Chắc chắn. Hay là không?
Rõ ràng là sự cạnh tranh quyền lợi và đam mê khốc liệt, quyền lực điên rồ của đồng tiền và vật chất là thước đo mọi sự trên đời – tóm lại, thị trường tự do, thoát khỏi mọi qui tắc và bị lòng tham của những kẻ có quyền lực nhất khống chế - sẽ giết chết tâm hồn của chúng ta. Vào cuối đời Aleksandr Solzhenitsyn vĩ đại đã nghĩ như thế.
Quan điểm này được một nhóm các nhà tư tưởng Pháp hồi những năm 1930, gọi là “những người bất phục” (non-conformists), trong đó có cả Charles Péguy và một vài người nữa. Họ cho rằng trao đổi hàng hóa làm cho con người mất nhân cách. Đấy cũng là luận điểm của nhiều nhà tư tưởng Thiên chúa giáo (hay đơn giản là những người duy linh), họ cho rằng ý tưởng “thị trường tự do” là sự cáo chung của các giá trị đạo đức và sự kết thúc của đức tin và khát vọng vươn lên thực tại tuyệt đối.
Nhưng đấy còn là một trong những đề tài chính của chủ nghĩa phát xít và là một trong những lí do làm cho quần chúng đi theo chúng – chúng ta cần phải tỉnh táo. “Đả đảo chủ nghĩa duy vật!” – chúng gào lên như thế. “Chúng ta sẽ kết liễu chủ nghĩa cá nhân đầy tiêu cực và cảnh đèn nhà ai nhà nấy rạng. Đối trọng với nó là cộng đồng trật tự, an toàn, gắn bó và hợp qui luật tự nhiên của chủ nghĩa phát xít!”. Nói ngắn, chủ nghĩa phát xít thuộc mọi thời đại đều coi qui tắc “giá trị tương đương tổng quát” (một cách gọi khác của thị trường) là thuật ngữ đã bị rút phép thông công.
Phải làm sao đây?
Vấn đề phức tạp hơn là ta tưởng lúc ban đầu. Chúng ta không thể - không được – tuyên bố rằng thị trường phá hoại và chỉ phá hoại các giá trị đạo đức, như thể đấy là chân lí tuyệt đối vậy. Phải đưa vào luận điểm tưởng như là rất đúng đắn này ba hệ luận sau đây. Thứ nhất, nếu thị trường làm cho đạo đức suy đồi thì tất cả những hình thức xã hội thay thế cho nó còn làm cho đạo đức suy đồi nhanh hơn và dứt khoát hơn. Hãy xem chủ nghĩa phát xít. Hãy xem một hệ tư tưởng phủ nhận thị trường khác: Chủ nghĩa cộng sản. Tôi không tin là có thể tìm được người nói rằng chủ nghĩa cộng sản đã có ảnh hưởng tích cực đối với tính cách và tâm hồn của những nạn nhân và những người theo nó.
Thứ hai, nếu phải chọn, nếu phải xếp thứ tự mức độ suy đồi thì rõ ràng là tình trạng suy đồi của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít – thông quan việc phủ nhận thị trường – còn mạnh hơn, nguy hiểm hơn và khó chữa hơn là ảnh hưởng của thị trường. Chủ nghĩa phát xít đã là như thế ngay từ đầu, còn chủ nghĩa cộng sản thì cuối cùng người ta mới thấy. Tôi vẫn nhớ chuyến đi khá dài qua Trung và Đông Âu ngay sau ngày bức tường Berlin sụp đổ. Tôi như còn nghe thấy những người bạn ở Tiệp Khắc, ở Ba Lan, Hungary và Đông Đức giải thích cho tôi rằng thời cộng sản - hàng chục năm xã hội không tuân theo qui luật của thị trường đó – đã hình thành trong họ, trong trái tim và tâm hồn họ, rất nhiều thói hư tật xấu, thậm chí những khiếm khuyết về mặt tâm hồn, và họ không biết đến bao giờ mới có thể gột rửa hết được những thói xấu như thế.
Thí dụ như thói quen trốn tránh trách nhiệm, nghĩa là không giám mạo hiểm, thậm chí không giám quyết định.Tôi còn nhớ rất rõ một nữ kĩ sư Đông Đức, một người hoàn toàn bình thường, có tâm hồn dân chủ và là người đối lập trong suốt nhiều năm ròng, nhưng chị đã bật khóc khi tôi đề nghị chị lập chương trình cho ngày mà chúng tôi sẽ làm việc cùng nhau. “Người ta đã dạy chúng tôi không được tự quyết định”, chị vừa khóc vừa nói. “Như thể họ cắt, như thể họ chui vào đầu tôi và phá hủy cái phần não đó của tôi vậy”. Hãy tưởng tượng chủ nghĩa cá nhân còn sâu sắc, khó cải tạo và triệt để hơn là tính tư lợi của xã hội thị trường. Theo những người đã từng trải qua thì đấy chính là bản kết toán mà chủ nghĩa cộng sản để lại cho chúng ta. Đấy chính là bằng chứng của sự suy đồi, của sự băng hoại đạo đức mà những xã hội không dựa trên cơ sở thị trường gây ra.
Cuối cùng, hệ luận thứ ba: vì thị trường phát triển những phẩm chất như sáng kiến và khả năng tự quyết định, buộc người ta phải quan hệ với những người khác vì cuộc sống của mỗi người hoàn toàn phục thuộc vào quan hệ với những người khác; nói chung thị trường là tác nhân thúc đẩy người ta hòa nhập vào xã hội, là phương tiện liên kết con người lại với nhau, thậm chí còn là phương tiện xây dựng tình huynh đệ, hay ít nhất cũng là sự công nhận lẫn nhau. Vì vậy, thị trường trái ngược với suy đồi. Chúng ta phải đọc tác phẩm của Hegel nói về biện chứng của sự công nhận trong quá trình phát triển ý thức đương đại. Chúng ta phải đọc tác phẩm của Emmanuel Levinas viết về vấn đề tiền (ở nước tôi, đấy là vấn đề tế nhị, gần như bị cấm đoán). Emmanuel Levinas khẳng định rằng tiền không những không chia tách, không làm cho con người xa cách nhau mà trên thực tế còn là phương tiện để họ trao đổi. Và như vậy, cần phải kết luận rằng thị trường là hữu ích vì đấy là một trong những phương tiện mà con người đã tìm ra nhằm tránh một chiến tranh, nơi tất cả mọi người cùng đánh lẫn nhau, như Hobbes và Freud sau này đã tiên liệu.
Thị trường có làm băng hoại các giá trị đạo đức hay không? Không, đương nhiên là không. Thậm chí nó còn củng cố việc giữ gìn đạo đức của chúng ta, cung cấp cho chúng ta khả năng nói “không” và nói rằng mình không đồng ý. Với điều kiện là chúng ta tự nguyện chấp nhận luật lệ và cự tuyệt những cám dỗ của chủ nghĩa tư bản rừng rú và chưa được thuần hóa. Thị trường, bắt chước theo câu nói nổi tiếng của Winston Churchill, là giải pháp tồi tệ nhất, nếu bỏ qua tất cả các giải pháp khác.
Bản dịch tiếng Anh là của Sara Sugihara.
Phần lớn chúng ta đều là những người tiêu dùng, đều cố gắng thực hiện trên thị trường những thương vụ có lợi nhất, nếu điều kiện cho phép. Phần lớn chúng ta cũng là những người đức hạnh, đều cố gắng làm những việc đúng đắn trong cộng đồng và xã hội. Đáng tiếc là những ước muốn trên thương trường lại thường mâu thuẫn với trách nhiệm đạo đức của chúng ta. Giải quyết mâu thuẫn này như thế nào? Chúng ta thường tránh né nó. Khi đóng vai người tiêu dùng, chúng ta muốn những quyết định của chúng ta đưa ra không liên quan đến những nguyên tắc đạo đức của chúng ta. Bằng cách đó, chúng ta không phải thực hiện những sự lựa chọn đầy phiền toái giữa sản phẩm và dịch vụ mà chúng ta cần với những lí tưởng mà chúng ta khao khát.
Thí dụ, khi sản phẩm mà ta muốn mua sản xuất ở nước ngoài rẻ hơn tất cả các sản phẩm nội địa thì thương vụ thuận lợi nhất đối với ta lại có thể làm cho những người láng giềng của ta mất việc hoặc mất một phần tiền lương. Những thương vụ thuận lợi nhất lại thường làm cho những người bán hàng ở trung tâm thành phố bị thiệt hại vì siêu thị ở ngoại ô là nơi bán hàng với giá rẻ hơn. Là những người đức hạnh, chúng ta quan tâm tới sự thịnh vượng của những người láng giềng và cộng đồng của chúng ta. Nhưng khi đóng vai người tiêu dùng thì chúng ta tích cực đi tìm những thương vụ có thể có tác động xấu tới mức sống của chính những người láng giềng và tình làng nghĩa xóm trong cộng đồng của chúng ta. Giải quyết mâu thuẫn này như thế nào? Thường thì chúng ta lờ đi.
Tương tự như thế, là những người đức hạnh, chúng ta thường cho rằng mình là người quan tâm đến môi trường, chăm lo đến việc bảo vệ thế hệ tương lai. Nhưng khi đóng vai người tiêu dùng, chúng ta lại thường bỏ qua khát vọng đạo đức này. Nhiều người trong chúng ta vẫn tiếp tục mua những chiếc ô tô thải khí CO2 vào bầu khí quyển, một số người còn thường xuyên bay trên những chiếc máy bay phản lực thải nhiều khí CO2 hơn nữa. Chúng ta cũng thường xuyên mua những hàng hóa giá rẻ được sản xuất tại các nước nghèo, nơi tiêu chuẩn về môi trường còn lỏng lẻo và các nhà máy thường đổ chất độc vào nguồn nước hoặc thải các chất gây ô nhiễm vào bầu khí quyển. Làm sao điều chỉnh được quan điểm đạo đức với thói quen mua sắm của chúng ta? Nói chung, chúng ta thậm chí không làm, nếu không nói đến những lần tình cờ mua sản phẩm “thân thiện với môi trường”.
Những thương vụ mà chúng ta thực hiện trên thương trường có thể gây ra những hậu quả khác nhau về mặt đạo đức, nhưng chúng ta không thích nghĩ tới chúng. Chúng ta có thể mua được những món rất hời vì người sản xuất đã giảm được chi phí bằng cách đặt nhà máy ở các nước nghèo và thuê trẻ em làm việc mười hai tiếng một ngày, bảy ngày trong một tuần hoặc là không cho các nhân viên người Mĩ được hưởng bảo hiểm y tế và hưu bổng, hoặc là bỏ qua các điều kiện an toàn của công nhân. Là những người đức hạnh, đa số chúng ta không cố ý chọn những phương pháp sản xuất như thế, nhưng là những người tìm mua các mặt hàng giá rẻ nhất, chúng ta phải chịu trách nhiệm về hậu quả của chúng.
Chúng ta thường tránh xung đột giữa những bản năng trên thương trường và lí tưởng đạo đức bằng hai cách sau đây. Thứ nhất, khi biết những sự kiện trướng tai gai mắt như tôi vừa nói bên trên, chúng ta thường qui trách nhiệm cho người sản xuất và người bán hàng chứ không coi đấy là trách nhiệm của mình, tức là của người tiêu dùng. Thí dụ, chúng ta tin rằng những người bán lẻ trong các siêu thị phải hoàn toàn chịu trách nhiệm vị họ đã trả lương quá thấp cho người lao động cũng như đã làm cho việc kinh doanh tại trung tâm thành phố không còn nhộn nhịp như trước nữa, hoặc những người sản xuất ô tô phải chịu trách nhiệm vì đã sản xuất ra những chiếc ô tô thải nhiều chất gây ô nhiễm ra môi trường.
Nhưng suy nghĩ như thế là chưa đầy đủ. Người sản xuất và người bán hàng thường không có cách lựa chọn nào khác ngoài việc giảm chi phí ngang bằng, nếu không nói là thấp hơn, chi phí của đối thủ. Việc chúng ta thường xuyên đòi mua những món hàng rẻ nhất buộc họ phải làm như thế. Họ biết rằng nếu không đáp ứng được nhu cầu của chúng ta thì chúng ta sẽ mang tiền đến các đối thủ của họ. Như vậy là, những hiện tượng chướng tai gai mắt mà chúng ta lên án lại là tác dụng phụ không thể tránh được của những cố gắng mà họ phải làm nhằm đáp ứng đòi hỏi của chúng ta.
Cách thứ hai là tách ước muốn trên thương trường khỏi quan niệm đạo đức của chúng ta. Trên thực tế, chúng ta làm công việc “rửa tiền” thông qua cơ chế của thị trường. Chúng ta mua hàng của người bán lẻ, người này lại là đại diện của công ty bán lẻ lớn, công ty bán lẻ này lại nhận sản phẩm từ mạng lưới phân phối; đến lượt mình, mạng lưới phân phối nhận hàng từ nhà sản xuất, còn nhà sản xuất thì lắp ráp các linh kiện từ các nhà thầu, các nhà thầu này lại thuê các thầu phụ trên khắp thế giới, hậu quả xã hội của việc mua bán này cách biệt với hành động của chúng ta đến mức chúng ta có thể dễ dàng che dấu trách nhiệm đạo đức của chính mình. Đơn giản là chúng ta không nhìn thấy mối liên hệ giữa sự lựa chọn của chúng ta – trong vai người tiêu thụ - và, thí dụ như lao động trẻ em ở các nước nghèo hay người hàng xóm bị mất việc và bị cắt bớt thu nhập.
Chắc chắn là có một số người tiêu dùng khi mua đã nghĩ đến những hậu quả đạo đức xa xôi như thế, cũng như một số công ty có thể tự hào vì đã bán các món hàng và dịch vụ được sản xuất bằng những phương pháp phù hợp với đạo đức và xã hội. Nhưng có đủ bằng chứng chứng tỏ rằng đa số người tiêu dùng chỉ muốn mua những món hàng thật rẻ mà thôi. Ngay cả khi chúng ta thích những hãng có trách nhiệm thì đa số chúng ta cũng không muốn mất thêm tiền vì những sản phẩm của những nhà sản xuất có trách nhiệm như thế.
Thị trường không làm băng hoại các giá trị đạo đức của chúng ta. Đúng ra, thông qua hai cách vừa nêu, nó giúp chúng ta trốn tránh cuộc sát hạch thật sự về các tiêu chuẩn đạo đức của mình. Và bằng cách đó, nó cho phép chúng ta bảo vệ các lí tưởng của mình ngay cả khi những lựa chọn trên thương trường của chúng ta tạo ra những kết quả trái ngược hẳn với các lí tưởng đạo đức đó.
Nếu cơ chế thị trường minh bạch đến mức chúng ta có thể thấy ngay những hậu quả về mặt đạo đức của mỗi món hàng minh mua thì khi đó chúng ta sẽ phải lựa chọn: hi sinh một số tiện nghi về mặt vật chất nhằm bảo vệ lí tưởng đạo đức hay là hi sinh các lí tưởng đạo đức để có nhiều tiện nghi hơn. Đấy sẽ là cuộc sát hạch thật sự. Không có sự minh bạch như thế thì không cần phải hi sinh gì hết. Chúng ta có thể mua được những món hàng cực rẻ mà vẫn giữ được đức hạnh mà không cần bất kì cố gắng nào.