Nhà thơ Luân Hoán đã có bề dầy văn chương qua số lượng sáng tác hiện diện trong sách báo, thời gian đóng góp từ trước 1975 cho đến nay ở hải ngoại, và phẩm chất tác phẩm làm người viết bài cảm thức được cái hay qua đề tài chiến tranh, tình yêu và siêu hình. Cảm thức những phẩm chất hay đó, xin lần lượt nêu ra trong ba phần. Dĩ nhiên còn biết bao đề tài khác, người viết mong được đưa bài này đến đứng cạnh để có được tổng thể về sự nghiệp văn chương của nhà thơ Luân Hoán, chẳng hạn như còn đề tài quê hương sinh quán, đề tài tổ quốc, đề tài tình bạn, đề tài từ ngữ thơ đôi khi diễu cợt….
Đề tài chiến tranh đáng lý phải bao gồm tình yêu đất nước, nhưng đề tài tổ quốc ấy có lẽ nên dành riêng cho một bài khác, vì chiến tranh được nói đến ở đây gắn liền với chiến thương mà tác giả gánh chịu từ lúc mới 35 tuổi. Bàn chân trái bị cắt lìa khỏi thân thể do chiến trận là điều Luân Hoán thường kể trong thơ. Cho nên ta nói thơ chiến tranh của ông gắn liền với chiến thương. Có gì khác với màu sắc thơ chiến tranh thuộc khuynh hướng không ưa chiến tranh của một số người? Ta thấy không có gì khác, vì trước khi bị thương thì tác giả đã không ưa chiến tranh rồi. Tác giả nhấn mạnh lòng yêu chuộng hòa bình hơn là muốn biểu lộ chủ trương phản chiến có tính cách chính trị:
… cuối cùng rồi cũng xong
vắt mình xuống ổ quân trang vừa tha về
nghĩ về em
ngủ thiếp
giá trái pháo kích rơi đúng chỗ nằm
đời đã đỡ ngang dọc.
(Trích: Bài học vỡ lòng ở trường Bộ Binh Thủ Đức)
Coi tình yêu trai gái đáng lưu tâm hơn việc phải đối phó với lửa đạn, ta nghĩ tác giả hơi cường điệu để biểu lộ nỗi bất mãn không được sống ở thời bình yên. Bất mãn sự quấy nhiễu thời cuộc, vậy không hẳn do chủ trương phản chiến, mà chỉ là thái độ không ưa chiến tranh. Không ưa mà phải tuân lệnh là không quyết liệt chống đối. Tác giả nói súng đạn địch không kiêng giờ tác giả đang nghĩ đến người yêu, làm mất bình yên tư lự:
… chiều ngày thứ tư ngồi dựa ngửa
bên con đường sắt ở Nghĩa Hưng
trùng trùng lửa đạn từ âm phủ
ta chợt hết hồn chợt nổi xung
địch phá đám ta không kiêng nể
cái giờ tịnh khẩu nghĩ về em
cuồng tay rút súng phơ bờ bụi
phơ cả đất trời đang muốn quên.
(Trích bài: Đệ nhất thiêng liêng là giờ nhớ em)
Tác giả rút súng bắn vu vơ vào bờ bụi cho hả giận thời thế, có khi cho hả giận nỗi bất hạnh của đồng đội chết trận; và có khi cho vơi niềm đau xót súng đạn vô tình giáng xuống một người thay cho mình được về phép. Kẻ gây ra đau thương chiến tranh mang tên là Thời Thế, là Định Mệnh. Những người từng lâm trận, từng chứng kiến may rủi của chết chóc, nhiều phen hóa ra khinh bạc, nhiều nữa thì hóa ra chai lì. Đôi khi nhà thơ Luân Hoán đã có được tính khinh bạc này. Ta không biết nên dùng những từ ngữ “có được tính khinh bạc” hay “biến thành khinh bạc”; biến thành do thụ động biến đổi tính tình, còn“có được” do ý thức tự rèn luyện. Cũng như chai lì, do tâm hồn biến tính hay được rèn luyện?:
… từ đồn Đức Hải ta về phép
bạn thế chân ta kích xóm đêm
… đâu có chỗ nào vừa mắc võng
nằm hoài cũng mỏi cái lênh đênh
….bạn mới ngã lưng lim dim mộng
cạc-bin, bảy-chín, lẫn AK
trời xanh thăm thẳm hồn nhiên quá
phận số dành riêng mỗi chúng ta?
… ta trở lại đồn qua xóm cũ
rút colt bắn lẫy cái lu sành
nước tràn, lu vỡ, trời ta khóc
bóng bạn chập chờn đóm lệ xanh
… Nam ơi, Đức Phổ trưa nay vắng
biển lặng ngồi không, xót phận mày
ngày mai nhổ trại lùng Đức Phụng
đến lượt ta, hay đứa nào đây?
(Trích bài: Bàn giao cho bạn địa-bàn. Bàn giao cho bạn nghĩa-trang vô tình)
Đề tài chiến tranh bao gồm đề tài chiến thương, riêng với nhà thơ Luân Hoán. Trong thơ, thi sĩ có nhắc khá nhiều lần về điều này, có khi nó mang đến điều mặc cảm làm đời vô dụng đối với gia đình, có khi mừng nó là khúc rẽ để được cắt đứt cuộc tình-ngã-ba (sẽ bàn đến sau trong phần thơ tình và tình gia đình). Có một bài thơ tác giả dành trọn vẹn cho biến cố mất bàn chân trái trong chiến trận. Điếu văn cho bàn chân trái, bạn hiền bàn chân gỗ, bia mộ cho bàn chân, cái chân một thuở đánh rơi, bàn chân tuyệt tình, tất cả là những từ ngữ đặc biệt đó tác giả ưu ái nói về chiến thương của mình. Ngôn ngữ đặc biệt ấy rải rác đây đó trong thơ của Luân Hoán. Ta muốn biết rõ nơi nào nhà thơ gặp nạn; trong trường hợp nào; và một phần thân thể đó nay ở đâu…, tác giả ghi lại đầy đủ như sau:
… thế rồi tôi lên Núi Vàng
bằng trực thăng giữa chiều loang cánh đồng
nằm im mà thấy bềnh bồng
nghe như mây đảo vòng vòng trong tim
tỉnh ra sửng sốt giật mình
một đoạn chân đã tuyệt tình bỏ đi
….núi Vàng, cõi đặt mộ bia
Cho bàn chân trái năm kia, mơ hồ
….cái chân một thuở đánh rơi
hình như đang nhớ đến tôi, khóc thầm…
(Trích bài:Núi Vàng, nghĩa địa một bàn chân)
(Núi Vàng, nơi có bệnh viện quân đội Mỹ, ở Đức Phổ, Quảng Ngãi)
Thứ hai là Đề tài Tình Yêu bao gồm Tình Gia Đình trong văn chương Luân Hoán, thi tứ cũng dồi dào như thơ với đề tài chiến tranh. Ta có thể kể theo thứ tự tình lúc gặp gỡ thời son trẻ; tình khi thành vợ chồng; tình ở khúc rẽ ngả ba; tình gia đình hiện tại. Tình yêu gặp gỡ lúc son trẻ nếu không có đặc điểm riêng thì đều tương tự với ở các nhà thơ khác. Tác giả như cố tránh trùng hợp nên quy vào điều đặc biệt ngay, như trường hợp cảm hứng viết nên bài thơ dám theo em đến vùng “xôi đậu” giữa thời kình địch của hai phe lâm chiến: bài thơ “Theo Em Về Đại Lộc”. Ta không biết “tình theo em về vùng bất an” đó đã đi đến đâu, nhưng “tình theo em về quê em” có lẽ đã thành duyên nợ. Có lẽ thôi, vì tác giả cũng không nói rõ phần chung cuộc như thế nào. Bài thơ tình này cảm động, đại ý nói quê nàng không có gì rực rỡ nhưng tình của tác giả đối với người yêu làm nó rực rỡ. Cảnh vật tác giả nói trong thơ tưởng đâu không có gì đáng kể như bụi chuối, con rắn mối, cỏ gà, đôi chòm mả, ao bèo nước xanh xao… nhưng tất cả chan chứa đầy tình yêu, và còn hẹn vì nàng mà nhà thơ sẽ đào xới cải tạo đất đai dù chỉ quen với nghề cầm bút:
… em chỉ ta xem đìa cá nhỏ
đục câm nằm núp bóng hàng keo
chà tre, thanh chõng, vạt giường cũ
chìm nổi xanh xao giữa đám bèo
em chỉ ta xem đôi chòm mả
mấy đời nội ngoại đã nằm đây
xương tàn cốt rụi xanh chân mạ
quấn quít hồn ôm bụi đất này
em chỉ ta xem dòng sông cái
đã buồn từ thuở mới luân lưu
bao nhiêu đò đã thay trên bến
bao kẻ qua sông biết ngậm ngùi?
… quê em có vẻ không giàu lắm
ruộng thấp ruộng cao úng nước phèn
lỏng leo vài tiếng gà cục tác
đời lún dần vào nỗi băn khoăn
yêu em ta nguyện yêu màu lúa
màu mái rạ thâm sì nắng mưa
tay ta tuy đã quen cầm bút
luống chữ hẹn thơm những đường bừa…
(Trích bài: Quê em lộng lẫy quá bởi vì đã có em)
Thơ tình của Luân Hoán bao gồm tình trai gái lãng mạn và tình gia đình. Tình lãng mạn dồi dào dĩ nhiên, cũng nhiều như ở các nhà thơ khác, và tình gia đình trong thơ của ông thêm cảm động ở những đoạn tác giả nghĩ mình vô dụng với đời phế binh làm nặng gánh cho vợ. Nhưng trong đó có vài điều tác giả không tiện nói ra làm ta thắc mắc, như tự hào “không bán nốt lương tâm”, chỉ ban phát đạo lý trong việc “bán chữ nghĩa” mà thôi:
… em không hỏi vì sao ta bỏ cuộc
giữa chợ đời không bán nốt lương tâm
… em không hỏi vì sao ta bất lực
ngồi bó đầu chờ đợi áo cơm em
… rượu đã hết, xin cho ta giọt lệ
giọt mồ hôi, em đổ sáng sang chiều…
(Trích bài: Vết thương)
Nhưng tình gia đình có một lần tác giả tự thú đã bị mình làm vẩn đục vì đèo bòng thêm một hình bóng khác. Tác giả lấy ẩn dụ một ngã tư để nói về việc đèo bòng này, cũng như ở Mỹ người ta thường dùng hình ảnh tình “tam giác tay ba”. Ngã ba (thật ra là ngã tư) trong thơ Luân Hoán không trừu tượng, vì ngã rẽ làm lạc hướng đó có thật, là một địa điểm ở vùng Sông Trà tỉnh Quảng Ngãi. Việc xảy ra khi tác giả tham dự một cuộc hành quân, dĩ nhiên ở thời điểm nhà thơ Luân Hoán chưa mất một bàn chân. Chuyện đã qua khá lâu trong thời chiến, và chuyện bị tiết lộ rồi cũng mau chóng được giải quyết xong. Nay tác giả kể lại như một câu truyện vui. Vui vẻ cả làng, vì trái mìn làm nhà thơ mất đi bàn chân trái, đồng thời làm mất đi mối tình đèo bòng, vì nàng thiếu nữ lãng mạn yêu thơ yêu người ấy cũng đã xa bay khi hay tin chàng đã thành phế binh, và người phế binh trở về trong vòng tay của vợ:
… tình chẳng thong dong như dòng mây trắng
bà xã hay, và em cũng ngộ ra
từng lá thư buồn nhạt nhòa dấu lệ
vợ cũng quay lưng về lại quê nhà
ta bỗng hiện nguyên một thằng thua cuộc
ngồi mé ngã tư, đứng dựa ngã ba
thơ thẩn bỗng không hơn gì giấy lộn
đắp mặt không xong, phủ lòng xót xa
định mệnh bất ngờ giúp nhau mở lối
trái mìn oan khiên như vị cứu tinh
em chợt vội vàng làm cô dâu mới
vợ đã yên lòng nuôi gã thương binh
… ta phỉnh ai đâu, phỉnh ta đấy chứ
cho đến bây giờ ta vẫn phỉnh ta
nhớ nước sông Trà quay bờ xe nước
lòng đậu hay trôi ngã tư Ba La?
(Trích bài: Đôi mắt ngã tư Ba La)
Ta dễ nhận ra tác giả có những từ ngữ đùa cợt trong thơ, phải nói là rất dồi dào, những từ ngữ thường có trong đối thoại của đại chúng, chẳng hạn như: đổ quạu, mập ú, sống nhăn răng, làm hết hồn, đúng y-bon, rút súng phơ bờ bụi, cái ngắt cái véo, đứng chầu rìa, đêm tối thui, tỉnh bơ, bà xã, ai dạy em háy nguýt, đếch cần đời… khiến thơ tình của ông có vẻ đùa cợt. lúc lãng mạn cũng như lúc đau thương. Cả khi không dùng từ ngữ thuộc về đối thoại đời thường như trên mà thơ tình của Luân Hoán cũng có vẻ cợt đùa:
… ai cho em về gõ cửa
hồn ta nào phải cõi không
mà em neo tình cư ngụ
sầu ơi gắng nép trong lòng
… ai cho em về tìm bóng
hồn ta nào phải tấm gương
lệ đây ta nhờ em khóc
cho vừa đủ rửa vết thương
yêu em ta nghêu ngao hát
một mình ta dẫm bóng ta
tiếng không lời sao bi đát
nhạc không điệu cũng xót xa
… trắng đêm ta ngồi uống rượu
ly rồi ly nữa nghe em
mừng ta được mời ăn cưới
mừng em… vâng, để mừng em.
(Trích bài: Bài ca của người thất tình)
Chủ đề thứ ba người viết muốn nói đến là đề tài siêu hình trong thơ Luân Hoán. Siêu hình ở đây chỉ là những ý nghĩ về thời gian đời người, về kiếp người có lúc muốn dứt bỏ có lúc bám níu sự sống. Không phải bàn về thơ siêu thực hay tôn giáo, điều ta ít thấy biểu lộ trong thơ Luân Hoán. Luân Hoán đôi khi bi quan, đó là do hậu quả của chiến thương, có những mặc cảm thành phế nhân vô dụng. Lúc bi quan nhất ông mới 59 tuổi, và cũng đã là thời gian ông sống nơi hải ngoại ở Canada. Ta nghĩ không phải do eo hẹp vật chất, vì Canada là nơi vốn hào sảng về phúc lợi. Bi quan đây là do cảm thức sự đều đặn chảy trôi của hàng ngày, do mặc cảm phế nhân trong một thời gian ông cho là đã dài rồi, sẵn sàng đón nhận cái chết. Bây giờ nghĩ lại chắc nhà thơ thấy 60 mươi năm chưa phải là kỳ hạn của đời người trong những xứ văn minh như Canada, Nhật Bản hay Hoa Kỳ:
tảng sáng nghe chim hót
xế trưa nhìn mây bay
xẫm chiều gác chân đợi
trừ đời thêm một ngày
không nặng như đá tảng
chẳng nhẹ như lông hồng
thỉnh thoảng nghe gió lọt
qua lòng chút bềnh bồng
có lẽ vào buổi sáng
không chừng vào buổi trưa
biết đâu vào chạng vạng
kết thúc đời dư thừa.
(Trích bài: 59, tôi)
Cảm thức sự nhàm chán trôi chảy của ngày tháng mà sinh ra yếm thế, đúng là do tâm-sinh-lý hòa quyện vào nhau. Cơ thể không vận động do thương tích đã tác động lên tâm hồn mà gây sự buồn rầu, điều này chỉ hiện diện đôi lúc khi thời tiết khó chịu. Còn những khi dễ chịu như buổi sáng tưng bừng tiếng chim hót hay sẩm chiều chờ đợi người thân trở về thì nhà thơ lại mong một ngày đừng trôi qua. Rõ ràng nhà thơ cũng như mọi người trong chúng ta đều ham sống. Ta có thể khẳng định vài cảm nghĩ yếm thế của nhà thơ Luân Hoán chỉ trong phút chốc nào đó mà thôi. Nhà thơ Luân Hoán từng nói ông tiếc mỗi ngày trôi qua, thời gian còn lại của đời người thật quý báu cần duy trì cả mỗi phút giờ. Ta ghi nhận được như vậy, qua bài thơ rất cảm động ông thương tiếc cái chết của con chim hồng yến nuôi trong nhà, sau vài ngày cố tranh thủ sự sống cho con chim bị mắc bệnh:
… nhỏ cho mày giọt thuốc
trùm khăn ấm trần lồng
đặt vừa tầm dòng sưởi
mừng mày đứng vững dần
… sáng sớm ta xuống lầu
lòng nhẹ bớt lo âu
khi thấy mày vẫn đứng
dù hơi cúi thấp đầu
… mày chiêm chiếp vài lần
mắt nhìn ta trân trân
có điều gì muốn nói
mà lòng còn bâng khuâng?
… yến ơi mày đã chết
sau đêm dài đợi chờ
nhìn mặt ta lần cuối
rồi lịm vào hư vô
… cuộc sống ta còn lại
quý báu từng phút giờ
mất thêm một bằng hữu
ta đành hành hạ thơ…
(Trích bài: Vĩnh biệt Hồng Yến)
Lần lượt nói vê ba chủ đề “chiến tranh bao gồm chiến thương – tình yêu bao gồm tình gia đình – siêu hình về kỳ hạn đời người”, như vậy cũng có phần nào viết về tác giả. Viết về tác giả vốn là điều người viết bài thực sự muốn tránh, vì việc này đòi hỏi tìm hiểu thấu đáo các tác phẩm của một người. Tìm hiểu thấu đáo như thế thuộc về khuynh hướng nghiên cứu hay phê bình. Còn chỉ vì cảm thấy cái hay của môt số bài thơ liên hệ đến các chủ đề trên, rồi bàn theo suy xét riêng của mình, nghĩa là tự giới hạn ở vài nhận định mà thôi. Tóm lại, những cảm nghĩ của người viết mong cùng bên cạnh những nghiên cứu của một số người khác để có một cái nhìn tổng thể về Luân Hoán, một tác giả với thi ca có những đặc điểm và cũng đã nhiều đóng góp văn chương./.
(Trích Tạp chí Thư Quán Bản Thảo, số 47, tháng 7 năm 2011 – Bản gửi từ tác giả)
Walnut, California, tháng 4 năm 2011