(Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên” do NXB Thuận Hóa ấn hành, tháng 5-2011)
Có thể “năm mặt đặt tên” là sự bất lực của việc đặt tên. Nhưng đó là sự bất lực cần thiết, vì thơ là thế giới riêng của mỗi tâm hồn, họ không thể đặt một tên chung cho cả năm tác giả, có thể đó là lý do tập thơ có nhan đề “năm mặt đặt tên” ra đời. Năm gương mặt thơ rất quen thuộc của Huế như năm sắc màu hòa lại, để tạo ra một bức tranh thơ nơi xứ sở Thần kinh. Bức tranh đó bắt đầu từ nét cọ giữa khuya khi mù sương tan biến:
tôi nâng bụm tay mình lòng trứng
nghe khôn ngoan nở dại bên đời
không còn gì để nói
cũng bằng thất thố giang sơn
em ở lại cho lòng tôi mở hội
khuya hết sương mù lại nói yêu nhau…
Đông Hà là nữ tác giả duy nhất trong tập thơ in chung “năm mặt đặt tên”, nhịp điệu mạnh mẽ mà rất gần gũi, với phong cách ẩn dụ, chị đã tạo ra những khoảng trống đưa người đọc rơi vào cảm nghiệm bất ngờ:
Cắt những khoảng trống dán vào nhau
bần bật phúc âm bần bật nhớ
Và bất ngờ hơn cả là tình yêu thương được đo bằng chiều dài đất nước:
Anh đưa em đi cong cả chữ S thân thương này
…
Trái tim già nua chưa em
Mà sao tiếng còi tàu nghe mỏi mệt
Để lại dấu ấn lạ và vết khắc u buồn của thời gian, qua sự chiêm nghiệm về một cuộc sống lặng lẽ vào bức tranh “năm mặt đặt tên” là bác sĩ Đặng Như Phồn, với từng nhịp guốc loanh quanh trên cổ tích phố khi mùa hạ về:
Em tự dưng gõ nhịp guốc ngân dài
Lên nẻo phố rêu phong cổ tích
Và có lẽ những nỗi niềm sâu kín của tác giả, tưởng rằng đã ngủ yên cùng đá sỏi lại bất chợt thức giấc khi lắng nghe được âm vang từ gót hạ:
Ta sỏi đá nghìn năm thức giấc
Nghe mơ hồ cây cỏ gọi tên nhau
Để rồi sau những giờ khoát áo blouse, anh bất chợt chạm vào khoảng trống của thời gian mà chiêm nghiệm với cuộc người:
Buồn như tờ lịch không ai xé
Một ngày lần khân chẳng chịu rơi
Đưa tay chạm vào khoảng trống
Rút về một thoáng phân vân
Có thể nói rằng, Lê Tấn Quỳnh đã đùa chơi với câu chữ một cách công phu cho đến hơn thở cuối cùng:
Biển đã thở đến hơi thở cuối cùng
Trong đôi mắt láo liên của loài còng gió
Loài cổ sinh
ướp cả nghìn năm nỗi nhớ
Trong cái mặn mòi nơi kết thúc của dòng sông
Trong cuộc chơi đầy mạo hiểm đó, anh chợt nhận ra cuộc trở về cũng hư ảo như con sóng:
Biển đã thở đến hơi thở cuối cùng
Sau cơn mối mọt no nê
Nơi ngả người vô hạn
Sóng như cuộc trở về…
Và phải chăng với Lê Tấn Quỳnh sau khi đã tàn cuộc, tất cả chỉ còn lại trong kí ức:
Thời gian là cuộc ngược treo ngốc nghếch
Trên cơn ngơ ngác của bầy dơi
Nơi hốc hang cứ triền miên thót lại
Những dấu chân thơ thẩn ký ức người…
Chữ của Lê Vĩnh Thái như buông những mảng màu gợi lên đường nét siêu thực trên bức tranh thơ, nhưng tàn ẩn trong vệt màu đó là một cõi hồn rưng rức nỗi niềm:
Ngày, vốc từng mảng trời buông nắng
đêm, sũng ướt vầng trăng
mùa đổ lá theo dòng tiền sử
người chở nỗi buồn rao bán ven sông
Từ trong thăm thẳm miền buồn, bức chân dung tự họa của Thái đã ra đời theo vòng quay nắng mưa thị thành:
những điếu thuốc lụi dần theo khói
tôi đốt đời mình trong ánh mắt quen
thơ chẳng còn chi
vuột từng câu chữ
quay theo mưa nắng thị thành
những lối mòn vào đời khập khểnh
nhiều khi
vác mặt đứng nhìn
từng ánh mắt chào nhau nghiêng ngả
Để rồi, đêm đêm tác giả lại tự vấn với chính mình:
nhiều đêm,
trước gương
soi chiếc mặt rách in đầy hèn nhát
câu nói ngông cuồng chờ chực, rượu vào mà chẳng thể thốt ra
Với Phạm Nguyên Tường, nỗi ám ảnh từ cuộc sống, từ nghề y đã hóa thân vào thơ rất tự nhiên như thể, thơ thoát thai từ hơi thở gấp từ hội chứng của những trái tim:
Trên cả nước hiện còn bao nhiêu lò ấp “thơ an toàn”
không có melanmine trong trứng thơ
chực nở
Đó là một câu hỏi ở thể khẳng định, khi mà nhân tính ngày càng lùi vào bóng đêm để nỗi chết được phóng sinh:
Vào đám mây vần tín điều xám kịt
Phóng sinh nỗi chết
Và cái ranh giới sống chết không được phân định rõ ràng, để nỗi đau từ cõi lòng của người thơ phải tra hỏi chính mình:
bàn tay khum khum lòng bấn loạn
chắc gì thua (được) chập choạng thế này
sống như chết rồi
chết như sống rồi
Có thể nói rằng, năm sắc màu trong “năm mặt đặt tên” như năm con đường, những sắc màu đó hòa lại cùng nhau đã không để lại một vệt màu chết nào, mà tạo ra được một khoảng trống lồng lộng ngữ nghĩa. Có được điều đó là do những khoảng trống bên trong mỗi tác giả, đó chính là cái chung của nghệ thuật luôn hướng về phía chân trời thiện mỹ./.
Huế, 5-2011