JOSHUA S. GOLDSTEIN, Foreignpolicy, bài cho số tháng 9 và 10/ 2011
http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/08/15/think_again_war
4
"Các cuộc chiến tranh sẽ tồi tệ hơn trong tương lai?"
Có thể không. Tất nhiên, mọi chuyện đều có thể xảy ra. Một cuộc chiến tranh đang phát triển mạnh giữa Pakistan và Ấn Độ chẳng hạn có thể có tiềm năng giết hàng triệu người. Nhưng như vậy một tiểu hành tinh hay – có lẽ dự đoán an toàn nhất – những trận bão khổng lồ do biến đổi khí hậu gây ra cũng có thể làm được như thế. Tuy nhiên, những lực lượng lớn thúc đẩy các nền văn minh theo hướng xung đột thảm họa thì hầu như đang giảm xuống.
Những thay đổi công nghệ trong thời gian gần đây đã làm cho chiến tranh đỡ man rợ hơn. Những máy bay không người lái ngày nay tấn công các mục tiêu mà trong quá khứ cần đến một cuộc xâm lược với hàng nghìn binh lính vũ trang nặng, di dời số lớn thường dân và phá hủy những tài sản có giá trị trên dường đi của nó. Một sự cải thiện về thuốc men ở chiến trường đã làm cho các trận đánh ít tử vong hơn cho các bên tham chiến. Trong quân đội Mỹ, tỉ lệ chết do vết thương chiến tranh đã giảm từ 30 % trong Thế Chiến II xuống 10% trong chiến tranh Iraq và Afghanistan – mặc dù điều đó cũng có nghĩa rằng Hoa Kỳ ngày nay đang thấy một tỉ lệ cao hơn những cựu chiến binh thương phế cần tiếp tục giúp đỡ và chăm sóc.
Những cuộc dịch chuyển cân bằng quyền lực cũng không buộc chúng ta phải chịu một tương lai chiến tranh liên miên không dứt. Trong khi một số nhà khoa học chính trị lập luận rằng một thế giới càng đa cực thì càng bất tường, dễ thay đổi – rằng hòa bình sẽ được bảo đảm tốt nhất bởi uy thế vượt trội của một cường quốc bá chủ duy nhất, tức là Mỹ – lịch sử địa chính trị gần đây cho ta thấy ngược lại.
Quyền lực tương đối của Hoa Kỳ và xung đột trên toàn thế giới trong thập kỷ qua đã lần lượt theo nhau suy yếu. Những ngoại lệ của xu thế này là Iraq và Afghanistan là những cuộc chiến tranh không cân sức do bá quyền phát động chứ không phải bị thách thức bởi những cường quốc mới nổi. Tiền lệ tốt nhất cho trật tự thế giới đang nổi lên hôm nay có thể là Dàn nhạc Châu Âu thế kỷ 19, một sự phối hợp của các cường quốc lớn nói chung đã duy trì được hòa bình trong một thế kỷ cho đến khi nổ ra cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất đẫm máu.
Còn Trung Hoa thì sao, mối đe dọa quân sự đang lớn lên được quảng cáo rùm beng trong thời kỳ hiện nay? Quả thật Bắc Kinh đã hiện đại hóa các lực lượng vũ trang của nó, đưa mức tăng chi phí quân sự lên hàng hai chữ số, hiện nay khoảng một trăm tỉ đô la mỗi năm. Nó đứng hàng thứ hai chỉ sau có Mỹ, nhưng là một hàng hai cách xa: Lầu Năm góc chi tiêu mỗi năm gần 700 tỉ. Trung Hoa không chỉ còn rất xa mới ngang hàng với Mỹ, không rõ là tại sao nó lại muốn đứng ngang hàng. Một cuộc xung đột quân sự (đặc biệt là với khách hàng và con nợ lớn nhất của nó) sẽ làm trở ngại tư thế thương mại toàn cầu của Trung Hoa và gây nguy hiểm cho sự phát đạt của nó. Từ khi Mao chết, Trung Hoa đã là cường quốc lớn hòa bình nhất trong thời của nó. Đối với tất cả mối lo ngại gần đây về một hải quân Trung Hoa mới tự khẳng định trong những vùng biển quốc tế có tranh chấp, quân đội Trung Hoa chưa bắn một phát súng nào trên chiến trận trong vòng 25 năm nay.
5
"Một thế giới dân chủ hơn sẽ là một thế giới hòa bình hơn?"
Không nhất thiết. Cái nhận xét cũ mèm về những nước dân chủ thật sự hầu như không bao giờ đánh nhau là đúng về mặt lịch sử, nhưng cũng đúng là các nước dân chủ luôn luôn sẵn lòng đánh những nước không dân chủ. Thật ra nền dân chủ có thể đề cao xung đột bằng cách khuếch trương các lực lượng sắc tộc và dân tộc chủ nghĩa của nó khiến các nhà lãnh đạo phải nhượng bộ tình cảm gây hấn để giữ được quyền lực. Cả Thomas Paine và Immanuel Kant đều tin rằng nhưng kẻ chuyên quyền ích kỷ thích gây ra chiến tranh, trong khi người dân thường là người phải chịu chi phí, thì bất đắc dĩ phải đánh nhau. Nhưng hãy thử nói điều đó với các nhà lãnh đạo của một Trung Hoa độc tài đang cố gắng kiềm chế để không khích động một chủ nghĩa dân tộc phổ biến ngấm ngầm chống lại những kẻ thù lịch sử là Nhật Bản và Hoa Kỳ. Dư luận công chúng trong một nước dân chủ ngập ngừng như Ai Cập tỏ ra thù địch với Israel hơn nhiều so với chính quyền độc tài của Hosni Mubarack (mặc dù có thái độ thù địch và thật sự lao vào chiến tranh là hai việc hoàn toàn khác nhau).
Vậy tại sao các nước dân chủ hạn chế các cuộc chiến tranh của họ trong các nước không dân chủ hơn là đánh lẫn nhau? Không ai biết thật sự tại sao. Như Charles Lipson có lần đã châm biếm về khái niệm một nền hòa bình dân chủ "Chúng ta biết nó có tác dụng trong thực tế. Nay chúng ta còn phải xem nó có tác dụng trong lý thuyết hay không!" Lời giải thích tốt nhất là giải thích của các nhà khoa học chính trị Bruce Russett và John Oneal, họ lập luận rằng ba yếu tố - dân chủ, tương thuộc kinh tế (đặc biệt là thương mại) và sự lớn lên của các tổ chức quốc tế - là ủng hộ lẫn nhau và ủng hộ hòa bình bên trong cộng đồng các nước dân chủ. Các nhà lãnh đạo dân chủ tự thấy họ có ít cái để mất hơn trong việc chiến tranh với các chế độ chuyên quyền.
6
"Gìn giữ hòa bình không có tác dụng"
Bây giờ nó có tác dụng rồi Đầu những năm 1990 phát triển mạnh những mũ sắt xanh, với 15 phái bộ gìn giữ hòa bình mới của Liên Hiệp Quốc từ 1991 đến 1993 – bằng số lượng của LHQ trong cả lịch sử đến thời gian ấy. Thời kỳ này cũng tiếp nhận những thất bại ngoạn mục nhất của lực lượng gìn giữ hòa bình. Tại Somalia, LHQ đến với sứ mạng làm nhẹ bớt nạn đói nhưng rồi chỉ để lâm vào một cuộc nội chiến và vội vã rút ra sau khi 18 binh sĩ Hoa Kỳ chết trong một cuộc đột kich năm 1993. Ở Rwanda năm 1994, một lực lượng yếu của LHQ không được sự trợ giúp nào của Hội đồng Bảo an đã hoàn toàn thất bại trong việc ngăn ngừa một cuộc diệt chủng giết chết hơn một nửa triệu dân. Ở Bosnia, LHQ tuyên bố "những khu vực an toàn" cho dân thường, nhưng sau đó khi các lực lượng Serbia lúc đó tràn qua một khu vực như thế, Srebrenica, và hành hình hơn 7000 người và trẻ em trai. (Cũng có những thắng lợi của lực lượng gìn giữ hòa bình, như ở Namibia và Mozambique, nhưng người ta dường như muốn quên chúng)
Để đáp lại, LHQ giao viết một báo cáo năm 2000, do nhà ngoại giao kỳ cựu Lakhdar Brahimi giám sát, xem xét các cố gắng của tổ chức này đã trở nên hỏng như thế nào. Khi đó LHQ đã sắp xếp lại nhân sự của lực lượng gìn giữ hòa bình trên khắp thế giới còn 80 phần trăm, nhưng khi nó bành trướng trở lại thì LHQ thích ứng với những bài học đã học được. Nó củng cố các năng lực kế hoạch và hậu cần và bắt đầu triển khai nhiều lực lượng vũ trang nặng có khả năng can thiệp vào các trận địa nếu cần. Kết quả là 15 phái bộ và 100.000 binh lính gìn giữ hòa bình của LHQ được triển khai trên toàn thế giới ngày nay đang đạt được thành công lớn hơn rất nhiều so với những người tiền nhiệm của họ.
Nhìn chung, sự hiện diện của các lực lượng gìn giữ hòa bình tỏ ra đã giảm được một cách đáng kể khả năng châm ngòi lại những cuộc chiến tranh sau một hiệp định ngừng bắn. Trong những năm 1990, khoảng một nửa số cuộc ngừng bắn bùng nổ trở lại, nhưng trong thập kỷ qua con số này đã giảm xuống còn 12 phần trăm. Và dù cho địa vị của LHQ chỉ như một cái bung xung muôn thuở trong nền chính trị Hoa Kỳ khiến cho ta nghĩ ngược lại, những cố gắng này rất hợp lòng người: trong năm 2007, 79 phần trăm người Mỹ ủng hộ củng cố Liên Hiệp Quốc. Như thế không phải là nói rằng không còn gì phải cải thiện, thật ra còn rất nhiều. Nhưng LHQ đã làm được nhiều việc tốt trên khắp thế giới trong việc ngăn chặn chiến tranh.
7
"Một số cuộc xung đột không bao giờ kết thúc?"
Không bao giờ nên nói không bao giờ. Năm 2005, các nhà nghiên cứu ở Viện Hòa bình đã mô tả đặc điểm các cuộc chiến tranh từ Bắc Ailen đến Kashmir, là "cứng đầu cứng cổ, trong đó họ chống lại mọi loại dàn xếp và giải pháp." Tuy nhiên, sáu năm sau, một sự việc lạ lùng đã xảy ra: tất cả chỉ trừ một vài trong số các cuộc chiến tranh này (Israel-Palestine, Somalia, và Sudan) đã hoặc kết thúc hoặc có những bước tiến cơ bản đến kết thúc. Ở SriLanka, thắng lợi quân sự kết thúc chiến tranh, mặc dầu chỉ sau một tàn cuộc dã man trong đó cả hai bên bị cho là đã phạm những tội ác chiến tranh. Kashmir đã có một cuộc ngừng bắn khá yên ổn. Ở Colombia, chiến tranh tiếp tục một cách lẻ tẻ, được tài trợ bởi nguồn thu nhập từ ma túy, nhưng còn lại ít những cuộc đụng độ. Ở Balkans và Bắc Ailen, những dàn xếp hòa bình yếu ớt đã trở nên không còn yếu nữa, cũng khó hình dung nó có thể trượt trở lại những hoạt động chiến tranh qui mô lớn. Trong phần lớn các trường hợp ở châu Phi, - Burundi, Rwanda, Sierra Leone, Uganda, Cộng hòa Dân chủ Congo, và Bờ Biển Ngà (mặc dù bạo lực lại bùng lên sau những cuộc bầu cử năm 2010, nay đã được giải quyết) – các phái bộ LHQ đã mang đến ổn định và làm cho tình hình khó trở lại một cuộc chiến tranh hơn (hay như trong trường hợp Congo và Uganda, ít nhất đã có vùng chiến tranh hạn chế)
Chúng ta còn có thể làm được tốt hơn nữa không? Nhà nghiên cứu hòa bình đã quá cố Randall Forsberg năm 1997 đã thấy trước "một thế giới nói chung không có chiến tranh" thế giới trong đó "đang biến mất nguy cơ chiến tranh giữa các cường quốc lớn mở ra cánh cửa vào một tương lai trước đây không thể nào tưởng tượng nổi – một tương lai trong đó chiến tranh không còn được xã hội thừa nhận nữa, và hiếm hoi, ngắn và nhỏ về qui mô." Rõ ràng là chúng ta chưa đi đến đó. Nhưng qua nhiều thập kỷ - và tất nhiên kể từ khi Forsberg đã viết những dòng này những qui phạm về các cuộc chiến tranh và đặc biệt về việc bảo vệ thường dân bị kẹt trong các cuộc chiến tranh đã tiến bộ nhanh chóng hơn nhiều so với bất kỳ ai có thể phán đoán thậm chí cách đây nửa thế kỷ. Tương tự, sự chuyển đổi nhanh chóng trong các qui phạm đã đi trước sự kết thúc chế độ nô lệ và chủ nghĩa thực dân, hai tai họa khác mà có lúc đã được coi như những đặc điểm vĩnh viễn của nền văn minh. Vậy cũng đừng ngạc nhiên nếu sự kết liễu chiến tranh cũng trở nên việc có thể nghĩ bàn một cách rõ ràng rành mạch./.