Ủng hộ VCV
Số tác phẩm
28.861 tác phẩm
2.760 tác giả
668
123.243.774
 
Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa,Tiếp cận nhân cách học của Đỗ Lại Thuý
Nguyễn Nhật Ninh


Được đánh giá là "Người sử dụng một mô thức mang tính phương pháp luận khá mới mẻ là bước thử mang tính đột phá quan trọng" (PGS TS Trần Ngọc Vương- Đại học Quốc gia Hà Nội), và "Đi sâu tìm hiểu văn hóa phi vật thể mà tiêu biểu là nhân cách danh nhân văn hóa Việt... mở đầu cho hướng tiếp cận nhân cách học trong ngiên cứu lịch sử" (GS TS Hoàng Vinh- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh).

Ông đã có buổi nói chuyện xung về cuốn sách Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa và những chuyện liên quan đến văn hóa đang diễn ra trong cuộc sống hôm nay.

 

 

- Lý do nào lại khiến ông tiếp cận nghiên cứu văn hoá Việt Nam thông qua mẫu người văn hoá như vậy?

 

ĐLT: Nghiên cứu văn hóa Việt Nam (VHVN) từ mẫu người văn hóa tránh cho tôi được hai cái khó.

1- Khỏi phải nghiên cứu theo kiểu biên niên sử, là kiểu nghiên cứu gần như duy nhất ở ta hiện nay.

2- Tránh được cách hiểu văn hóa như là con số cộng của các thành tố văn hóa của nó. Ví dụ văn hóa Lý- Trần thì sẽ bao gồm kiến trúc Lý- Trần cộng với văn hóa Lý- Trần cộng với mỹ thuật Lý- Trần...

Văn hóa theo tôi là phần giao hội của tất cả mẫu người văn hóa chính, là chìa khóa để mở vào miền đất này.

 

- Nhìn từ mẫu người văn hoá để nghiên cứu, ông chia người Việt thành 5 nhóm: con người làng xã, con người vô ngã, con người quân tử, con người tài tử và con người cá nhân. Trong xu thế phát triển, con người Việt Nam nào trong 5 nhóm kể trên sẽ giảm và con người nào sẽ tăng lên?

 

ĐLT:  Các mẫu người văn hóa như tôi đã trình bày, không phải là nối tiếp nhau trong lịch sử,  mà là gối tiếp nhau. Trong xã hội Việt Nam cho đến nay bao giờ vẫn còn tồn tại cả năm mẫu người văn hóa. Chỉ có điểm khác là, trong thời đại này, mẫu người văn hóa này nổi lên làm yếu tố chủ đạo, còn thời đại khác thì mẫu người văn hóa khác lại nỗi lên làm chủ đạo. Cứ thế, nó thay thế nhau làm chủ đạo chứ không phải thay thế nhau mà tồn tại. Còn khi xã hội Việt Nam phát triển thì cũng chẳng có mẫu người nào mất đi cả, hoặc nếu có mất đi thì cũng còn lâu. Ví như  mẫu người quân tử, tài tử chẳng hạn có thể sẽ thu hẹp lại vì xã hội hiện đại cần chuyên môn sâu và cách làm việc nghiêm ngặt buộc anh phải điều chỉnh. Trong xã hội hiện nay, con người cá nhân tuy chiếm ngôi vị chủ đạo nhưng chưa thực sự vững chắc, nhưng tương lai chắc chắn thuộc về con người cá nhân.

 

- Văn hóa Việt Nam có tính cộng đồng rất cao. Tính cộng đồng "thương người như thể thương thân, một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ...". Xét trong quá khứ và hiện tại cái được và cái mất trong tính cộng đồng là gì thưa ông?

 

ĐLT: Đúng vậy. Văn hóa Việt Nam cho đến nay tính cộng đồng vẫn còn rất cao và là một nét đậm của văn hóa chúng ta. Trong quá khứ tính cộng đồng là một yếu tố làm ổn định xã hội trong thời bình và động viên toàn dân khi có chiến tranh.

Tính cộng đồng làm cho con người thương yêu nhau, giúp đỡ nhau khi có hoạn nạn, yêu sự bình đẳng. Đó là những ưu điểm. Nhưng khi Việt Nam bước vào xã hội hiện đại hóa thì tính cộng đồng bộc lộ những nhược điểm của nó như kìm hãm sự phát triển của quá trình cá nhân hóa và xã hội hóa. Nó cũng đẻ ra tư tưởng cào bằng "cha chung không ai khóc". "của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng" đó là nguồn gốc của tệ nạn tham nhũng hiện nay. Ngoài ra tính cộng đồng còn dung dưỡng thói duy tình, cản trở tinh thần pháp luật và sự xây dựng một nhà nước pháp quyền và một xã hội dân sự.

 

- Trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn văn hóa, văn hóa Việt với các lớp phủ Văn hóa phương Tây, Trung Hoa, Ấn Độ và Văn hóa Bản Địa. Đánh giá của ông trong tương lai Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng nền văn hóa nào nhiều nhất?

 

ĐLT: Văn hóa Việt Nam tự thân là văn hóa mở. Và trong quá trình phát triển nó lại tiếp thu nhiều nền văn hóa khu vực khác như Ấn Độ, Trung Hoa... và văn hóa phương Tây. Trong quá trình rời khỏi nền văn hóa khu vực để nhập vào nền văn hóa thế giới, kể từ đầu thế kỷ 20 đến nay chúng ta tiếp thu văn hóa phương Tây. Bởi lúc này, văn hóa phương Tây có tính hiện đại và tính thế giới, vì nó đã đi trước văn hóa Việt Nam một hai thế kỷ. Tuy hiện nay, văn hóa phương Tây không phải là đại diện duy nhất cho thế giới hiện đại nữa, nhưng nó vẫn là một đại diện tiêu biểu. Bởi vậy trong tương lai, theo tôi, Việt Nam chúng ta vẫn phải tiếp thu, dĩ nhiên như chúng ta thường nói là tiếp thu có trọn lọc nền văn hóa phương Tây.

 

- Phương Tây cũng không phải là tất cả. Trong mấy năm vừa qua, các đài truyền hình chiếu khá nhiều phim Hàn Quốc và đã tác động khá rõ vào đời sống xã hội, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Người ta thấy trên đường phố, trong các thôn xã các kiểu ăn mặc, nhuộm tóc, cử chỉ nói năng nhái Hàn. Vậy đây là xáo trộn văn hoá hay là du nhập văn hóa?

 

ĐLT: Đúng. Phương Tây khôg phải là tất cả, nhưng là bội số chung lớn nhất với những chuẩn mà nhiều nước phải theo.

 Trong quá trình giao lưu và mở cửa hiện nay thì việc tiếp thu văn hóa nước ngoài là chuyện tất nhiên. Văn hóa Hàn Quốc đã đi trước chúng ta về việc hiện đại hóa và thế giới hóa, lại tương đối gần chúng ta về tâm lý và lối sống vì cùng thuộc mẫu văn minh Đông Á. Bởi vậy, nó đã nhanh chóng xâm nhập vào Việt Nam, nhất là ở tầng lớp thanh niên, vì thanh niên là lớp người nhạy cảm và cởi mở nhất trong xã hội. Theo tôi chúng ta cũng không nên quá ngại khi thấy trên đường phố có những hiện tượng "nhái Hàn". Đây chỉ là hiện tượng quá khích, mà quá khích bao giờ cũng chỉ mang tính nhất thời. Cơ chế tự điều chỉnh của văn hóa Việt Nam sẽ nhanh chóng xoá đi những hịên tượng quá khích như vậy để giữ lấy những cái gì tốt đẹp nhất. Nếu coi đây là xáo trộn thì xáo trộn này chỉ ở trên bề mặt nên đừng làm gì để nó ảnh hưởng đến sự du nhập văn hóa là cái mà văn hóa muốn phát triển khôg thể không có.

 

-  Hội nhập, hòa nhập được nhắc khá nhiều trong thời gian qua, nhiều đến mức có cảm tưởng đôi khi người ta quá lạm dụng khái niệm đó, có nguy cơ làm mòn nghĩa của nó đi. Ông nghĩ thế nào về vấn đề này? Theo ông nên dùng từ nào thì đúng hơn? "Hòa nhập chứ không hòa tan" nó có bao nhiêu nghĩa và thể hiện căn tính người Việt ở cấp độ nào? Chúng ta đã hòa nhập chưa và "hòa tan được" liệu có phải là cách tốt hơn?

 

ĐLT:  Ở ta bất cứ một cái gì đúng đắn, có giá trị là tức khắc trở thành mốt. Ai ai cũng dùng. Dùng nhiều quá mà nhất là không đúng chỗ, thì trở nên nhàm. Đã nhàm thì gây hoài nghi về sự đúng đắn của nó. Hội nhập, hòa nhập cũng vậy, rơi vào tìh trạng tương tự. Nhưng không vì thế mà chúng ta không dùng. Cái mốt sẽ tan đi và sự đúng đắn sẽ trở lại với nó.

Hội nhập, hòa nhập theo tôi từ nào cũng được, miễn là phải dùng những từ ấy với nghĩa thực của nó chứ không phải như một sáo ngữ. Hội nhập làm cho nghĩ đến hiện tượng trăm sông đều đổ ra biển. Các văn hóa quốc gia dân tộc sớm muộn thì cũng phải hội nhập vào đại dương của văn hóa nhân loại. Nhưng hội nhập như thế nào? Đó là hòa vào nhau, hòa nhập với nhau mà vẫn không mất nét riêng của mình, thậm chí càng giữ được nét riêng thì sự hòa nhập càng chặt chẽ bởi nó bổ sung cho nhau. Còn hoà nhập mà đánh mất cái riêng của mình thì là hòa tan. Hoà nhập giống như người quân tử "hòa mà không đồng", còn hòa tan giống như kẻ tiểu nhân "đồng mà không hòa".

 

- Thế giới càng nhất thể hóa bao nhiêu thì vấn đề sắc tộc càng nổi lên bấy nhiêu. Để bảo vệ cái riêng của mình, chúng ta phải làm gì?

 

ĐLT: Tôi muốn dùng chữ toàn cầu hóa để thay để thay thế cho chữ nhất thể hóa, mặc dù hai chữ này có phần trùng nhau. Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu của sự phát triển. Bởi vậy, nếu chúng ta nhận thức được sự tất yếu ấy để tham dự vào nó thì chúng ta giành được sự chủ động để mà chuẩn bị các điều kiện của mình. Còn nếu chúng ta cưỡng lại nó thì chúng ta sẽ bị nó cuốn đi một cách bị động. Đúng là trong toàn cầu hóa có một số cái riêng không bản chất, cái riêng bề ngoài, còn cái riêng căn cốt, nhất là trong lĩnh vực văn hóa của chúng ta thì sẽ không bị mất đi. Bởi một mặt, chúng ta chủ động và có ý thức giữ gìn nó, và mặt khác nếu toàn cầu hóa gây ra xu hướng ngược lại là cá biệt hóa, tức là bảo vệ lấy cái riêng của văn hóa tộc người, văn hóa dân tộc để bảo vệ sự đa dạng văn hóa nhân loại.

 

- Đọc tác phẩm của ông, đặc biệt ở những phần nói về các mẫu người văn có cảm tưởng ông nghiêng về phía phê bình văn học, mà phương pháp nghiên cứu văn hóa xưa nay ít người làm thế. Vậy theo ông đã khách quan chưa?

 

ĐLT:  Trong văn hóa Việt Nam cổ truyền thì văn học bao giờ cũng là yếu tố trội. Nghiên cứu mẫu người văn hóa tức nghiên cứu thứ văn hóa đã trầm tích trong tâm thức của con người. Bởi thế, nếu tôi có lẩy những người văn học ra làm dẫn liệu thì cũng là chuyện bình thường. Hơn nữa, trong công trình này, văn học nếu có bao giờ cũng chỉ là điểm xuất phát chứ không phải là đích đến của tôi. Mong bạn đọc không hiểu lầm.

 

- Chỉ bằng ngần ấy mẫu người đã đủ gọi lên bản sắc văn hóa Việt Nam chưa?

 

ĐLT: Từng ấy mẫu người văn hóa là chưa đủ. Tôi còn muốn viết thêm về mẫu người huyền thoại mà ở Việt Nam tiêu biểu là con người thần linh. Mong sao khi tái bản sẽ có phần bổ sung.

 

- Xin cảm ơn ông!

Nguyễn Nhật Ninh
Số lần đọc: 2377
Ngày đăng: 16.10.2006
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm Góp ý Gửi cho bạn
Cùng thể loại
Nhà văn Bích Ngân: Cái khó là nuôi dưỡng được cảm xúc - Hoàng Danh
TRÒ CHUYỆN VỚI NHÀ THƠ LÊ MINH QUỐC - Huỳnh Kim
Phỏng vấn Nhà văn Bùi Anh Tấn : Vụ án ÁN NĂM CAM và HÀNH TRÌNH CỦA SÓI - Trần Hữu Dũng
Nhà thơ Hoài Anh lần đầu tiên trình làng “Tuyển tập truyện lịch sử”(*) - Nguyễn Tý
Tạo “thương hiệu” bằng tác phẩm - Nguyễn Tý
Tiến sĩ sử học, Nhà nghiên cứu tôn giáo Pascal Bourdeaux : “Nghiên Cứu Quê Ngoại” - Lý Đợi
Nếu nụ cười kèm theo giọt nước mắt... - Ngô Thị Kim Cúc
Văn chương mạng và những ảo tưởng của người viết - Phan Huyền Thư
Đinh Linh :”Ngôn ngữ không thuộc về ai cả” - Lý Đợi
Nhà thơ Bùi chí Vinh - Trần Hoàng Nhân