộng, đốn gỗ. Cụ không cần coi cái quán. Gọi là quán chứ nó chỉ là một túp lều lợp lá chuối ở vệ đường. Cứ việc bày mấy món hàng lên cái chõng tre xộc xệch rồi muốn làm việc gì thì làm. Khách qua lại rẽ vào quán, tự nhiên ăn, tự nhiên uống, tính lấy mà bỏ tiền vào một ống nứa. Trên chõng vẻn vẹn vài nải chuối ngô, đĩa sắn luộc, đĩa lạc rang, chĩnh nước vối..., giá viết nguệch ngoạc bằng mực tím trên giấy dó. Khách là dân lái xe đường dài, bộ đội đi công tác lẻ, chẳng ai thèm ăn quỵt. Đã có một thời mộc mạc và dễ thương như thế.
Sau, thấy đất ấy làm ăn được người ta mới kéo đến, nhà nọ nối nhà kia thành xóm. Chiến tranh hết, sự buôn bán ven biên được khai thông, được mở rộng, dân cửu vạn đi lại rầm rập, quán trọ nhà hàng mới mọc lên như nấm sau mưa. Rồi có cả mấy tổ hợp làm măng xuất khẩu, máy rửa măng, máy đóng hộp xình xịch ngày đêm.
Tôi nhắc cụ quay về với sự tích cái tên lạ tai.
- Ờ, là thế vầy. Thoạt kỳ thuỷ, xóm này chẳng có tên có tuổi gì. Đến khi người đông dần, quán xá nhiều, đã có thể thu thuế, thì cái xã trên đường ở đàng kia kìa mới toan ghép nó vào địa giới của mình. Cái xã ở trong rừng không chịu. Hai bên giành nhau, huyện không biết phân xử thế nào, đùn cho tỉnh. Tỉnh cũng bối rối, nay quyết thế này, mai lại quyết thế khác. Có điều lạ là chẳng bên nào buồn hỏi ta muốn nhập vào đâu, ta có muốn nhập hay không. Nhập vào đâu làm gì? Cái xóm này tự nó mọc ra, tự nó lớn lên, trên không chằng dưới không rễ, một mình một cõi, nó có thuộc về ai bao giờ.
- Xóm gần xã nào hơn, cụ?
- Bằng chằn chặn.
- Thế thì khó xử thật.
- Kiện lên kiện xuống, sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, có lúc nó đã có tên đấy: xóm Tân Lập, xã Đông Phong…
- Tức là thuộc về cái xã bên đường cái?
- Không phải. Thuộc cái xã trong rừng.
- Tân Lập, cái tên nhàm, nhưng nghe cũng được. – tôi nói.
- Được cái con khỉ ! - cụ Trưởng Giám gắt – Nó cho mình cái tên êm tai để nó giắt mình vào cạp quần. Hai xã tiếp tục kiện. Ta cũng đâm đơn lên trên, ta cóc muốn về với bên nào, ta muốn một mình một cõi. Lằng nhằng mãi. Mới có cái tên là Cù Cưa. Ta lúc bấy giờ là người đứng đầu ở đây. Ta, tức là cả xóm.
- Đã thành thị trấn rồi sao người ta vẫn gọi là Cù Cưa?
- Thị trấn Tân Sinh chỉ có trên giấy, người qua kẻ lại vưỡn cứ Cù Cưa mà gọi. Ông có thuốc đấy không?
Cụ chìa cho tôi cái điếu bát. Tôi không hút thuốc lào, tôi móc túi lấy bao Vinataba. Cụ đón bao thuốc, nhón một điếu, châm lửa, bỏ bao thuốc xuống chõng, bên đùi mình. Tôi mở xà cột, lấy bao khác.
- Bây giờ thị trấn có bao nhiêu dân, thưa cụ?
- Cái ấy ông phải hỏi Con Nặc Nô. Thời ta không có lệ đếm người. Trâu bò gà vịt thì có, người thì không. Cứ việc lấy nhau, cứ việc đẻ. Đất này tốt, đàn bà ở đây mắn.
- Con Nặc Nô là ai cơ, thưa cụ?
Cụ Trưởng Giám trề môi dưới trong câu trả lời không âm thanh.
Con Nặc Nô hoá ra không phải một con mẹ ba vạ nào đó hiểu sâu biết rộng, mà là bà chủ tịch thị trấn. Tôi không biết từ nguyên của Con Nặc Nô là gì, nhưng chắc chắn nó có nghĩa không đẹp. Người ta dùng nó để chỉ người đàn bà chanh chua, chỏng lỏn, hùng hổ, lắm điều, đanh đá, và nhiều tính xấu khác nữa. Không phải mình cụ Trưởng Giám gọi người đứng đầu thị trấn bằng cái tên như thế, sau tôi mới biết. Cụ Trưởng Giám nói to, còn dân thị trấn nói nhỏ. Sự đời là vậy, chẳng có gì lạ, đã không ưa thì dưa có giòi. Nhất là đối với những bậc chức sắc của bất cứ chính quyền nào. Họ bao giờ cũng là mục tiêu của sự soi mói, và tất nhiên, của sự đàm tiếu.
Con Nặc Nô không còn trẻ, nhưng cũng chưa đến nỗi già. Sắc đẹp thường thường bậc trung. Có thể chê đôi lưỡng quyền cao, làn da không mịn màng, không được trắng trẻo, tuy không thể gọi là thiết bì. Hàm răng hơi hô, với những cái răng to, không đều.
- Chào nhà báo. – nàng tươi cười đón tôi trong trụ sở uỷ ban, trong phòng làm việc của nàng – Em vẫn thường đọc báo anh đấy. Báo của anh uỷ ban em không đặt mua, nhưng tiếng tăm lắm.
Khi nàng cười trông nàng tươi tắn. Tôi chỉ có thể gọi nàng là “nàng”. Bởi vì khi giao tiếp nàng không những không có vẻ đáng ghét như cái tên thiên hạ đặt, mà về khía cạnh nào đó phải nhận rằng nàng dễ thương, thậm chí còn duyên dáng. Trong cử chỉ. Trong cách phục sức. Nàng có giọng nói ngọt ngào, thánh thót. Mà không chỉ giọng nói, cái cách nàng nói cũng rất quyến rũ. Khi nàng cười, tôi bất giác bật cười theo. Nghe nàng nói véo von tôi quên cả ghi chép, để nàng phải giục:
- Ơ kìa, anh không ghi thì rồi quên mất cái chi tiết ấy đấy. Nó thú vị lắm.
Tôi ghi. Nàng ngọt ngào:
- Gặp anh vui thật. Này, em cũng là đồng nghiệp với anh đấy, anh biết không?
- Thế ư?
Tôi cũng vui với nàng. Con Nặc Nô mở ngăn kéo lấy ra một tập hồ sơ, đưa cho tôi. Thì ra nàng cũng làm thơ. Thơ đăng trên tờ báo tỉnh, nhưng cũng là thơ được in, với những vần thơ xuống hàng hẳn hoi, không giống thơ liền tù tì một câu dài nửa trang của nhóm Phá Cách là thứ thơ tôi kính trọng nhưng không đọc.
- Anh thấy thế nào?
Nàng đặt tay lên tay tôi. Da nàng mát rượi.
Tôi đọc. Thơ của nàng là thứ thơ củ khoai, thơ cổ động, thường lạc vận, đôi chỗ leo thang, nhưng dễ hiểu. Nó bốc thơm, nó kêu gọi, nó ra lệnh. Thứ thơ này thường được các bậc chèo lái quốc gia ưa thích, vừa dễ làm, vừa na ná như thơ để có thể gọi là thơ.
- Cũng được đấy.
- Được là thế nào? – nàng nguýt tôi - Chỉ có hay trở lên thôi.
Tôi lập tức đồng ý với nàng.
Chúng tôi thân nhau ngay. Sau cuộc gặp gỡ đáng ngán với một ông già nhát gan và một ông già ba gai, nàng là luồng gió mát.
Con Nặc Nô kéo tôi đi thăm thị trấn. Ở đâu nàng cũng được trọng vọng. Từ trong cửa hàng người ta chào nàng bằng nụ cười tươi, nói những lời có cánh. Mấy anh công an nhác thấy nàng là xin gặp riêng một phút để báo cáo những vụ việc khó xử.
- Thị trấn là một nước nhỏ. – nàng nói – Đủ thứ công việc: tài chính, thương mại, an ninh, ngoại giao, ngoại thương, nội chính…. Vất vả lắm. Như con mọn ấy.
Nàng chưa có chồng. Chắc chắn nàng chưa biết trông con mọn thế nào.
Bữa trưa nàng dẫn tôi đi ăn phở chua, một món ăn lạ miệng tôi chưa hề nếm qua, một cái gì đó ở giữa bát “thắng cố” của miền núi với phở xào, nhưng có rưới nước dưa.
Buổi tối, chúng tôi ăn đặc sản, “ở cửa hàng này có đủ mọi thứ thịt rừng mà thủ đô không có, rồi anh thấy”, nàng nói. Tôi được ăn thịt nhím nướng ròn, trăn om nghệ, bìm bịp xào nấm.
- Tuyệt thật.
Nàng đưa tay quệt mép. Nàng ăn say sưa.
- Người Tàu cũng thường sang đây ăn. Họ đặt mua thú rừng với số lượng lớn. Nhờ thế mà thợ săn kiếm được, thương lái giàu lên.
- Thế chuyện bảo vệ động vật quý hiếm thì sao?
- Thì cứ bắt, cứ bán cái đã. Ngày mai là chuyện của trời.
Nàng cười ngặt nghẽo.
- Kinh tế thị trường mà. Anh uống đi.
Tôi uống. Rượu Mai Quế Lộ. Nặng mà êm.
Khuya, nàng dẫn tôi về nhà nàng, tiếp tục kể chuyện Cù Cưa. Trong nhà nàng cũng sẵn rượu. Nàng mở chai Mao Đài thết tôi. Thứ Mao Đài trong bình sứ, bọc nhiễu đỏ. nghe nói phải đặt mua tận Bắc Kinh mới có. Quý lắm.
Tôi lên giường nàng lúc nào không hay. Chuyện này hiếm giữa hai người mới quen nhau. Nhưng rượu làm cho tôi mất khả năng ngạc nhiên. Tôi chỉ thấy một niềm vui dâng lên, tràn ngập. Trên giường nàng không hiền dịu, mà là một con hổ cái. Mồ hôi đầm đìa, tôi anh dũng vật lộn với con hổ. Cho đến khi nàng vắt kiệt tôi, biến tôi thành cọng dọc mùng mềm nhũn trong bát canh bung, tôi mới được thả ra.
Chúng tôi nằm bên nhau, thở rốc.
- Bây giờ thì anh về. – nàng đứng lên, sau khi đã nghỉ ngơi – Anh ở khách sạn nào nhỉ?
Tôi hiểu. Nàng không để tôi ở lại. Không thể. Hoặc không muốn. Nàng là người đứng đầu thị trấn. Một thứ lãnh tụ. Mà lãnh tụ thì phải đạo đức. Không tì vết.
- Anh cầm lấy cái đèn pin mà về.
Nàng nói, với một chút ân cần.
Đèn pin trong tay, tôi lảo đảo bước ra đêm đen. Ngôi nhà hai tầng của nàng là một khối sáng trong bóng tối. Dưới chân nó, sau nhà, là một con suối. Tôi không nhìn thấy nó, nhưng nghe tiếng nước chảy rì rầm. Một ngôi nhà to. Trong đó có một con hổ cái.
Thị trấn im lìm trong đêm. Cuối cùng rồi tôi cũng lần mò tìm được một khách sạn. Hình như nó là cái duy nhất. Đúng như lời cụ Cần, một cái nhà trọ, với những căn phòng trống và những chiếc giường trải chiếu ẩm ướt. Tôi vừa đặt mình xuống thì những con rệp hung hãn đã ào ào xông tới.
Ngày thứ hai
Tôi đến nhà cụ Cần khi còn tối đất. Tôi tin chắc người già dậy sớm. Quả nhiên cụ Cần đã ở ngoài vườn, đang dọn cỏ mấy luống rau. Cụ ngạc nhiên:
- Tối qua sao anh không về? Ngủ đâu?
- Cháu ngủ ở khách sạn.
Cụ đưa bàn tay khum khum lên vành tai.
- Ai đưa anh đến đấy?
Tôi lúng túng:
- Cháu tự tìm.
Cụ nhìn vào mặt tôi:
- Rệp cắn không ngủ được, phải không?
Tôi tránh cái nhìn soi mói của cụ.
- Vâng.
Cụ Cần mỉm cười.
- Anh đã gặp Con Nặc Nô?
- Dạ, đã.
- Vào nhà uống nước.
Tôi theo cụ vào nhà.
Khác cụ Trưởng Giám, cụ Cần tuy cũng không còn cụ bà, con cái đều ở xa, nhưng nhà cửa ngăn nắp, vườn tược gọn gàng. Chúng tôi uống trà. Trà búp. Cái ấm chu sa đối ẩm, hai cái chén, cái nào cũng sạch bong.
- Cụ Trưởng Giám chê tôi nhát, phải không?
Tôi uống thật chậm để chọn chữ:
- Cụ là người biết nhìn trước ngó sau, cụ Trưởng nói thế.
Cụ Cần cười:
- Anh cứ nói toạc ra là cụ ấy bảo tôi sợ. Chẳng phải mình tôi, cả xóm này thế cả. Thoạt kỳ thuỷ, dân chưa đông thì khác, người nọ bảo người kia, mọi người trông nhau mà ăn ở sao cho phải đạo. Sau, mỗi ngày mỗi đổi, tôn ti trật tự đâu ra đó, không sợ cũng không được. Chẳng hiểu có phải vì đông dân thêm mà sinh ra thế không? Ý tôi muốn nói: trước kia chưa có dân, chỉ có xóm giềng với nhau thì dễ, chứ có dân rồi thì ắt phải có quan, có quan rồi phải có lính, phải trình báo, phải xin xỏ, phải vi thiềng, tôn ti trật tự là như thế…
Tôi không hiểu cụ khen hay cụ chê. Giọng cụ đều đều.
- Nhưng còn bầu bán thì sao?
- Có chứ, có cả. Bầu là cho có cái tiếng thế thôi, ở đâu chả vậy, chứ người ta sắp đặt trước cả rồi, dân chúng tôi chỉ còn có việc nhất trí giơ tay thôi.
Có lẽ cụ Cần đã nghĩ lại. Cụ vẫn ý tứ, tránh những chữ mạnh, nhưng tôi hiểu cụ muốn nói gì.
- Cháu dạo qua một ngày, thấy buôn bán tấp nập, phố xá đông vui… Thị trấn phát triển, tương lai lắm. Bà chủ tịch thân đưa cháu đi tham quan mấy cơ sở sản xuất, thương nghiệp, dịch vụ…
Cụ Cần nhếch mép. Mấy cái răng cửa hàm trên không còn, cái nhếch mép của cụ không ra cười mỉa, không ra mếu.
- Tin Con Nặc Nô có mà đổ thóc giống ra mà ăn.
- Cháu thấy bà ấy có vẻ tích cực lắm.
- Anh là người qua đường, làm sao biết được. Chính chúng tôi cũng còn nhầm nữa là. Con Nặc Nô là đứa mồ côi, chính chúng tôi nuôi nó từ tấm bé. Gọi là con mồ côi cũng là gọi thế thôi, do quen miệng, chứ không đúng, nó là đứa con hoang, không cha không mẹ. Chính cô con dâu cụ Trưởng Giám nhặt được nó ở đầu ngõ, bọc trong mớ giẻ. Không biết đứa trốn chúa lộn chồng nào nỡ vứt đứa con rứt ruột đẻ ra như thế? Nó lớn lên, cả xóm này đùm bọc nó. Mới nghĩ rằng tre già măng mọc, nó đứng đầu ở đây thì dân được nhờ, ăn cây nào rào cây ấy. Hoá không phải. Ăn cây táo nó rào cây soan đâu.
- Tức là bà được bầu làm chủ tịch hẳn hoi?
- Bầu chứ. Chúng tôi tin nó. Như tôi vừa nói ấy. Chúng tôi đâu có biết trước rồi ra nó thành Con Nặc Nô. Mà ai có thể biết trước được cơ chứ? - cụ thở dài đánh sượt - Lúc bé nó ngoan lắm. Ai thấy nó cũng yêu.
Cụ ngậm ngùi uống trà.
- Con này mà nói thì khéo vô cùng. Nó nói kiến trong lỗ phải bò ra… Phàm cái gì từ miệng nó phát ra đều hay cả, cứ gọi là ngọt như mía lùi. Nhưng khốn nạn, hay thật đấy, cơ mà chỉ hay cho nó, với lại phe cánh nó thôi, chứ không hay cho mình… Anh thấy dân chúng tôi có vẻ phởn phơ là anh mới thấy cái bề ngoài. Tiếng ta hay lắm. Anh có hiểu tại sao có hai chữ “dân gian” không? Phàm đã có quan thì dân phải gian mới sống được. Không gian chỉ có chết. Ấy là nói riêng với anh như vậy. Chớ viết lên báo.
Cô cháu gái của cụ hẳn được hưởng gien di truyền của ông ngoại. Trong nhóm Phá Cách cô là người cẩn thận nhất trong chữ nghĩa.
- Tôi nói thế đã là hơi nhiều rồi. Nói để anh biết, biết rồi thì để bụng. Báo nào cũng thế, có cái gì là bất khả xâm phạm đâu. Lạng quạng chết tươi có ngày.
Cụ rủ rỉ, giọng tin cậy. Tôi rất muốn mà không thể giở sổ tay ra ghi. Tôi vốn không tin cậy trí nhớ của mình. Sang tuần trà thứ hai, cụ bảo:
- Anh về đây được Con Nặc Nô dẫn đi tham quan, dẫn đi chiêu đãi, tốt thôi. Nhưng phải cảnh giác, chớ có hứa gì hết. Nó chiều anh là có ý của nó. Có khi anh còn được nó tặng quà cũng nên…
Tôi giật mình.
- Nó cho chẳng lẽ không lấy, hì hì… - không nhận thấy phản ứng của tôi, cụ nhẩn nha tiếp tục - Lấy rồi thì há miệng mắc quai.
- Thì sao?
- Anh mà không viết bài ca tụng nó, tức là ca tụng cái thị trấn Tân Sinh này này, không phải cái thị trấn trước mặt anh đâu, mà là cái thị trấn dưới-sự-lãnh-đạo-của-nó, thì anh sẽ thành kẻ thù của nó, có dịp là nó xơi tái anh tắp lự, hì hì… Anh phải biết: nó quan hệ rộng lắm. Nó với tới anh chẳng khó gì.
Tôi nhớ đến cái giường nhà nàng, nhớ những giọt mồ hôi của tôi nhỏ xuống đệm, nhớ hơi thở nóng rẫy, tiếng rên rỉ, cái miệng xinh xinh mở to với dãy răng cửa không đều nhe ra trắng nhởn trong cơn cực khoái. Sống lưng tôi ớn lạnh.
- Đã có chuyện xảy ra rồi đấy. Cháu tôi nó có giới thiệu một ông nhà văn về đây, ông biết nhà văn Phạm Toản chứ?
- Cụ ấy nổi tiếng, ai mà không biết.
- Vậy, ông cụ chừng nghe thiên hạ đồn đại về Con Nặc Nô, có ý muốn gặp mặt nó, chẳng hiểu cụ có ý định viết chuyện nó hay chỉ vì tò mò. Chính tôi dẫn ông cụ tới gặp nó. Lại cũng chính cháu tôi viết thư giới thiệu, như nó giới thiệu anh. Cho nên tôi mới ngại. Con Nặc Nô tiếp ông cụ nồng nhiệt lắm, tặng ông cụ cả một xấp những bài người ta viết về nó, cả những bài nó viết nữa, chung quy cũng chỉ là những bài nó viết về nó thôi. Nó cũng dẫn ông cụ đi tham quan các cơ sở, như dẫn anh ấy, cũng chiêu đãi ông cụ, như chiêu đãi anh ấy, cũng dẫn ông ấy về nhà…
Tôi toát mồ hôi.
- Sau, mãi chẳng thấy ông cụ viết bài ca ngợi nó, thế là nó tương lên báo, báo tỉnh thôi, không phải báo Trung ương, chắc anh không đọc nên không biết. Nó chê ông ấy hết lời, bịa chuyện ông cụ xin yết kiến nó mấy lần, năn nỉ mãi nó mới tiếp, nó kể nó thay mặt dân chúng tiếp đãi, tặng quà ông ấy những gì, như thế nào, vậy mà ông cụ chẳng viết một dòng về thị trấn như ông cụ hứa, như dân chúng mong mỏi…
Không, “Con Nặc Nô” sẽ không thể nói đến món quà mà nàng cho tôi đêm qua, cho dù tôi không viết dòng nào về cái thị trấn rắc rối này.
Từ biệt cụ Cần, tôi đi tìm Con Nặc Nô. Tôi nghĩ đến công việc, không nghĩ đến nàng. Người ta chỉ tôi đến nhà trẻ của thị trấn. Đó là một ngôi nhà quét vôi hồng, nằm ở giữa phố chính. Trong đầu tôi ong ong những lời hai ông già nói về nàng. Tôi không tin những gì họ nói là sự thật. Không phải lần đầu tôi gặp thói ghen ăn tức ở nơi những người kém may mắn trong đời. Tôi tin ở nàng hơn. Với tôi nàng dễ thương lắm. Với tôi, nàng hồn nhiên, nàng thực thà.
Đứng trước nhà trẻ, tôi còn đang ngập ngừng không biết nên gõ cửa hay tìm nút chuông bấm thì nghe bên trong có tiếng quát tháo. Rồi cánh cửa mở tung, một cô gái lao ra, đâm sầm vào tôi. Mặt cô đỏ bừng, nhoè nhoẹt nước mắt.
Tôi ngó vào.
- Vào đây, vào đây anh! – thấy tôi, nàng vồn vã – Giới thiệu với anh, mấy em nuôi dạy trẻ điển hình tiên tiến ở thị trấn chúng em. Còn anh đây là đồng chí nhà báo ở trung ương về lấy tài liệu.
Mấy cô nuôi dạy trẻ lí nhí đứng trước mặt nàng ấp úng chào tôi. Mặt họ nhợt nhạt, sợ hãi, tức tối, nặng chịch, mắt ướt long lanh. Đủ vẻ. Không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Điều rõ ràng là họ không phải người quát tháo.
Nàng dẫn tôi ra sân. Đàn trẻ ăn cháo sáng. Thấy nàng chúng đồng loạt ngừng ăn: “Chúng cháu chào cô ạ!”.
- Các cháu ăn có no không? – nàng nói, véo von.
- Thưa cô có ạ! – lũ trẻ đồng thanh kêu lên.
- Cháo có ngon không?
- Thưa cô có ạ!
Chúng không chào tôi. Chúng không nhìn đến tôi. Chúng không thấy tôi. Tôi chẳng là cái gì. Chúng đã được huấn luyện. Chúng chào các cô, các chức vụ, không chào khách.
Nàng sà vào lũ trẻ, ẵm một đứa lên, thơm đánh chụt. Nàng chìa nó cho tôi.
- Anh xem, con bé có xinh không?
Tôi chưa kịp đón lấy nó thì con bé đã giãy ra khỏi tay nàng, tụt xuống đất, chạy lại chỗ cô giáo đang cầm thìa. Nó không cần ai khen. Nó cần cháo.
Nàng nháy mắt với tôi:
- Nhà trẻ này là niềm tự hào của thị trấn đấy. Đã có nhiều báo viết về nó.
- Thế thì tốt, các báo đã viết rồi thì anh chẳng cần phải viết nữa.
- Viết chứ. Thêm một bài nữa càng hay. Nhất là bài của anh.
Nàng vuốt ve lòng tự ái của tôi. Nhưng tôi không cảm động. Tôi biết nàng chưa từng đọc tôi.
- Để em đưa anh một báo cáo về nhà trẻ. Coi như anh đã đến, đã quan sát, đã phỏng vấn. Cứ dựa theo báo cáo mà viết là xong.
- Anh cần báo cáo về mọi mặt.
- Tham thế! Để em lệnh cho cậu thư ký chuẩn bị cho anh. Bây giờ ta tiếp tục tham quan thực địa những gì nhà báo muốn biết.
Chúng tôi đi dọc phố chính. Nàng than thở:
- Tất bật cả ngày không hết việc, anh thấy đấy. Mấy con nuôi dạy trẻ anh vừa gặp ấy là một lũ mất dạy.
- Em vừa nói họ là điển hình tiên tiến cơ mà.
- Thì phải đôn chúng nó lên mà đoạt cờ luân lưu của tỉnh chứ. – mặt nàng ửng đỏ – Nhưng tức không chịu được. Bảo một đàng chúng nó làm một nẻo. Chỉ được cái giỏi đòi hỏi.
- Họ đòi hỏi gì vậy?
- Chúng nó đòi may quần áo mới cho lũ trẻ con. Anh chưa nhìn thấy lũ trẻ mặc quần áo đẹp đâu. Mẫu do em vẽ. Tuyệt cú mèo. Nhà trẻ Hoa Hồng trên Hà Nội chẳng ăn đứt. Nhưng quần áo đẹp ấy là để dành cho ngày lễ ngày hội thôi, để chưng ra thôi. Giết ai ra tiền mà ngày nào cũng cho lũ trẻ diện bảnh? Mấy con quái ấy láo lắm, chúng nó bảo ảnh chụp nhà trẻ đã được đưa lên báo rồi, mọi người đọc báo đã tưởng là thế rồi, thì phải đồng loạt cho lũ trẻ mặc hàng ngày, kẻo mang tiếng bịp bợm.
- Họ có lý đấy chứ.
- Lý cái nỗi gì, em hỏi anh? Anh tưởng người ta không biết mình bịp à? Người ta biết quá đi chứ. Ở chỗ người ta, người ta cũng làm y như vậy. Báo của anh cũng thế. Anh đưa lên báo những mặt tích cực của đời sống hay đưa mặt tiêu cực? Ở trên muốn thế, ở dưới cũng muốn thế. Không phải bịp mà là tuyên truyền. Tuyên truyền thì phải có mục đích. Tuyên truyền cho nhau, tức thị động viên nhau, thì có gì xấu? Khi tỉnh muốn thị trấn mình khoe thành tích nuôi con giỏi dạy con ngoan với phái đoàn tỉnh bạn đến tham quan, nói ví thử như thế, thì mình phải cho lũ trẻ mặc quần áo đẹp…
Lập luận của nàng khó mà cãi lại. Vừa lý giải vừa biện bạch, rất thấu tình đạt lý. Nếu sự lừa dối được tiến hành trong sự đồng thuận của kẻ bịp bợm với người bị bịp bợm thì sự lừa dối lẫn nhau còn có nghĩa gì. Nó trở thành một trò chơi với những luật lệ được cả hai bên tham gia thừa nhận. Vậy thì cứ chơi đi, chơi cho hăng vào, nó vô hại.
Nàng giật tay áo tôi:
- Anh nghĩ cái gì thế? Anh không đồng ý à? Cũng có lúc bọn em phải để bọn trẻ ăn mặc khác, lam lũ, nhem nhuốc. Ấy là khi có phái đoàn quốc tế đến xem để lập dự án ciện trợ xoá đói giảm nghèo. Lúc ấy mà cho trẻ con diện bảnh thì có mà ăn cám.
Nàng cười khanh khách:
- Thị trấn là một nước nhỏ mà anh. Nó có chính trị của nó.
Nhìn thấy một đám đông tụ họp ở đàng xa, nàng chau mày:
- Cái gì thế kia không biết? Anh chờ em ở uỷ ban nhé ! Em sẽ đưa anh đi ăn.
Tôi sẽ đi ăn một mình. Tôi không thích ăn không của người khác. Tôi biết nàng không trả tiền hai bữa ăn hôm trước. Tôi có hai con mắt sau gáy để biết rằng hai ông chủ đều không hài lòng về việc buộc lòng phải thết đãi một thằng cha căng chú kiết nào đó là khách của uỷ ban, và họ có trách nhiệm không được tính tiền.
Tôi không về uỷ ban trước. Tôi đứng lại chờ nàng. Từ xa, tôi thấy nàng đến trước đám đông. Quanh nàng là mấy người hoa chân múa tay sừng sộ và những người đi theo những người ấy. Có vẻ họ phản đối cái gì đó, thỉnh cầu cái gì đó. Những người sừng sộ phản đối, những người đi theo thỉnh cầu. Người thỉnh cầu bao giờ cũng đông hơn người phản đối.
Nàng quay lại chỗ tôi đứng.
- Anh đợi em à?
Đi sát nàng, nhưng sau một bước là hai anh công an. Tôi nghe nàng dặn:
- Làm một báo cáo ngay về vụ này. Không thể để chúng nó phản đối có tổ chức như vậy được. Nguy lắm. Phải có bàn tay địch khuấy động chúng nó mới dám thế.
- Đúng vậy – một anh công an đứng tuổi nói - Để yên không được, chúng nó là thế, được đằng chân lân đằng đầu.
- Nhớ lập ngay hồ sơ mấy thằng cầm đầu.
- Rõ, thưa đồng chí. – anh công an trẻ nói.
Trên đường về uỷ ban nàng giải thích:
- Chúng nó chống lại mức thuế do nhà nước quy định, chống luôn phần phụ thu của thị trấn. Anh thấy em có vất vả không?
- Vất thật.
- Không phải lúc nào chúng nó cũng dám chống đâu. Chống hàng ngày thế có mà chết. Chẳng qua chúng nó thấy dân tỉnh bên kéo đàn kéo lũ kêu ca thuế nông nghiệp cao quá, đòi kiện vụ đất đai bị giải toả đền bù không thích đáng, mấy ông ở trên về thanh tra trót dại hứa hươu hứa vượn rằng sẽ giải quyết, thế là dân bên này chúng nó bắt chước. Cái hoạ này là hoạ dây chuyền. Phải kiên quyết bóp chết ngay lập tức, từ trong trứng.
Con Nặc Nô có đầy đủ tư chất một chính trị gia, tôi nghĩ. Nàng còn đi xa. Nàng biết cai trị. Nàng biết trấn áp.
Đêm ấy, tôi ở lại nhà nàng. Tôi không đủ sức kháng cự bất cứ mệnh lệnh nào của nàng. Mặc dầu lòng đã dặn lòng là thôi, không đi ăn với nàng nữa, ăn như thế là ăn bám, bởi vì có nàng đến ăn là người ta không lấy tiền, mà không lấy tiền thì họ tiếc, tôi biết chắc như thế, nhưng tôi vẫn ngoan ngoãn đi theo nàng để khen món chân gấu hầm rượu bách thảo là tuyệt diệu, dê rừng nướng vỉ là không chê vào đâu được…
Chúng tôi lại nằm với nhau trên cái giường quen thuộc. Đêm ở vùng thượng du lạnh. Trong chăn ấm tôi ôm tấm thân nóng hổi của nàng vào lòng. Nàng quặp chặt lấy tôi. Chúng tôi lại vật lộn. Trong cơn mê, tôi rên lên:
- Em yêu của anh! Em tuyệt vời của anh.
Nàng cũng rên cùng với tôi, nhưng không nói gì lúc ấy. Nàng không đuổi tôi về như đêm trước. Nhưng tang tảng sáng, nàng đánh thức tôi dậy:
- Bây giờ anh phải đi. Nhớ rẽ vào con đường nhỏ bên tay phải ấy, chỗ không có nhà cửa gì hết.
Nàng pha trà cho tôi uống, chờ tôi tỉnh ngủ.
- Lúc chúng mình gần nhau, anh nói cái gì ấy nhỉ?
- Anh gọi em: em yêu của anh!
Nàng nhìn vào mắt tôi, cái nhìn lạnh lẽo:
- Đừng bao giờ gọi như thế nhá! Em là em, mà anh là anh, chẳng ai là của ai hết. Quên nhanh đi nhá!
- Gọi thế thì có sao? Chúng mình đã là của nhau mà…
- Một lúc thôi. Một giây lát. – nàng đứng lên - Một cuộc trao đổi sòng phẳng của hai đồng minh giai đoạn. Thế là đủ, đồng chí ạ.
Bước ra cửa, tôi toan ôm lấy nàng lần nữa thì nàng gạt phắt tôi ra.
Ngày thứ ba
Tai hoạ nào cũng đến một cách bất ngờ. Ngày hôm sau, tôi ôm chồng tài liệu mà cậu thư ký uỷ ban trao cho tôi về nhà cụ Cần. Tôi đọc chăm chú, ghi chép cẩn thận, biết rằng những báo cáo có chữ ký của nàng là cái nằm trong trò chơi đã được các bên tham gia đồng thuận. Tôi bây giờ cũng là người tham gia, chính tôi cũng phải tuân thủ luật chơi. Ông chủ nhiệm của tôi là người nghiêm khắc, ông ấy không tha thứ nếu tôi vi phạm.
Nhưng cụ Cần lại không chịu nghĩ như thế. Cụ là người đứng đắn. Cụ không thích tham gia trò chơi ấy. Tôi hiểu ra điều đó khi cụ bỏ đi cả ngày sau khi đã nấu cơm cho tôi ăn trưa một mình để buổi chiều trở về với cụ Trưởng Giám. Tôi ngỡ ngàng. Tôi cứ tưởng hai người không ưa nhau. Hai cụ trao cho tôi một tập giấy.
- Đây là đơn của dân chúng tôi tố cáo những sai phạm của chính quyền thị trấn. Chúng tôi nhờ anh chuyển tận tay cấp trên. Dân chúng tôi oan ức nhiều lắm, mà không biết kêu vào đâu. Anh thấy làm thế nào là tốt thì làm giùm. Trước nay chúng tôi gửi đơn đi thì nó bao giờ cũng quay lại chỗ cũ, chính những người chúng tôi kiện lại nhận được. Tức là, trên để cho chính họ giải quyết, anh ạ. Chán mớ đời.
Chúng tôi có một bữa tiệc nghèo với nhau do cụ Cần thu xếp để chia tay tôi. Trong bữa tiệc tôi lẳng lặng ăn. Tôi buồn. Tôi không biết nói gì với hai cụ. Họ cũng có trò chơi của họ, trò chơi của những người đứng đắn. Tôi đang chơi trò chơi kia, làm sao tôi chơi trò này được?
Nhưng tôi nhận sự phó thác của họ. Tôi chưa biết rồi mình sẽ phải làm thế nào với tập giấy ấy. Tôi giở qua vài lá đơn. Hệt như mình được xem âm bản của một tấm hình mà mình quen nhìn bản dương. Tôi sẽ cố tìm ai đó là người sẽ xem xét những lá đơn này bằng con mắt khác. Nhưng tôi không tin sẽ gặp được người dám rời bỏ trò chơi mà họ đang chơi.
Bữa tiệc kéo dài tới khuya. Cụ Trưởng Giám quyết định ngủ lại nhà cụ Cần. Cụ cũng có một mình, ngủ đâu chẳng được.
Chúng tôi đang mải chuyện thì có tiếng ầm ì từ xa vọng lại. Như tiếng cối xay thóc. Như tiếng sấm rền. Chưa biết là cái gì thì nó đã biến thành một tiếng ồn kinh thiên động địa.
Cụ Cần không nghe thấy, nhưng nhìn nét mặt hốt hoảng của cụ Trưởng Giám thì cụ hiểu có cái gì đó bất thường, rất nguy hiểm, đang xảy ra.
- Cái gì vậy, cái gì vậy? - cụ đứng phắt lên.
- Nguyên xem nào. – cụ Trưởng Giám thần mặt ra, lắng nghe – Thôi chết rồi, vỡ đập, các ông ơi!
- Xóm mình ở đất cao, có vỡ đập cũng không sao đâu, đừng lo. - cụ Cần nói.
Cụ nói ở thượng nguồn có một cái đập ngăn nước cho hồ chứa định để làm thuỷ điện, tạm thời dùng để nuôi cá. Con Nặc Nô có phần hùn với các quan đầu tỉnh trong công trình này. Vụ đắp đập làm cho nhiều làng ở phía dưới bất bình. Có người nói thế nào cũng có ngày đập bị phá.
- Nhà Con Nặc Nô ở ngay bên bờ suối. - cụ Trưởng Giám bỗng cuống quýt – Nước cuốn băng nhà nó mất.
Cả hai cụ xăng xái đập nứa, châm lửa. Cả hai, mỗi người một bó, đi phăng phăng về hướng con suối. Trong cơn hốt hoảng hai cụ không nhớ đến tôi. Tôi lẽo đẽo theo họ. Không thể hình dung được hai con người vừa mới hết lời nguyền rủa Con Nặc Nô, giờ lại hăng hái đi cứu nàng.
Nhà cụ Cần ở trên chỗ đất cao nhất của thị trấn. Chúng tôi ra khỏi nhà thì đã thấy có rất nhiều đuốc đi về cùng một hướng.
- Tôi đã bảo con bé: không được làm nhà gần suối như thế, nó lại không thèm nghe tôi.
Cụ Trưởng Giám cằn nhằn, cụ đi lật đật, chốc chốc lại vấp phải những mô đất.
- Ai mà bảo được nó. Nó cứ tưởng nó là giỏi, nó là nhất. Bây giờ thì biết thân nhá! - cụ Cần nói.
- Lạy trời cho nó tai qua nạn khỏi. - cụ Trưởng Giám thì thầm.
- Cái nhà thì chắc chắn sập rồi. - cụ Cần nói - Nước đổ về mạnh như thế, đến lô cốt cũng phải bung. Không biết nó có chạy kịp không?
- Chạy mà không kịp thì chắc chết quá.
Khi chúng tôi đến được gần nhà nàng thì quanh đấy đã có cả một rừng đuốc. Ngoài nhà nàng ở bên suối, không nhà nào làm ở chỗ nguy hiểm ấy cả. Dân cả thị trấn túm tụm ở mé nước. Con suối nhỏ bé đã trở thành dòng sông hung hãn. Trên mặt nước nhấp nhô những gốc cây bật rễ.
Người ta ồn ào:
- Nhà sập hẳn rồi. Nhưng chưa bị trôi hẳn. Có ai dám ra đó xem còn người không?
- Ai dám ra bây giờ? Nhìn kìa, nước cuồn cuộn thế kia.
- Có ai mang theo thừng không? Buộc vào mình mà bơi ra đấy xem.
- Thừng có đây, cơ mà ngắn lắm.
Nói thì nói chứ chẳng ai dám ra. Trong ánh đuốc bập bùng tôi nhìn thấy một mảng tường trăng trắng. Mái nhà đã rơi xuống nước, không còn dấu tích. Nhưng cái mảng tường kia thì không nhúc nhích, nước không đủ sức cuốn nó đi, hoặc nó còn bám được vào nền bởi một cái cột có cốt thép. Có lẽ đó là mảng tường phòng ngủ, nơi tôi đã qua đêm.
- Kia, ở chỗ cái cây đổ có cái gì như hình người kia kìa.
- Đâu? Đâu?
- Kia đấy thây.
- Cái áo chứ người đâu mà người.
- Không phải cái áo, người thật. Không nhìn thấy tóc vật vờ kia à?
Đám đông chú mục nhìn rồi đồng loạt kêu lên.
- Đúng! Đúng người thật rồi.
- Chỗ ấy thì ra được đấy. Có ai chịu ra không?
- May chăng người còn sống.
Một người đàn ông lực lưỡng chẳng nói chẳng rằng quăng bó đuốc xuống đất, buộc sợi thừng quanh bụng, lao ra. Thấy thừng ngắn, những chàng trai nắm lấy tay nhau làm thành một chuỗi người cho sợi thừng dài thêm.
- Cô chủ tịch! – người đàn ông kêu lên.
Người đàn ông chống chọi với dòng nước để gỡ thân người mắc vào cây. Lục đục một lát mới gỡ người ấy ra được, ông ta bơi ngược lại với sự giúp sức của những cánh tay nối dài.
- Liệu còn sống không? – mọi người hỏi vọng ra.
- Không biết nữa. – người đàn ông đáp - Lạnh ngắt rồi.
- Nhanh lên. Có khi còn kịp.
Nàng được đưa lên bờ. Đưa tay gần mũi thấy không còn thở. Người đàn ông vác nàng lên vai chạy mấy vòng rồi đặt xuống. Không thấy ộc nước ra. Những bó đuốc quây lại làm thành một vòng lửa sưởi ấm cho nàng. Nhưng những phút dài vô tận trôi qua mà nàng không tỉnh lại.
- Xong rồi.
- Vô phương.
Nàng nằm đấy, lạnh giá và hững hờ. Giống như lúc nàng bảo tôi:
- Em là em, mà anh là anh, chẳng ai là của ai hết. Quên nhanh đi nhá!
- Hức! Hức!
Bên cạnh tôi cụ Trưởng Giám bật khóc. Tiếng nức nở của cụ lan nhanh trong đám đông. Những người đàn bà khóc theo cụ. Những người đàn ông mím môi, không nói gì, mặt lầm lì.
Một người nào đó tiến đến bên nàng, lấy cái khăn tay phủ lên mặt nàng. Tôi thấy cay cay nơi sống mũi. Thế là vĩnh viễn tôi không còn thấy mặt nàng nữa, gương mặt lúc nồng nàn lúc lạnh nhạt, như một dấu hỏi cho câu trả lời không bao giờ có.
Cụ Cần ôm lấy cụ Trưởng Giám dìu đi:
- Thôi cụ, nó đã chết rồi, có khóc có thương cũng vô ích. Chúng ta đã có lúc yêu mến nó lắm chứ, có phải lúc nào cũng ghét bỏ nó đâu.
Hai ông già bá vào vai nhau mà đi. Tôi cầm bó đuốc đi sau, giơ cao cho hai cụ thấy đường. Tôi nghe cụ Trưởng Giám nói với cụ Cần trong tiếng nức nở:
- Tôi khóc là vì tôi đã không kịp làm một việc cho cháu.
- Việc gì cơ? Hả cụ? Việc gì?
Cụ Trưởng Giám lặng đi một lát.
Rồi nói:
- Tôi chưa kịp nói với nó rằng nhà văn Phạm Toản chính là cha đẻ của nó. Cụ ấy cũng sau chuyến đi về đây mới biết. Cụ ấy cậy tôi nói cho nó biết. Không kịp nữa rồi./.