Sử dụng điển cố là một thủ pháp quan trọng trong sáng tác văn học trung đại. Tuy nhiên trong quá trình phát triển song hành, hai bộ phận văn học trung đại và văn học dân gian đã có sự thẩm thấu lẫn nhau. Điển cố xuất hiện trong một số bài ca dao là minh chứng cho sự ảnh hưởng đó giữa hai bộ phận văn học. Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ chúng tôi xin đi vào phác họa vài nét về việc sử dụng điển cố trong ca dao Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)([1])
Trong một thời gian dài chúng ta sử dụng chữ Hán như một thứ văn tự chính thống. Chữ Hán được dùng trong những văn bản mang tính quan phương lẫn trong sáng tác văn học. Cũng chính vì thế mà ta đã tiếp nhận thi liệu của văn học Trung Hoa thông qua thứ văn tự ấy như một điều tất yếu. Tuy nhiên khi chúng được vận dụng trong ca dao đặc biệt là trong ca dao của ĐBSCL thì bên cạnh những nét tương đồng với phương thức vận dụng điển cố trong văn học trung đại nó còn có những nét dị biệt.
1.1 Phương thức đầu tiên mà ca dao ĐBSCL là vận dụng ý của điển cố Trung Quốc.
Lưỡi Trương Nghi dẫu bén
Miệng Tô Tử dầu lanh
Bây giờ đã quyết với anh
Dẫu hai ông tái thế dỗ dành em chẳng xiêu
Trương Nghi và Tô Tần là hai nhà thuyết khách nổi tiếng thời Chiến Quốc. Thế nên hai nhân vật này đã trở thành biểu trưng cho những con người có tài ăn nói. Vậy nên cô gái trong bài ca dao đã sử dụng điển cố này rất chính xác nhằm để biểu đạt ý: Dẫu người ta có tài ăn nói như thế nào đi nữa cũng không thể lay chuyển được lòng "em". Qua đó cô gái muốn khẳng định lòng chung thủy sắc son với chàng trai mà mình đã gửi trọn tấm lòng yêu mến. Tuy sử dụng điển cố nhưng khi đọc bài ca dao trên, ta vẫn thấy thú vị, gần gũi bởi ngôn ngữ bình dân của ĐBSCL như: lanh, bén được đan cài vào đây tạo nên chất sống động tươi mới, phản ánh tính cách chất phát mộc mạc của con người vùng đất chín rồng.
Ở một bài ca dao khác ta nhận thấy tác giả dân gian đã vận dụng ý của điển cố nhưng đã có những cải biên độc đáo:
Sông Tương ai gọi sông sâu
Chẳng bằng một nửa mạch sầu của ta
Sông tuy sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bãi không bờ
Đầu sông chàng đợi chàng chờ,
Nào hay thiếp đợi hững hờ cuối sông.
Bài ca dao này đã vận dụng lại ý của một đoạn thơ trong Tình sử:
Quân tại Tương giang đầu
Thiếp tại tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương giang thủy
(Chàng ở đầu sông Tương – Thiếp ở cuối sông Tương – Nhớ nhau mà chẳng thấy nhau – Mặc dầu cùng uống nước sông Tương)
Tuy vận dụng điển cố nhưng ta nhận vẫn thấy được nét tài hoa của tác giả dân gian: Bốn câu thơ trong Tình sử lấy tứ: cùng uống nước một dòng nhưng lại chịu nỗi đau li biệt của kẻ đầu sông người cuối sông. Còn ở bài ca dao vừa nêu cũng nói đến sông Tương nhưng khai thác ở một khía cạnh khác: độ sâu, độ rộng của sông Tương không bằng nỗi lòng của kẻ tương tư vì li biệt.
Ở Thiên Quốc Phong - Kinh Thi, một cuốn sách kinh điển của Nho giáo, có bài Thư Cưu, trong đó có đoạn:
Quan quan thư cưu,
Tại hà chi châu
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu
(Chim Thư cưu trên bãi sông tiếng kêu nghe êm ái, dịu dàng; người con gái hiền lành xinh đẹp ấy, xứng đáng kết lứa đôi với chàng trai có tài đức kia)
Con chim thư cưu xa lạ của văn chương Trung Hoa đã biến thành con chim tinh nghịch, có sắc, có hình, rất gần gũi trong ca dao ĐBSCL:
Con chim mỏ đỏ
Cái lông nó nhỏ
Cái mỏ nó huỳnh
Nó kêu thục nữ ngoái lại cho quân tử nhìn
Phải duyên quân tử kết, phải tình quân tử thương.
Trong một bài ca dao khác, điển cố có nguồn gốc từ Kinh Thi cũng đã được người bình dân sử dụng:
Anh ơi đừng vạch vách, bẻ rào
Vườn quê mới lập, quả đào non
Anh muốn vô bẻ trái đào non
Chờ cho đúng lúc, biết còn hay không.
Bài ca dao trên xuất hiện hình ảnh đào non. Trong Kinh Thi, bài Đào yêu (Chu Nam) có câu:
Đào chi yêu yêu
Chước chước kì hoa
Chi tử vu quy
Nghi kì thất gia
(Cây đào tơ xanh mơn mởn, hoa đỏ hồng rực rỡ - Cô ấy về nhà chồng, hòa hợp với gia đình nhà chồng của
cô)
Vậy đào non nguyên nghĩa là cây đào mơn mởn xanh non, chỉ người con gái trẻ đẹp đến tuổi lấy chồng. Trong bài ca dao này đã sử dụng hình ảnh đào non của Kinh thi nhưng đã có biến cải. Nếu như đào non (đào chi yêu yêu) trong Kinh thi là cây đào xanh non thì trong bài ca dao đã chuyển hóa thành "trái đào non".
Một bài ca dao khác:
Sống làm chi kẻ Hán người Hồ
Một mai thác xuống chôn một mồ mới vui
Bài ca dao này gợi nhắc đến điển cố về nàng Chiêu Quân cống Hồ. Khi vua Hán nhận ra được vẻ đẹp của nàng Chiêu Quân thì cũng chính là lúc nàng rời Hán sang Hồ dâng mình cho vua Hung Nô để giữ tình hòa hiếu. Bài ca dao trên đã lấy ý của điển cố nhưng có thể tồn tại một cách độc lập. Người tiếp nhận không cần phải hiểu nghĩa điển cố nhưng cũng có thể hiểu được khá trọn vẹn ý tình của bài ca dao bởi cách mà tác giả dân gian đã vận dụng thể đăng đối trong ngữ kẻ Hán người Hồ nhằm dựng trường nghĩa về nỗi đau li biệt.
Cá biệt trong ca dao ĐBSCL có trường hợp vận dụng điển cố nhưng thoát li hoàn toàn nghĩa điển cố. Như bài ca dao sau:
Ai làm cho dạ em buồn
Chim sa cá lặn, chuồn chuồn lụy theo.
Thành ngữ Chim sa cá lặn là thành ngữ được dịch thoát ý từ thành ngữ Hán Trầm ngư lạc nhạn, chỉ người con gái đẹp, có nhan sắc tuyệt trần đến mức mê hồn. Trong sách "Nam hoa kinh", Trang Tử viết rằng: Mao Tường và Lệ Cơ là hai người đàn bà đẹp, cá thấy - chìm vào chốn hang sâu, chim thấy - bay cao. Ý Trang Tử muốn nói rằng mọi sự trên đời đều là tương đối. Mao Tường, Lệ Cơ tuy đẹp, song chỉ đẹp đối với người, chứ biết đâu trông thấy họ cá chẳng sợ mà lặn sâu, chim chẳng sợ mà bay cao? Người sau hiểu khác hẳn. Sách "Thông tục biên" dùng thành ngữ "trầm ngư lạc nhạn" để chỉ nhan sắc người đàn bà cực đẹp. Thế nhưng trong bài ca dao vừa nêu lại người bình dân lại tạo dựng hình ảnh Chim sa cá lặn với nghĩa biểu đạt thực tế của hình ảnh, hoàn toàn không liên hệ gì đến nghĩa "tầm nguyên" của điển cố.
Theo thần thoại Trung Hoa, chim quạ (ô), chim khách (thước) khuân đá lấp sông Ngân Hà tạo nên cầu Ô Thước để Chức Nữ sang gặp Ngưu Lang trong tiết thất tịch (mồng bảy tháng bảy). Trong văn học xưa cầu Ô Thước (hay cầu Ô) biểu trưng cho sự gặp gỡ nối kết đôi lứa.
Bậu đừng dứt nghĩa cầu ô
Chớ anh không phụ Hớn Hồ như ai
Thế nhưng trong một số bài ca dao khác, người bình dân ĐBSCL đã hiểu hoàn toàn khác:
Quạ đen kêu bằng ô thước
Thấy em có chồng vô phước anh thương
Ở đây ta thấy có sự nhầm lẫn "đáng yêu": Quạ đen đã được dịch một cách "vô tư" thành "ô thước" ([2]). Trong khi ô thước thực chất là hai loại chim khác nhau. Đồng thời nội dung của bài ca dao này lại hoàn toàn không liên quan gì đến đến điển tích ấy.
1.3 Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy một lượng khá lớn điển cố được vận dụng trong ca dao ĐBSCL thường được trích dẫn từ những sách học chữ Nho vỡ lòng. Đặc biệt là cuốn Minh tâm bảo giám (Gương quý sáng soi tâm hồn), một tập sách được hình thành vào khoảng đời Tống (Trung Quốc), nội dung chia làm hai mươi chương, trích tuyển lời văn của những bậc hiền triết thời xưa xếp theo hai mươi đề mục, nhằm mục đích giáo dục đạo đức xử thế theo quan niệm thời bấy giờ. Ca dao ĐBSCL có câu:
Họa phước vô môn ([3])
Sang giàu dễ kiếm, người khôn khó tìm
Trong Minh tâm bảo giám, ở thiên Thiện kế có câu: Thái Thượng cảm ứng thiên viết: "họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu. Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình (Thiên Thái Thượng cảm ứng viết rằng: "Điều họa hay điều phước điều không có cửa vào, do tự người ta mời tới. Sự báo ứng của điều thiện, điều ác giống như bóng theo hình")
Hoặc:
Ngọc bất trát bất thành khí
Nhân bất học bất tri lí
Vì bởi anh nghèo nên chịu chữ ngu si
Phải chi anh đây có của, thua gì hởi em?
Ở đây chúng ta thấy nhân vật "anh" đang băn khoăn vì chuyện học hành không thuận lợi bởi vì quá nghèo. Như vậy vì nói việc học nên tác giả dân gian đã dẫn một đoạn trong Minh tâm bảo giám: "Lễ kí vân: Ngọc bất trát, bất thành khí. Nhân bất học, bất tri lí" (Lễ kí viết rằng: "Ngọc không mài giũa thì không thành món đồ (trang sức) – Người không học không biết lí lẽ"). Rõ ràng chúng ta thấy nội dung điển cố đã hỗ trợ cho nội dung phía dưới của bài ca dao. Và cho ta thêm một hàm ý khác, nhân vật "anh" nói "chịu chữ ngu si" nhưng kì thực anh không phải là người không có học. Vì nếu như anh không học anh không thể nào dẫn được toàn văn một đoạn trong Minh tâm bảo giám như vậy.
Qua một bài ca dao khác, ta thấy người bình dân ĐBSCL đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến cuốn "giáo khoa luân lí" này. Trong một cuộc đối đáp người con gái đã thử thách chàng trai:
Em kể chuyện từ đời Tống đến đời Đường
Ông vua Đường có cuốn sách Minh Tâm,
Một cuốn có mấy chục tờ
Một tờ có mấy chục chữ
Anh đứng làm trai quân tử tỏ lại em tường
Trăm năm kết nghĩa cang thường với anh
Người con trai đã trả lời một cách dứt khoát và tự tin:
Nghe em hỏi tức, anh đáp phức cho rồi
…………..
Ông vua Đường có cuốn sách Minh Tâm,
Một cuốn có ba trăm tờ
Một tờ có ba trăm chữ
Anh đứng làm trai quân tử tỏ lại em tường
Trăm năm gá nghĩa cang thường hay chưa?
Mặc dù yêu thích nhưng người bình dân hoàn toàn không quan tâm đến gốc tích của cuốn sách này nên đã có sự "nhầm lẫn" thời gian ra đời của cuốn Minh tâm bảo giám. Vì thực chất cuốn sách này được hình thành vào khoảng đời Tống, mà Tống thì phải sau đời Đường, do đó không có chuyện "Ông vua Đường có cuốn sách Minh Tâm" được! Có lẽ cái mà người dân ĐBSCL quan tâm chính là nội dung luân lí trong cuốn sách phù hợp với tầm tiếp nhận của họ.
1. 4 Một số trường hợp điển cố của văn học Trung Hoa đã đi vào ca dao ĐBSCL với tư cách là những đơn vị từ vựng và được sử dụng phổ biến đời sống. Ví dụ như: ông Tơ bà Nguyệt, nghĩa tào khang, thục nữ - quân tử, Châu Trần, cang thường, loan phượng….
Trường hợp điển cố ông Tơ- bà Nguyệt, tơ hồng xuất hiện rất nhiều trong ca dao ĐBSCL:
- Gặp ông Tơ lột nón xá liền
- Bắt ông Tơ đánh sơ vài chục
- Nhờ ông Tơ bà Nguyệt chỉ đường xuống lên
- Ai xui chi vợ vợ chồng chồng
Biết đây với đó tơ hồng có xe?….
Trong văn học Trung Quốc, điển Nguyệt Lão gắn với câu chuyện của một người tên Vi Cố đời Đường. Nguyệt lão (Nguyệt lão hạ nhân) là một ông già chuyên lo se kết lương duyên bằng sợi chỉ đỏ (tơ hồng, chỉ hồng). Tuy nhiên hình tượng này khi đi vào ca dao lại có những cải biến khá thú vị: Nguyệt Lão thành Ông Tơ - bà Nguyệt, thậm chí chỉ còn là bà Nguyệt! Đây còn là "đối tượng" để đôi lứa yêu nhau trách móc oán than khi tình duyên không trọn vẹn:
- Tìm nhà bà Nguyệt gạn thiệt cho rành
Vì đâu hoa nọ bỏ cành,
Nợ duyên sao sớm dứt tình hỡi em!
- Tôi kiện ông Tơ, tôi kiện bà Nguyệt lão
Se dây rồi tháo lộn trở ra
Châu Trần là tên hai họ thời xưa ở Trung Hoa đời đời kết làm thông gia với nhau. Do vậy nghĩa của điển cố là chỉ việc kết duyên vợ chồng. Trong ca dao ĐBSCL, tác giả dân gian cũng đã vận dụng điển Châu Trần với nghĩa ấy.
- Châu Trần lụy rớt ướt đầm cái gối ôm
- Châu Trần lụy hạ biết ngày nào dạ anh nguôi
-
Tào khang nguyên âm đọc chuẩn là tao khang (hay còn đọc là tao khương). Tao là hèm rượu, khang là cám, nói những thức ăn hèn mọn. Chỉ người vợ lấy từ buổi đầu nghèo túng, tình nghĩa chồng đối với vợ([4]).
- Phải điệu tào khang sao anh đành vội đứt
- Đôi ta là nghĩa tào khang
Hơn thế nữa chúng ta thấy hàng loạt từ quân tử - thục nữ trong bài Thư Cưu trên đã xuất hiện hoặc là sóng đôi hoặc là riêng lẻ trong nhiều bài ca dao khác:
- Nó kêu thục nữ ngoái lại cho quân tử nhìn
Phải duyên quân tử kết, phải tình quân tử thương.
- Kêu sao kêu lại cho quân tử nghe cùng
Phải duyên quân tử kết, phải lòng quân tử ưng
- Hỏi thăm thục nữ loan phòng chờ ai?
Cang thường là tam cang ngũ thường. Tam cang (hay tam cương) chỉ ba giềng mối quan hệ cơ bản trong xã hội phong kiến: Quân – thần, phụ - tử, vợ - chồng. Ngũ thường là là Nhân – Nghĩa – Lễ - Trí – Tín([5]). Đây vốn là những chuẩn mực đạo đức mà con người phải tuân thủ để đạt đức.
- Để em vô phá đạo cang thường sao nên
- Anh với em gá nghĩa cang thường
-
Rồng mây chỉ việc gặp thời cơ tốt, công danh hiển đạt. Kinh Dịch viết: vân tùng long, phong tùng hổ (mây theo rồng, gió theo hổ là nói những vật cùng khí loại thường cảm ứng mà tìm đến nhau). Nét nghĩa này được sử dụng trong văn học bác học với các tên gọi khác như: hội rồng mây, hội long vân, long vân…). Trong ca dao ĐBSCL rồng mây lại biểu trưng cho sự hòa hợp gắn bó giữa đôi lứa trong tình yêu (rồng lên mây, rồng ấp mây...)
- Tưởng là rồng ấp được mây
Ai ngờ rồng ấp phải cây chổi cùn
- Đôi ta như thể cá hóa rồng lên mây
-
Loan phượng là giống chim hiếm khó thấy, thường đi với nhau thành đôi. Chỉ người anh tài, tình vợ chồng hòa hợp. Loan, xưa cho là giống chim phượng, lông năm sắc mà trội về sắc xanh. Theo Quảng nhã, chim loan thuộc phượng hoàng. Sơ học ký dẫn Mao thi thảo trùng kinh cho rằng con đực là phượng, con cái là hoàng. Ca dao ĐBSCL thường dùng hình ảnh loan phượng với nghĩa tình vợ chồng hòa hợp.
- Phụng lìa loan phụng lại biếng bay
- Màn loan gối phượng ai ôm
………..
Về sau những từ ngữ này được sử dụng đã thoát li điển cố, người bình dân sử dụng một cách hồn nhiên vào trong lời ăn tiếng nói cũng như vận dụng trong ca dao mà cũng không quan tâm nghĩa "tầm nguyên" của nó là gì. Như vậy phần nhiều các tác giả dân gian khi sáng tác ca dao trong trường hợp này là dùng điển cố một cách "vô thức". Đây cũng là một điều độc đáo khác biệt so với văn học trung đại.
1.4 Trong ca dao ĐBSCL có hiện tượng dẫn ngữ liệu toàn chữ Hán ở phần đầu của bài ca dao. Ví dụ như bài ca dao sau:
Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng
Có duyên ngàn dặm cũng gần,
Vô duyên gặp mặt vạn lần cũng xa
Hai câu đầu trong bài ca dao được tạo dựng hoàn toàn bằng chữ Hán: Có duyên thì nghìn dặm xa cũng có thể gặp nhau, vô duyên với nhau thì dù có đối diện cũng coi là không gặp([6]) Hình thức của bài ca dao này khá đặc biệt: phần đầu là thành ngữ Hán phần cuối là phần dịch thoát ý của hai câu trên. Hình thức này ta còn bắt gặp ở một số bài ca dao ĐBSCL khác như:
Nhất nhật phu thê bá dạ ân
Nhất nhật đồng sàng chung dạ ái
Một ngày cũng nghĩa phu thê
Tay ấp má kề sanh tử có nhau.
Một hình thức khác là tác giả dân gian đã vận dụng ngữ liệu chữ Hán để giải thích cho phần dưới của bài ca dao:
- Lộ bất hành bất đáo
Chung bất đả bất minh
Bây giờ anh mới rõ sự tình
Tại bà mai ở độc hai đứa mình mới xa.
- Họa hổ họa bì nan họa cốt
Tri nhân tri diện bất tri tâm
May không chút nữa em lầm
Khoai lang khô xắt lát, tưởng nhân sâm bên Tàu
Có khi nội dung ngữ liệu chữ Hán lại không có liên quan gì đến phần dưới của bài ca dao. Chúng chỉ có tác dụng đưa vần cho câu thơ phía dưới:
- Kiến bất thủ như tầm thiên lí ([7])
Thấy miệng em cười hữu ý anh thương
- Thiên sanh nhơn hà nhơn vô lập
Địa sanh thảo hà thảo vô căn
Hơn không hơn em cũng kiếm cho bằng
Có đâu thua bậu mà bậu hòng cười chê
Có thể xem đây là những trường hợp vận dụng chữ Hán chưa thật nhuần nhuyễn bởi vì xét kĩ nội dung của phần đầu và phần sau không có mối liên hệ hữu cơ với nhau.
*
Ca dao là tiếng nói tâm tình của người bình dân. Tuy nhiên qua những điều đã trình bày chúng ta nhận thấy ẩn tàng đằng sau những câu ca dao đậm hơi thở sông nước Cửu Long là vai trò của người trí thức bình dân xưa trong sáng tác ca dao. Họ là "nguồn" cung cấp những thi liệu văn liệu của văn chương bác học phổ biến trong sáng tác dân gian. Dần dà chúng đã trở nên quen thuộc và được sử dụng phổ biến rộng khắp trong quần chúng nhân dân lao động. Đồng thời bằng sự tài hoa và tâm hồn nhạy cảm tinh tế, người bình dân ở ĐBSCL lại có những cải biến thú vị nghĩa của điển cố tạo nên những bài ca dao đặc sắc mang dấu ấn của "văn minh miệt vườn".
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS Nguyễn Thạch Giang - Từ điển văn học quốc âm – NXB văn hóa thông tin, 2000
2. Đàm Gia Kiện, Lịch sử văn hóa Trung quốc, NXB Khoa học xã hội, Hà nội, 2003
3. Nguyễn Xuân Kính - Ảnh hưởng của văn học chữ Hán Trung Quốc đối với thơ ca dân gian người Việt – Nghiên cứu văn học – 4/2007.
4. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội, 1992
5. Đặng Đức Siêu, Ngữ văn Hán Nôm (tập 3), NXB Giáo dục Hà Nội,1988.
6. Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000
7. Quách Tấn - Thi pháp thơ Đường, NXB Trẻ, TPHCM, 1998
8. Khoa Ngữ văn ĐH Cần Thơ - Văn học dân gian Đồng bằn sông Cửu Long, NXB GD, 1999.
9. Nguyễn Như Ý – Nguyễn Văn Khang – Phan Xuân Thành - Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán – NXB văn hóa – 1997
Chú thích
([1]) Khảo cứu ngữ liệu trên Văn học dân gian Đồng bằn sông Cửu Long, Khoa Ngữ văn ĐH Cần Thơ, NXB GD, 1999. Đây là kết quả có được từ quá trình điền dã của tập thể cán bộ và sinh viên Khoa Ngữ văn ĐH Cần Thơ về các địa phương sưu tầm. Thế nên đây là một công trình giới thiệu một cách tương đối diện mạo của một vùng văn học dân gian mà ca dao là một thể loại bộ phận trong hệ thống thể loại văn học dân gian tồn tại ở ĐBSCL.
([2]) Có lẽ người bình dân nhầm lẫn ô là sắc đen
([3]) Họa phúc vô môn: Tai họa hay hạnh phúc thường là do chính bản thân mình gây ra, mang đến (Theo Nguyễn Như Ý – Nguyễn Văn Khang – Phan Xuân Thành - Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán – NXB văn hóa – 1997)
([4]) Xem thêm điển tích tao khang có xuất xứ từ sách Hậu Hán thư (Trung quốc) (Theo GS Nguyễn Thạch Giang - Từ điển văn học quốc âm – NXB văn hóa thông tin, 2000.
([5]) Khổng Tử quan niệm người đạt Đức phải đáp ứng ba điều: "Nhân – Nghĩa – Dũng". Về sau Mạnh Tử bỏ "Dũng" mà thay vào "Lễ - Nghĩa". Từ đời Hán bổ sung thêm "Tín" thành năm Đức gọi là Ngũ Thường.
([6]) Nguyễn Như Ý – Nguyễn Văn Khang – Phan Xuân Thành - Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán – NXB văn hóa – 1997.
([7]) Câu này còn xuất hiện thêm ở hai bài ca dao khác