Mặc dù du ký luôn là thể loại sách văn học thuộc loại được yêu chuộng nhất ở nước Anh, những cuốn sách du ký thuộc loại hàng đầu lại phải dành chỗ cho nhà báo người Ba Lan Ryszard Kapuściński. Suốt cả chục năm liền thời Ba Lan cộng sản, ông là phóng viên nước ngoài duy nhất của hãng thông tấn nhà nước PAP, tức là cùng lúc thường trú ở tất cả các nước trên thế giới. Trước ông cũng chưa có ai làm nghề này cho nên tất cả những gì làm nên sự nghiệp của mình đều do Kapuściński học từ các đồng nghiệp từ đủ mọi nước, và quyển sách từ 2.000 năm trước vừa dịch sang tiếng Ba Lan được người quản lý tặng trước ngày lên đường - quyển Lịch sử của Herodotus.
Trước hết, sách du ký của Kapuściński hấp dẫn là vì cấu trúc kể chuyện đậm chất nhà báo Anh Mỹ - đầu tiên phải là mô tả thời tiết. Trong các bài dạy kỹ năng viết báo theo phong cách này người ta luôn nhắc các nhà báo tương lai hãy mô tả thời tiết ở nơi mà anh/chị đang đứng gửi phóng sự về. Ngài tổng thống bước ra cửa máy bay trên nền trời tuyết rơi hay mưa bão, cửa sổ khách sạn nắng chói chang hay sấm chớp, đoàn đua xe đạp thả dốc trong sắc vàng thu sang hay xuân hè rực rỡ v.v. Quyển du ký vê châu Phi của ông bắt đầu đúng như vậy, tả ánh sáng chói chang khắp mọi nơi ở Ghana năm 1958. Thế nhưng không chỉ có thế, như bản dịch tiếng Anh do NXB Penguin tái bản năm 2002 trích lời W.F. Deedes điểm sách trên tờ Daily Telegraph, "Kapuściński đã chuyển thể báo chí vào thành văn chương trong tác phẩm về châu Phi" này. Mặt trời chói chang ở đây không chỉ đơn giản là một cảnh tượng, mà là một câu chuyện về thế giới, nơi mà con người ta nhờ có máy bay mà sẽ đột ngột bước vào từ mùa thu mưa ẩm London để bước ra giữa vùng xích đạo, để suy tưởng về thế giới với chưa đầy 10% dân số sống ở phương Bắc còn lại đa số và ngay cả Adam và Êva nơi vườn địa đàng cũng đều phơi thân thể dưới ánh nắng mặt trời chói chang của phương Nam.
Tiếp nữa, tác giả viết sách không phải để khoe kiểu như là tôi đã đến đó, tôi đã chứng kiến cảnh đó, và tôi đã học được điều này điều nọ. Tác giả kể lại những cuộc gặp của mình với người dân ở đó, một cậu bé bên đường, một người phụ nữ Hồi giáo trùm khăn kín mặt, hay một ông bộ trưởng trẻ tuổi ham mê chụp ảnh. Nhưng không chỉ đơn giản là một cuộc gặp, mà là những quan sát của một người đến từ thế giới bên ngoài đối với cuộc sống, với các mối quan hệ giao tiếp, với nhân sinh quan của nhân vật trong thế giới hàng ngày của anh/chị ta. Và còn hơn vậy, là cả những cảm giác, những trải nghiệm của bản thân ở trong thế giới đó, như một người da trắng trong thế giới phân biệt chủng tộc, người da đen không được dạo chơi không có mục đích trong khu của người da trắng, và cảm giác của người xứ thuộc địa với "bọn da trắng đế quốc", bất kể ông đã cố gắng giải thích với họ rằng Ba Lan cũng từng là một nước thuộc địa. Kapuściński không còn là một nhà báo bình thường, và cũng không phải là một nhà văn bình thường, khi phải so sánh, đối chiếu, phải phơi bày bản thân, và nhất là phải đọc cả những tác phẩm nhân học viết về cùng khu vực ông đang đề cập tới, như E.E. Evans-Pritchard về người Nuer, M. Gluckman về người Zulu, hay G.T. Basden về người Ibo. Có lẽ đây chính là ảnh hưởng của Herodotus lên Kapuściński, vì tác phẩm Historia cũng được coi là bài văn mẫu đâu tiên cho ngành nhân học trên thế giới.
Và có lẽ đó là sự khác biệt giữa một nhà báo bình thường và Ryszard Kapuściński, mà cũng chính cây bút điểm sách trên tờ Daily Telegraphy vừa kể W.F. Deedes đã nhận định "đã tiếp cận với cuộc sống châu Phi hơn đa số các nhà báo phương Tây từng mơ ước". Đơn giản có những thứ mà một người phương Tây phải chấp nhận làm theo mà không cần phải hiểu, để rồi sẽ hiểu nhiều hơn, như là một chương sách mà Kapuściński dành riêng chỉ để kể về chuyện căn hộ của ông ở Lagos thường xuyên bị trộm. Một người địa phương tên là Suleiman giải thích "đây hoàn toàn bình thường, ăn trộm là hình thức làm giảm sự cách biệt, và thậm chí là điều tốt vì đó là tín hiệu họ chấp nhận sự có mặt của ông, và là dấu hiệu của an toàn". Và một ngày, ông ta đưa nhà báo người Ba Lan ra chợ mua một mớ lông gà đã được làm phép, về treo trên cửa, và sau đó không còn ai vào nhà ăn trộm đồ nữa. Người viết du ký vừa là nhà báo tường thuật lại những gì mình đã chứng kiến, vừa là nhà văn hiện thực phê phán để sắp đặt lại những trải nghiệm của bản thân, và nhà nhân học hay là người phiên dịch giữa các nền văn hóa, đồng thời cũng phải là một người lữ hành có kinh nghiệm, biết để lại những cột mốc chỉ đường cho những ngươi đi sau. Nếu bạn cảm thấy trách nhiệm và muốn làm một người như vậy, thì các quyển sách của Ryszard Kapuściński là những bài văn mẫu đáng tìm đọc.
Tác phẩm Heban qui tụ các phóng sự từ châu Phi (Ghana, Etiopia, Nigeria, Tanzania) trong hơn 10 năm từ 1958 đến cuối thập niên 1960s, được xuất bản bằng tiếng Ba Lan năm 1998, Klara Glowczewska dịch sang tiếng Anh và Pinguin xuất bản năm 2001 vớ tựa đề The Shadow of the Sun - My African Life. Độc giả quan tâm đến Ryszard Kapuściński có thể tìm đọc tập sách đã được Thái Linh dịch trực tiếp từ tiếng Ba Lan sang tiếng Việt, NXB Văn hóa SG phát hành năm 2008 - Du hành cùng Herodotus [1].
[1] Các bài giới thiệu sách tại http://evan.vnexpress.net/News/diem-sach/2009/01/3B9AE2B2/ hoặc trang blog của dịch giả http://liliapl.blogspot.com/2009/04/du-hanh-cung-herodotus.html, mua sách tại http://www.vinabook.com/du-hanh-cung-herodotus-m11i32163.html