Đêm Cà Mau
Tưởng tượng có người nhận ra anh
Giữa một chốn ồn ào xa lạ
Lời hoa mỹ giăng màn đêm óng ả
Vẫn không ngăn gió cuốn trước tia nhìn
Có nghĩa là - như hiển hiện trong đêm
"Anh có phải…" lời bên tai thầm thĩ
Đêm trần trụi như không hề che đậy
Trái tim ta như sống dậy …lâu rồi
Tôi đã đi nơi cuối đất cùng trời
Để tìm gặp - tưởng chừng như có thể
Một tiếng gọi vang lên trong lặng lẽ
Một nét nhìn như tự cõi hư vô
Em là ai - tôi không biết từ đâu
Một thoáng hiện rồi đi, tan biến mãi
Cho trĩu nặng lòng tôi khi nhớ lại
Đêm Cà Mau đêm Cà Mau đêm rất lâu.
( 1988 )
Trời Bữa Ấy
Trời bữa ấy mây trôi từng đợt
Từng đợt mây từng đợt nắng sương mù
Gió lay cửa, hoa quỳ vàng bất chợt
Thược dược hồng trong tiếng nhạc thiên thu
Em ở xa, anh muốn nói bao điều
Đột ngột nắng, đột ngột trăng mờ nhạt
Đột ngột những hoa kèn trổi khúc
Giấc mơ tan, đột ngột dáng em về.
( 1988 )
Tù Và
Tiếng tù và năm xưa
Theo em về núi thẳm
Bàn tay nào đong đưa
Trên chiếc nôi ngày tháng
Tôi nhìn theo bóng ráng
Vừa lượn xuống chân trời
Thấy em tự bao đời
Với bầy trâu trong khói
Hôm qua trâu rống gọi
Tiếng vang xuống ruộng đồng
Rụng lá tre vàng mục
Vương muôn dây đàn chùng
Hôm kia tôi khăn gói
Theo bóng trăng lên đường
Cửa nhà xưa trao gởi
Cho bóng mây giữ chừng
Bầy trâu giờ rong chơi
Người em vành nón cũ
Che khuất cả mặt trời
Hiện nơi nào trong núi
Khi mặt trời tắt rụi
Lay lắt bóng tro tàn
Là em cũng đang tan
Hiện nguyên hình cát bụi
Tiếng tù và vẫn thổi.
( 1974 )
Cám Ơn
Anh làm thơ cảm ơn em
Cảm ơn cái dáng dịu hiền em đi
Cảm ơn đôi mắt thầm thì
Cảm ơn mái tóc đôi mi biết buồn
Cảm ơn đôi vú em tròn
Để đêm trái đỏ chín vườn chiêm bao.
( 1984 )
Võ Phiến bảo trong tâm hồn một số văn thi nhân Bình Ðịnh có nét “u huyền” khó hiểu. Ông “mời họ ra cho ai nấy thử tìm hiểu”. “Họ” đều đã nổi tiếng, trừ một người, người trẻ nhất. Vì trẻ, người ấy thuộc vào “Văn Học Miền Nam”(1). Ðây lời mời nhà thơ Võ Chân Cửu...
(Thu Tứ)
(1) Nhan đề bộ sách nhận định về văn học Miền Nam của Võ Phiến.
Thơ Võ Chân Cửu
Hoài Thanh nhân đọc Yến Lan nhận thấy các nhà thơ Bình Ðịnh (Yến Lan là người Bình Ðịnh) thường bị vầng trăng ám ảnh.
Quả cái vầng trăng ở bến My Lăng nọ là một kỳ bí. Trăng ấy gây bất an, gây đến sợ hãi. Không riêng trăng My Lăng mà thôi. Từ trăng của Yến Lan, trăng động Chua Me ở Sa Kỳ hay trăng đầy miệng của Hàn Mặc Tử, “trăng ma lầu Việt” của Quách Tấn, cho đến những “trăng ghì trăng riết cả làn da” của Chế Lan Viên..., tất cả đều là thứ trăng quái đản, làm ta rợn cả người.
Nhưng bảo rằng ở Bình Ðịnh chỉ có cái trăng là đáng khiếp, không đúng. Có trăng, lại có ma: ma lầu Việt, ma Hời, và yêu tinh, và quỉ quái... Và cả những khi không có ma quỉ gì ráo, chỉ có mấy chiếc lá rơi, thi nhân Bình Ðịnh cũng dựng nên cảnh hãi hùng:
“... Ai đổi đầu lâu trong nấm mộ
Tiếng khua vang rạn khớp đầu ta?
Có ai rên rỉ ngoài thôn lạnh
Như tiếng xương người rên rỉ khô?
Mơ rồi! Mơ rồi! ta mơ rồi!
Xạc xào chỉ có lá vàng rơi
Quanh mình bóng tối mênh mang cả
Thấp thoáng đôi hồi lửa đóm soi.”
(Mơ Trăng - Chế Lan Viên)
Chỉ có sao in đáy giếng, thi nhân Bình Ðịnh cũng ghê người:
“Sao ở đâu mọc lên trong đáy giếng
Lạnh như hồn u tối vạn yêu ma?”
(Ta - Chế Lan Viên)
Chỉ có đám mây in hình xuống dòng nước, thi nhân Bình Ðịnh trông thấy cũng làm ta nổi da gà:
“Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cõi vô biên.”
(Thơ Ðiên - Hàn Mặc Tử)
Vậy đó. Cho nên sau này có những người lấy làm nghĩ ngợi về cái con người ở vùng đất này. Vâng, cái lạ lùng là của người, chứ không phải của trăng của ma. Không phải riêng trăng có sức ám ảnh như ông Hoài Thanh đã nói, mà cái gì cũng ám ảnh được người Bình Ðịnh: cái lá, cái sao, đám mây v.v. Mọi thứ, kể từ những thứ hiền lành nhất.
(...)
Võ Chân Cửu (...)
Này xem: Xa làng lâu ngày, một hôm trở về ông thấy núi thấy mây ở quê mình:
“Bỗng nhiên lạnh cả hồn tôi
Khi trông thấy dáng núi ngồi co ro
................................................
Mười năm làng cũ không về
Ðăm đăm mây trắng lê thê mái đầu.”
(Ðăm Ðăm Mây Trắng)
Trên đất nước này, bạn có từng bắt gặp cái núi ở nơi nào nó ngồi như vậy không? Bạn ngờ rằng thứ núi co ro đáng hãi nọ ngẫu nhiên là đặc cảnh địa phương chăng? Không phải vậy đâu. Không cần nhìn cảnh làng mình Võ Chân Cửu mới thấy ra vậy; ngay lúc đi giữa thành phố Sài Gòn ông cũng thấy những cái khó có người thấy:
“Ngã ba ngã bảy xe đi khuất
Cơ khí xen cùng nhịp gió mưa
Tiếng ma thiên cổ vong u uất
Vắng lặng buồn xo suốt bốn mùa.”
(Sài Gòn)
Những mây lê thê, những ma thiên cổ nọ là ở trong hồn người, không ở ngoài cảnh vật. Trong tâm hồn chàng thi sĩ trẻ tuổi người Bình Ðịnh cách xa trường thơ “loạn” một thế hệ, vẫn cứ còn chất chứa đầy những “hư huyền, âm u”.
Cái gì đã phủ xuống cuộc sống tâm linh của nơi này màn u huyền ấy? Tôi không hiểu nổi đâu, không dám lạm bàn tới đâu. Có lúc tôi thấy quanh mình toàn thị những bà con chất phác thàn hậu. Có lúc khác lại đối diện với những con người quằn quại dị thường. Biết nói sao, ngoài việc mời họ ra cho ai nấy thử tìm hiểu, suy nghĩ?
1 - 1993
(In trong bộ Văn học Miền Nam, phần Thơ)