Peter Rutland và Philip Pomper – Phạm Nguyên Trường dịch
Nguồn: Stalin Caused the Soviet Collapse
Peter Rutland là giáo sư về quản lí nhà nước của đại học Wesleyan University ở Middletown, Connecticut. Philip Pomper là tác giả cuốn: Lenin’s Brother: The Origins of the October Revolution.”
Hai mươi năm sau cuộc đảo chính làm tan rã Liên Xô, cần phải trở lại với câu đố về sự cáo chung bất ngờ của nó. Nhân vật nào phải chịu trách nhiệm nhiều nhất về sự sụp đổ của Liên Xô? Câu trả lời thường là nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev (đối với những người theo phái tự do) hay tổng thống Mĩ Ronald Reagan (đối với những người bảo thủ). Nhưng trên thực tế, chỉ có một nhân vật xứng đáng được quan tâm mà thôi: đấy là Josef Stalin.
Stalin thường được người ta mô tả như là một thiên tài độc ác nham hiểm, người đã lợi dụng sự kém cỏi của phương Tây và sự hiện diện của Hồng quân ở Berlin vào năm 1945 nhằm mở rộng đế chế Xô Viết vào sâu trong lãnh thổ châu Âu.
Trên thực tế, sự phóng chiếu sức mạnh của Liên Xô vào Trung Âu là sai lầm chiến lược, đã đưa nhà nước Xô Viết đến chỗ diệt vong. Stalin chấp nhận hoàn toàn luận cứ của Vladimir Lenin, cho rằng chủ nghĩa đế quốc là “giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”. Điều này có nghĩa là còn tồn tại thì chủ nghĩa tư bản còn tìm cách bành trường bằng những cuộc chiến tranh đế quốc và chinh phục lãnh thổ. Để bảo vệ Liên Xô trước cuộc tấn công như thế, Stalin quyết định giữ lại những đội quân khổng lồ ngay cả trong thời bình và đầu tư nhằm bảo đảm an ninh cho một dải đất rộng lớn ở Đông Âu, coi đấy là vùng đệm trước những cuộc đột kích trong tương lai.
Nhưng tư duy chiến lược của Stalin là tư duy cổ lỗ. Trong những thập niên sau năm 1945 đã không hề có một cuộc tấn công đế quốc chủ nghĩa nào. Việc triển khai tên lửa đạn đạo xuyên đại dương có gắn đầu đạn hạt nhân làm cho chiến tranh giữa các siêu cường trở thành phi lí. Hơn nữa, não trạng đế quốc chủ nghĩa đã tự tan vỡ sau những vụ tắm máu liên tiếp trong Thế chiến I và Thế chiến II. Trong suốt thập kỉ sau năm 1945 các đế chế ở châu Âu rơi vào tình trạng phân rã, còn Mĩ thì không quan tâm tới việc xây dựng đế chế hay khởi sự những cuộc chiến lớn trên bộ nữa.
Như vậy là, Stalin đã bảo vệ mình trước mối đe dọa không tồn tại nữa và ông ta đã biến Liên Xô thành đế chế đa sắc tộc trong thời đại khi mà việc xây dựng đế chế đã trở thành lỗi thời và chủ nghĩa dân tộc đang ngày càng có thêm sức mạnh.
Những người bảo vệ Stalin - ở nước Nga đương đại hiện vẫn còn nhiều người như thế - mô tả ông ta là nhà lãnh đạo có con mắt nhìn xa trông rộng, người đã cứu Liên Xô khỏi cuộc tấn công của chủ nghĩa quốc xã. Họ biện hộ cho những đau khổ mà nhân dân Liên Xô phải chịu đựng dưới thời Stalin, coi đấy là giá phải trả cho quá trình công nghiệp hóa đất nước một cách nhanh chóng và bảo đảm an ninh cho quốc gia trước kẻ thù – hai điều kiện tiên quyết hằm bảo đảm cho các công dân một tương lai tươi sáng. Nhưng trên thực tế, Stalin đã rơi vào bẫy của những giả định cổ lỗ sỹ của thế kỉ XIX về tính chất của chiến tranh và bản chất của quyền lực trong hậu bán thế kỉ XX.
Trong khi tìm cách bảo vệ mình trước chủ nghĩa đế quốc phương Tây, Stalin lại đưa nước Nga vào con đường tự hủy diệt. Liên Xô đã è cổ gánh khoản ngân sách quân sự quá lớn, ngốn ít nhất cũng khoảng 25% GDP và phải triển khai mấy triệu binh sĩ để kiểm soát những khu vực thuộc địa ở Đông Âu.
Trước khi Thế chiến II kết thúc, Stalin đã sát nhập các nước vùng Baltic, Moldova và Tây Ukraine vào Liên Xô. Đa số tuyệt đối dân chúng những vùng lãnh thổ bị chiếm đóng này không muốn trở thành một phần của Liên Xô, thậm chí sau này những nhà lãnh đạo cộng sản của các nước đó cũng có những tình cảm như thế. Nếu Stalin không khăng khăng sát nhập các nước vùng Baltic mà để cho họ đi theo con đường của Phần Lan – tức là độc lập với Nga từ năm 1918 – thì có khả năng là những cố gắng cải cách của Gorbachev trong giai đoạn perestroika đã thu được thắng lợi rồi. Như đã thấy, công cuộc cải cách của ông ta đã trệch hướng vì những cuộc bạo loạn mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở các nước vùng Baltic và khu vực Caucasus. Hơn thế nữa, việc Gorbachev sẵn sàng chấp nhận sử dụng bạo lực một cách có giới hạn nhằm đè bẹp những người có tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở Liên Xô, từ Azerbaijan đến Lithuania, đã làm cho những lực lượng dân chủ ủng hộ Boris Yeltsin rời bỏ liên minh cải tổ.
Gorbachev được trao Huân chương Nobel Hòa bình vào năm 1990 vì ông đã tự nguyện lãnh đạo công cuộc giải tán đế chế Xô Viết ở Đông Âu một cách hòa bình. Nhưng quyết định quan trọng nhất về việc không sử dụng quân đội Liên Xô nhằm bảo vệ khối cộng sản thì không phải là của Gorbachev, được đưa ra vào năm 1988, mà là của Yury Andropov, được đưa ra vào năm 1981. Đối mặt với phong trào Đoàn Kết ở Ba Lan, chủ tịch KGB lúc đó là Andropov đã thuyết phục Tổng bí thư Đảng Leonid Brezhnev rằng đưa quân vào Ba Lan, tức là lặp lại các sự kiện ở Praha năm 1968, sẽ chỉ có hại cho Liên Xô – đấy là chưa kể quân đội đang bị sa lầy ở Afghanistan. Các lãnh tụ cộng sản Ba Lan phải tự giải quyết lấy công việc của mình – chủ yếu dựa vào thiết quân luật, điều này đã giúp họ giữ được chính quyền thêm vài năm nữa. Năm 1988 Gorbachev chỉ làm một việc là công khai tuyên bố chính sách đã có hiệu lực trên thực tế từ năm 1981 mà thôi.
Các cường quốc phải thích ứng với những đặc tính luôn thay đổi của hệ thống thế giới, đấy là nói nếu họ vẫn muốn dẫn đầu. Các nhà lãnh đạo phải lo trước thiên hạ chứ không thể chỉ dựa mãi vào những thành tích của quá khứ. Cả các chính khách lẫn các viên tướng đều không được đánh mãi cuộc chiến đã qua. Trong những lựa chọn chiến lược của mình, Stalin đã mắc chính cái sai lầm mà người ta thường mắc như thế. Ông ta tưởng là sẽ còn một Thế chiến II nữa và sẽ còn một hiệp đấu nữa trong trận xung đột mang tính đế quốc chủ nghĩa. Những người kế tục ông ta cũng như hai thế hệ người Nga đã phải trả giá quá đắt ./.
Đã đăng trên phamnguyentruong.blogspot.com