Kahlil Gibran, Nguyễn Ước dịch
Libăng
Các ngươi có Libăng của các ngươi và ta có Libăng của ta.
Của các ngươi là Libăng chính trị cùng các vấn đề của nó.
Của ta là Libăng thiên nhiên cùng vẻ đẹp của nó.
Các ngươi có Libăng của các ngươi với các chương trình cùng các xung đột,
Ta có Libăng của ta với các giấc mơ và các hi vọng.
Hãy vừa lòng với Libăng của các ngươi như ta hài lòng với Libăng tự do trong thị kiến của ta.
Libăng của các ngươi là nút thắt chính trị gầm gừ mà Thời gian đang ra sức cởi trói,
Libăng của ta là những dảy đồi rặng núi đang vươn lên trời xanh với tôn kính và hùng vĩ.
Libăng của các ngươi là các vấn đề quốc tế chưa được giải quyết,
Libăng của ta là các thung lũng yên tĩnh, say sưa rầm rì với chuông giáo đường và các con suối thầm thì.
Libăng của các ngươi là cuộc tranh giành giữa người phương Tây và đối thủ từ phương Nam,
Libăng của ta là lời cầu kinh có cánh, bay lơ lửng trong ban mai khi kẻ chăn bầy dẫn đàn súc vật ra đồng cỏ, và thêm lần nữa trong chiều hôm khi người nông phu quay về từ thửa ruộng và vườn nho.
Libăng của các ngươi là cuộc kiểm tra vô số đầu người,
Libăng của ta là ngọn núi trầm lặng ngự giữa biển khơi và đồng bằng như nhà thơ ngồi giữa vĩnh cửu này và vĩnh cửu nọ.
Libăng của các ngươi là mưu mẹo của chồn cáo khi bắt gặp linh cẩu, mưu mẹo của linh cẩu khi bắt gặp chó sói,
Libăng của ta là vòng hoa ký ức của các thiếu nữ đang hân hoan dưới ánh trăng, các trinh nữ đang hát trong sân đập lúa và nhà máy ép rượu.
Libăng của các ngươi là cuộc cờ giữa giám mục và tướng lãnh.
Libăng của ta là đền thờ nơi linh hồn tìm thấy chốn nương náu khi mệt nhoài vì nền văn minh đang chạy trên những bánh xe kẻo kẹt.
Libăng của các ngươi là hai người – kẻ này đóng thuế và kẻ kia thu thuế.
Libăng của ta là kẻ đang gối đầu trên cánh tay dưới bóng cây Bách hương Thiêng liêng, bị mọi người lãng quên trừ Thượng đế và ánh sáng mặt trời.
Libăng của các ngươi là hải quan và phi cảng, sở bưu chính và giao thương,
Libăng của ta là các ý nghĩ xa xăm, tình cảm cháy bừng và lời thiêng liêng được đất thầm thì vào tai của không gian.
Libăng của các ngươi là kẻ được bổ nhiệm, các chủ nhân và các giám đốc,
Libăng của ta là sự lớn lên của tuổi hoa niên, quyết tâm của người trưởng thành và khôn ngoan của người già,
Libăng của các ngươi là các đại biểu và các ủy ban,
Libăng của ta là đoàn tụ quây quần quanh lò sưỡi trong đêm bão giông khi bóng tối bớt mịt mùng nhờ tuyết trắng thanh khiết.
Libăng của các ngươi là các đảng phái và giáo phái,
Libăng của ta là kẻ tuổi trẻ đang leo lên đỉnh cao sỏi đá, lội qua con suối, đi lang thang trong cánh đồng.
Libăng của các ngươi là các diễn văn, thuyết giảng và những cuộc tranh luận,
Libăng của ta là giọng chim họa mi hót, tiếng cành cây sột sọat trong khu rừng nhỏ, vọng âm điệu sáo của kẻ chăn bầy giữa thung lũng.
Libăng của các ngươi là những ngụy trang và các ý tưởng vay mượn, dối gian.
Libăng của ta là sự thật mộc mạc trần trụi.
Libăng của các ngươi là luật lệ qui tắc, tài liệu và giấy tờ ngoại giao,
Libăng của ta liên quan các bí ẩn cuộc đời được biết tới chẳng cần tri giác ý thức. Và là cơn khát khao, với đầu mút nhạy cảm của mình, vươn tới cứu cánh xa xôi của cái không thấy được nhưng tin nó là giấc mơ.
Libăng của các ngươi là người già nhăn nheo, đang vuốt râu và chỉ nghĩ tới mình,
Libăng của ta là tuổi trẻ đứng thẳng lưng như ngọn tháp, đang mỉm cười như ban mai và nghĩ tới tha nhân như nghĩ tới bản thân.
Libăng của các ngươi tìm cách tách rời và hợp nhất với Syria trong cùng một lúc,
Libăng của ta không kết hợp hoặc tách chia, không phình ra hay thu nhỏ.
Các ngươi có Libăng của các ngươi còn ta có Libăng của ta.
Các ngươi có Libăng của các ngươi cùng con cái của nó,
Ta có Libăng của ta cùng con cái của nó.
Nhưng kẻ nào là con cái Libăng của các ngươi?
Hãy để ta tỏ cho các ngươi thấy thực tại của chúng:
Chúng là kẻ có tâm hồn sinh ra trong các bệnh viện phương Đông, có tâm trí thức giấc trên đùi lũ thèm thuồng đang diễn vai người quảng đại.
Chúng giống cành cây mềm yếu đu qua đưa lại. Chúng run rẩy từ ngày sáng tới đêm đen nhưng không nhận ra mình đang run rẩy.
Chúng giống con tàu không cột buồm không bánh lái đang bị sóng biển dập vùi. Với hoài nghi chủ nghĩa là thuyền trưởng, hang chằn tinh là bến cảng, vì chẳng phải mọi kinh thành châu Âu đều là hang chằn tinh sao?
Những con cái này của Libăng mạnh mẽ hùng hồn giữa chúng với nhau nhưng yếu ớt và nín thinh giữa người châu Âu,
Chúng kêu ồm ộp như ếch nhái và nói, "Chúng ta đang giũ sạch bản thân khỏi kẻ thù cũ," trong khi kẻ cựu thù ấy vẫn ẩn nấp trong thân thể chúng.
Chúng đi đưa đám ma với lời ca điệu trống giọng kèn nhưng chào đón đoàn người đám cưới bằng tiếng than van và bứt xiêm xé áo.
Chúng không biết tới cơn đói nếu không cảm thấy nó trong túi quần áo mình. Khi gặp kẻ đang đói tâm linh, chúng tránh xa và chế nhạo rằng, "Hắn chỉ là một hồn ma đang đi trong thế giới của các bóng ma."
Chúng giống kẻ nô lệ tự xem mình là tự do vì gông cùm rỉ sét cũ được thay bằng những cái lấp lánh mới.
Những kẻ đó là con cái Libăng của các ngươi. Có ở trong chúng một người kiên định không kém các tảng đá Libăng, cao nhã không kém các ngọn núi Libăng, ngọt ngào tinh khiết không kém dòng nước Libăng, và trong lành tươi mát không kém gió nhẹ Libăng không?
Có ở trong chúng một người có thể tuyên bố cuộc đời mình là giọt máu trong huyết quản Libăng hoặc giọt lệ trong đôi mắt Libăng hay nụ cười Libăng không?
Đó là con cái Libăng của các ngươi. Chúng vĩ đại biết bao trong mắt các ngươi và nhỏ bé biết mấy trong mắt ta!
Bây giờ, hãy để ta tỏ cho các ngươi thấy con cái Libăng của ta:
Họ là những nông dân biến đất sỏi đá thành vườn hoa và vườn cây trái.
Họ là kẻ chăn bầy dẫn đàn súc vật từ thung lũng này sang thung lũng khác để có thể tăng gia, nhân lên và hiến cho các ngươi thịt làm thực phẩm và len làm y phục.
Con cái Libăng của ta là kẻ trồng nho đang ép nho làm nên rượu ngon.
Những người cha đang nuôi lớn cây dâu tằm và những người mẹ đang quay tơ.
Những người chồng gặt lúa và những người vợ bó lúa.
Họ là những thợ nề và thợ gốm, thợ dệt và thợ đúc chuông giáo đường.
Họ là những thi sĩ và ca sĩ đang tuôn trào linh hồn trong những bài thơ khúc hát mới.
Họ là những kẻ rời Libăng không xu dính túi để tới quê người với trái tim cháy bỏng tình cảm, và quyết tâm trở lại quê nhà với đôi bàn tay đầy mọi thứ và đài trán điểm trang bằng những vòng nguyệt quế thành tựu.
Họ thích ứng với môi trường mới và được quí trọng ở bất cứ nơi nào họ đi.
Đó là con cái Libăng của ta, những ngọn đuốc không tắt và hạt muối không hư.
Họ bước với bàn chân cứng cáp đi về phía chân lý, cái đẹp và toàn hảo.
Các ngươi sẽ để lại gì cho Libăng và con cái của nó một trăm năm sau kể từ hôm nay? Hãy nói cho ta biết, các ngươi sẽ để lại gì cho tương lai ngoài trá ngụy, lừa dối và ngu xuẩn?
Các ngươi có tin rằng thanh khí sẽ lưu giữ hồn ma những kẻ chết và hơi thở các nấm mộ?
Các ngươi tưởng rằng cuộc đời bọc quấn hình hài của nó bằng giẻ rách sao?
Quả thật ta nói cho các ngươi biết rằng cây ô-liu non được dân làng trồng lên ở chân núi Libăng sẽ sống lâu hơn những việc làm và thành đạt của các ngươi. Và lưỡi cày gỗ được hai con bò kéo trên nương cao rẩy sâu của Libăngg vinh quang hơn những hy vọng và tham vọng của các ngươi.
Ta nói cho các ngươi biết, và lương tâm của vũ trụ làm chứng cho ta, rằng câu hò của người hái lượm củ quả trên các triền đồi Libăng có giá trị hơn chuyện dớ dẩn của đám thượng lưu các ngươi.
Hãy nhớ rằng các ngươi chẳng là gì cả. Nhưng khi các ngươi nhận ra sự hèn mọn của mình, mối ác cảm của ta đối với các ngươi sẽ biến đổi thành tình cảm xót thương. Thật đáng tiếc là các ngươi không hiểu.
Các ngươi có Libăng của các ngươi và ta có Libăng của ta.
Các ngươi có Libăng và con cái của nó. Hãy bằng lòng với Libăng và với chúng nếu các ngươi sung sướng với những bong bóng trống rỗng.
Còn đối với ta, ta hạnh phúc và thoải mái với Libăng của ta, và đó là sự ngọt ngào, dịu dàng và trầm tĩnh trong kính mến Libăng./.