Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.858 tác phẩm
2.760 tác giả
1.181
123.147.577
 
Vết Của Những Viên Ngọc
Trầm Thanh Tuấn

Đọc văn phải hướng để việc hiểu văn, để phát hiện những điều thú vị sâu xa trong văn, thiết nghĩ đó mới là mục đích cuối cùng của người đọc văn. Những giá trị văn chương đích thực luôn có sức hút mời gọi người đọc của mọi thế hệ khám phá, chiêm ngưỡng. Chúng là những viên ngọc ngời sáng, lung linh mặc sự biến thiên của thế cuộc nhân sinh. Thế nhưng, nếu dụng công quan sát một cách kĩ lưỡng, lẫn quất đâu đó ta vẫn nhận thấy những vết xước trên những viên ngọc ấy. Những vết xước này rất nhỏ, cơ hồ không làm giảm nhiều giá trị nghệ thuật văn chương của các tác phẩm ấy. Vậy nên việc trình bày của chúng tôi ở đây chỉ như một sự chiêm nghiệm về lẽ "nhân vô thập toàn".

 

1.      Một số chi tiết bất hợp lí trong Truyện Kiều

 

Truyện Kiều, tập đại thành của văn chương cổ điển Việt Nam, đã có một sức sống bền bĩ trong lòng dân tộc. Trong hơn hai thế kỉ qua, từ khi Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du ra đời đã thu hút sự phẩm bình nhiều cây bút phê bình qua nhiều thế hệ. Có thể nói với riêng nền văn học cổ điên  Việt Nam, Truyện Kiều là tác phẩm duy nhất được nghiên cứu một cách toàn diện sâu sắc trên nhiều bình diện. Tuy nhiên cho đến nay Truyện Kiều vẫn còn một trường lực hấp dẫn người nghiên cứu minh chứng cho giá trị vững bền của tác phẩm trước thời gian. Thế nhưng có thật Truyện Kiều hoàn toàn không có tì vết?

 

-         Trước tiên chúng ta hãy đọc lại một đoạn  trong Truyện Kiều:

 

Nén hương đến trước Thiên đài,

Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.

Dưới hoa dậy lũ ác nhân,

Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra.

Đầy sân gươm tuốt sáng lòa

Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.

Thuốc mê đâu đã tưới vào,

Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.

----------------------------------------

Dỡ đò lên trước sảnh đường,

Khuyển Ưng hai đứa nộp nàng dâng công.

Vực nàng tạm xuống môn phòng

Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.

Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,

Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?

Bàng hoàng dở tỉnh dở say,

Sảnh đường mảng tiếng đi ngay lên hầu.

 

Chúng ta đều biết Kiều ở với Thúc Sinh ở Lâm Truy còn gia đình họ Hoạn ở Vô Tích. Khi Thúc Sinh từ giã Hoạn Thư để về với Kiều bằng đường bộ "Vó câu chẳng ruổi nước non quê người". Thì Hoạn Thư đã sai bọn Ưng Khuyển bí mật đi bằng đường thủy về Lâm Truy trước để bắt Kiều vì " đường hải đạo sang ngay thì gần". Thế nhưng dù nhanh hơn một chút thì cũng phải trong một thời gian khá dài vì đoạn đường từ Vô Tích về Lâm Tri phải "đường bộ tháng chầy". Thế nhưng khi Kiều bị đánh thuốc mê thì Kiều đã bị mê man ròng rã nhiều ngày liền từ Lâm Tri về Vô Tích mới "Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai", " Bàng hoàng dở tỉnh dở say"! Điều này quả thật không hợp lí nếu nhìn dưới góc độ cơ chế sinh học của một con người bình thường.

 

-         Theo bản Kiều được phiên ra chữ quốc ngữ trong Từ điển truyện Kiều (NXB Phụ nữ, 2004) do cụ Đào Duy Anh soạn có chi tiết Mã Giám Sinh mua Kiều với giá bốn trăm lạng vàng: "Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm" ([1]) Thế nhưng trên đường về Lâm Truy gã đã tính toán: "Hẳn ba trăm lạng kém đâu – Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời". Như vậy Mã Giám Sinh đã mất đi một trăm lạng? Mã Giám Sinh là một "con buôn" chính hiệu như Kiều đã ngầm dự đoán "Khác màu kẻ quý người thanh - Ngẫm ra cho kĩ như hình con buôn" thì không thể làm ăn lỗ vốn như vậy. Phải chăng ở chi tiết này cụ Nguyễn Tiên Điền đã nhầm chăng?

-          

2.      Bàn thêm về một hình ảnh trong bài "Việt Bắc" của Tố Hữu

 

Việt Bắc là một trong những bài thơ đặc sắc của Tố Hữu cũng là bài thơ nổi bật văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp, một bài thơ đã vinh dự được tuyển dạy trong trường phổ thông nhiều năm qua. Bản thân tôi rất yêu quý tác phẩm này. Những câu thơ, đoạn thơ tài hoa cùng với điệp khúc Mình…ta…trở đi trở lại trong thi phẩm đã trở thành những ấn tượng không phai trong lòng tôi từ những năm còn ngồi trên nghế trường. Thế nhưng trong bài thơ có hai câu thơ mà mỗi lần đọc lại tôi vẫn hay băn khoăn. Mặc dầu nhiều người cho rằng đây là hai câu thơ khắc họa thành công hình ảnh vất vã của người mẹ Việt Bắc:

 

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.

 

Trong câu thơ này để đặc tả sự vất vã nhọc nhằn của người Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng biện pháp tu từ nói quá (còn gọi là thậm xưng, ngoa dụ hay cường điệu hóa): "nắng cháy lưng". Phép nói quá là một biện pháp tu từ được sử dụng khá nhiều trong văn chương. Vậy nên việc vận dụng trong câu thơ này là điều bình thường. Thế nhưng cái đáng bàn ở đây là khi tạo dựng sự liên tưởng ở người đọc bằng bất kì một biện pháp tu từ nghệ thuật nào, thì tác giả cũng cần chú ý đến sự liên kết với những hình ảnh được tạo dựng ở trước và sau nó. Người mẹ nắng đã cháy lưng nhưng lại đang địu con lên rẫy bẻ bắp ngô mà  Địu là đèo trẻ sau lưng bằng cái địu" ([2]). Như vậy lúc này đứa con sẽ như thế nào? Ta chấp nhận tính thiếu thực tế của hình ảnh được tạo dựng bằng phép nói quá, nhưng cái thiếu thực tế ấy phải được tại dựng trong "lôgic của văn chương", giữa các hình ảnh có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Thế nhưng đáng tiếc câu thơ trên trong bài thơ Việt Bắc lại chưa cho người đọc cái cảm giác "diễn đạt để nhân lên gấp nhiều lần những thuộc tính của khách thể hoặc hiện tượng nhằm mục đích làm nổi bật bản chất của đối tượng cần miêu tả, gây ấn tượng mạnh mẽ" ([3]) vốn là hiệu quả phép nói quá.

 

3.      Về một chi tiết khiên cưỡng trong "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân.

 

Trong truyện Chữ người tử tù (trích trong tập Vang bóng một thời) để nhấn mạnh tính cách Huấn Cao vốn "khoảnh", Nguyễn Tuân đã cho nhân vật của mình phổ biến tác phẩm nghệ thuật ít quá "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi". Không thể chỉ với hai bộ tứ bình và một bức trung đường mà Huấn Cao có thể "là cái người mà cả vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?" được.

 

Thư pháp là một bộ môn nghệ thuật cao cấp trong các loại hình nghệ thuật có xuất xứ từ Trung Hoa. Người học cần phải có một quá trình khổ luyện công phu mới có thành tựu. Ta hãy nghe GS Phan Ngọc chia sẽ: "Người Việt Nam có nhiều người viết chữ đẹp. Nhưng cái đẹp đó nhiều khi là cái đẹp hoa tay, không phải cái đẹp không đúng yêu cầu của thư pháp Trung Quốc. Mình nhìn người Trung Quốc viết và viết theo, cho nên cái đẹp là hồn nhiên mộc mạc, kiểu đẹp dân dã. Ở Việt Nam, các nhà Nho không mấy người học thư pháp trong khi thư pháp là nghệ thuật cao nhất của Trung Hoa cao hơn họa và thơ. Ông nội tôi không cho phép thầy tôi viết chữ tốt, sợ sẽ viết chậm không viết hết bài trong kì thi. Bác tôi thi hỏng hoài vì lo trau chữ. Cụ nghè Nguyễn Xuân Ôn nổi tiếng hay chữ nhưng cũng nổi tiếng là chữ rất xấu" ([4]). Phần tiếp theo của bài viết này tác giả kể về sự trãi nghiệm của chính cha ông là cụ Phan Võ nổi tiếng về Hán học. Khi đã đỗ phó bảng, cụ Phan Võ đi học thư Pháp với một danh bút Trung Hoa ở Huế. Để vận khí, cầm được bút cụ Phan đã mất đến 4 tuần luyện tập khó nhọc. GS Phan Ngọc kết luận "Một ông Tiến sĩ Việt Nam nhìn theo văn hóa Trung Hoa là người chưa biết cầm bút"

 

Vậy nên người viết thư pháp không thể như Nguyễn Tuân nói viết chữ rất nhanh và rất đẹp được. Vã lại để cho cả tỉnh Sơn ta đều biết tiếng tăm thì ắt hẳn phải có quá trình phổ biến rộng rãi tác phẩm. Một con người am tường văn hóa sâu sắc như Nguyễn Tuân, không thể không biết đều này. Chúng tôi đồ rằng, vì một mục đích cao hơn là khắc họa thật đậm nét một nhân cách kẻ sĩ với sự hội tụ tài hoa, khí phách và thiên lương, cụ Nguyễn đã phải chấp nhận chút "khiên cưỡng" trong chi tiết này.

 

4.      Về một nhân vật trong truyện "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam

 

Trong "chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống ngèo khổ hằng ngày của họ" trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam chúng tôi vẫn cảm thấy băn khoăn trước việc Thạch Lam đưa vào thiên truyện ngắn đặc sắc của mình nhân vật Bác phở Siêu. Để kiểm định đều này, tôi đã đọc khá nhiều bài phân tích và rõ ràng các nhà nghiên cứu phê bình khi viết bài về truyện Hai đứa trẻ đều "bỏ rơi" nhân vật này. Vậy nguyên nhân do đâu?

 

Khi đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ, mỗi đọc giả ắt hẳn đều nảy sinh những nỗi niềm trắc ẩn trước những thân phận con người như Liên, An, mấy đứa trẻ nhặt nhạnh ngoài chợ, mẹ con chị Tí, gia đình bác sẩm, thậm chí là bà cụ Thi chỉ thoáng xuất hiện rồi đi vào đêm tối. Thế nhưng với bác phở Siêu thì khó cảm giác đó. Nhân vật này xuất hiện một cách thừa thải lại thiếu tính chân thực. Bác phở Siêu bán phở, "một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được". Buôn bán phải có đồng lời, nhưng tình hình kẻ bán người mua ở phố huyện như thế ắt hẳn hàng Bác Siêu phải lỗ nặng vì ế ẩm (vốn cho hàng phở không thể ít ỏi như hàng nước của chị Tí được). Mà đã lỗ nặng thì không thể nào bác ra bán thường xuyên mỗi đêm được đến nỗi chỉ mới thấy "một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối" An đã trỏ tay bảo chị " Kìa hàng phở của bác Siêu đến kia rồi". Thiết nghĩ có nhân vật bác phở Siêu hay không có, thì cũng chẳng phương hại gì đến kết cấu và ý đồ nghệ thuật của truyện ngắn đặc sắc này.

 

5.      Về một số liên tưởng trong "Đoàn thuyền đánh cá" và hành động lạ của một vị la hán trong "Các vị La Hán chùa Tây Phương" của Huy Cận

 

Mở đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là hai câu thơ:

 

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

 

Khi thực hiện hoạt động đóng cửa thông thường ta phải đóng cửa trước sau đó mới cài then được Nhưng ở đây sự tạo dựng hình tượng của nhà thơ Huy Cận thật lạ "cài then trước rồi mới đóng cửa sau"!

Cũng trong bài thơ này chúng tôi nhận thấy có đến "hai mặt trời" xoay trên trái đất! Bắt đầu bài thơ là hình ảnh:

 

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Kết thúc bài thơ là hình ảnh

Mặt trời đội biển nhô màu mới

 

Nước ta nằm ở vị trí địa lí mà ai cũng biết là sẽ không có cảnh mặt trời "lặn" xuống biển. Vào mùa hè mặt trời mọc ở đằng đông (tức là phía biển) và lặn ở đằng tây. Vậy trong bài thơ này mặt trời mọc và lặn cùng một phía sao?

 

Trong bài Các vị La Hán chùa Tây Phương có câu thơ mà khi đọc tôi đã không khỏi băn khoăn từ năm học 12 (Chương trình cũ):

 

Có vị mắt giương mày nhíu sệt

 

Không thể ai có thể làm cùng một lúc hai động tác "mắt giương" và "mày nhíu" được. Bởi khi "mắt giương" thì hai chân mày phải cùng "giương" ra chứ làm sao có thể "nhíu" lại được!

 

Những điều chia sẽ trên đây, không phải việc "bới lông tìm vết", người viết cũng chỉ mong bằng kiến văn hạn hẹp, trong bài viết này mạo muội đưa ra những cái "khuyết" nhỏ của những tác phẩm hay của nền văn chương dân tộc những mong các bậc cao minh bổ chính cho những điều còn nông cạn.

 

Chú thích



([1]) Sách giáo khoa Ngữ văn 9 – NXB GD, 2005 ghi: "Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm'

([2]) Hoàng Phê (chủ biên) –  Từ điển tiếng Việt - Trung tâm từ điển ngôn ngữ, 2002

([3]) Đinh Trọng Lạc – 99 Phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt – NXB GD 2003

([4]) Bản sắc văn hóa Việt Nam – NXB Văn học - 2002

Trầm Thanh Tuấn
Số lần đọc: 2314
Ngày đăng: 22.07.2011
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Đọc Tập Thơ Dã Quỳ Tím Của Huỳnh Dũng Nhân - Bùi Chí Vinh
Cảm Thức Của Những Mùa Hương - Trần Hữu Dũng
Đỉnh Ảo, Một Đời Thơ - Nam Dao
Nhưng nhức nỗi buồn thế hệ - Hoàng Xuân Hoạ
Giọng châm chọc của Linda Lê - Lise-Hélène Smith
Nhớ Đến Một Người của Đỗ Hồng Ngọc - Khuất Đẩu
Trường-Ca Ca… - Đặng Thân
Đọc Lê Văn Thiện Trước 1975 - Nguyễn Lệ Uyên
Đọc: Tưởng Chừng Đã Quên của Nguyên Minh - Phạm Văn Nhàn
Năng Lượng Siêu Thực Trong Bóng Của Con Nhân Sư - Hoàng Thụy Anh