Tác động của chữ Tài và chữ Mệnh từ thân phận làm người của Kiều
Một ngày của kiếp con người
Đoạn văn kế tiếp mô tả hai sự kiện: ngày hội Đạp Thanh và cuộc gặp gỡ giữa Kiều và Đạm Tiên.
Tác giả vận dụng kỷ thuật văn chương để diễn tả hai khung cảnh có thời gian - không gian bên ngoài khác nhau:
-
Ngày hội là cảnh ngày gắn liền với ánh sáng rực rỡ của Mặt trời. Không gian là sân khấu của các niềm vui chung đụng, dù có cảnh buồn của lễ Tảo mộ, dù có "thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay". Ở cảnh ngày nầy có sự tập họp của nhiều thành tố, thiên nhiên, đoàn lũ, vật dụng như ngựa xe...xa gần, sống chết..., nhưng trong giòng nước dập dìu, nô nức đó không thấy ai gặp ai (từ câu 39-50).
-
Thế giới gặp gỡ có thời gian tượng trưng là buổi tàn của ngày "chiều chiều bóng ngã về Tây". Không gian là con đường về nhỏ hẹp "ngọn tiểu khê..., nhịp cầu nho nhỏ..., nấm mồ, ngọn cỏ" với những nét riêng biệt của mỗi vật thể. Không gian của con người không phải là sự chung đụng, tập họp, nhưng mỗi người như cách biệt nhau: "chị em thơ thẩn dan tay ra về". Giới hạn hay khoảng cách không gian của sự vật lại đi kèm với cảm xúc về một sự gần giũi ẩn kín của một ai. Trong cảnh nao nao, buồn đó (Mà sao hương khói vắng tanh thế mà! - câu 59) có những sự hé lộ đáng lưu ý:
-
Cảm thức buồn của Kiều và sự vô tâm của Thúy Vân:
Lòng đâu sẵn mối thương tâm (câu 81)
Vân rằng: chị cũng nực cười (câu 105).
-
Kiều mở ra với nỗi khổ chung của mọi người và của thân phận thâm sâu của con người.
Đau đớn thay , phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
(câu 83-84).
Rằng hồng nhan tự nghìn xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
(câu 107-108)
-
Con người gặp con người, mở ra tình "chị em":
Hữu tình ta lại gặp ta
Chớ nề u hiển, mới là chị em (câu 127-128)
Toàn bộ tiểu đoạn nầy bắt đầu từ câu 51 và kết thúc ở câu 132.
Cả hai thế giới, tuy được diễn tả qua những hình ảnh khác nhau, lồng vào khoảng thời gian khác nhau, nhưng chúng tượng trưng cho những đối lực Tài - Mệnh của một ngày của nghiệp làm người. Sự kiện trùng hợp giữa các đối lực (coincidentia oppositorum) xuất hiện trong thắc mắc của Kiều:
Rằng: "Sao trong tiết Thanh minh
Mà sao hương khói vắng tanh thế mà? (câu 59-60).
Nếu đoạn đầu (từ câu 9-38), cuộc tương tranh giữa tài và mệnh được diễn tả trong khả tính của thân phận con người, thì ở đoạn nầy phác họa một "cõi người ta toàn diện" với tượng trưng có tính cách phổ quát và rốt ráo. Mấy chữ cuối của câu thơ cuối đoạn: "bài cổ thi", có giá trị như một lời sấm phát xuất chân tính mặc khải hết về thân phận con người tại thế: "Gốc cây, lại vạch một bài cổ thi".
Như thế, nội dung chữ Tài được diễn tả ở đây là những nội dung nào?
Đạp bằng được mọi khoảng cách gọi là tự nhiên, như thiên nhiên đối với con người, con người với nhau, con người với vật dụng, cõi chết và cõi sống..., Tài là một khả năng tổng hợp để tạo một thế giới với những đặc điểm:
-
Tổng hợp tất cả các đối vật thành một tất cả, tính theo lượng số.
-
Mọi sự vật đã được bao bọc ổn cố trong ánh nắng của ban ngày. Mặt trời như đã xuất lộ từ hồi nào, một sự kiện hiển nhiên, không cần được ý thức và nhắc đến như một thắc mắc phải tra vấn.
-
Mọi sự vật, biến cố đều hàm ngụ trong âm hưởng của ngày hội, vui hoặc đã được biến thành niềm vui.
-
Song song với tổng hợp thành một thực thể đồng nhất nầy, mọi sự vật đều được tập trung, trừ cảm thức về thân phận con người. Hoặc nói theo ngôn ngữ triết học hiện đại đây là thế giới đã được khách thể hoá thành đối vật (monde objectivé). Và Tài có thể gọi là tiến trình đối vật hoá vũ trụ (l'objectivation du monde).
Và chữ Mệnh ở đây được diễn tả qua những nội dung nào?
Mệnh xuất hiện trước hết như cảm thức về sự xa cách và giới hạn:
Mặt trời được nhắc đến. Hình ảnh tượng trưng ở đây không phải là cảnh bình minh, con người chờ tiếp nhận ánh sáng, dù mặt trời chưa mọc và đang chờ đón mặt trời. Nhưng mặt trời đã ngã về Tây, cũng trong nội dung của hình ảnh tượng trưng trên, nghĩa là mặt trời đã khuất, chỉ còn lại ánh dọi của nó. Nhưng đặc điểm của lối nói nầy như hàm ngụ sự vắng bóng mặt trời lại có phần lỗi của người ở trong. Lỗi theo nghĩa "tội nguyên tổ" hay "tiền khiên" trong nội dung: Kiếp trần, biết dũ bao giờ cho xong? (câu 2930). Lỗi được qui cho kiếp trần vì mặc lấy khả tính lầm lạc. Dostoievski gọi đó là gánh oan nghiệt của tự do. Nhưng nhận thức buổi chiều tà, đúng là trực giác nguy cơ về sự xa cách, ly biệt với Mặt Trời (hay Chân tính), hoặc nói theo lối nói của Heidegger là sự "rút lui của Chân tính" ngay khi Chân tính hé lộ ra trong hiện sinh; sự rút lui, ẩn dấu, khước từ hay siêu việt lại là lời nói nguyên sơ của Chân tính nhắc nhở con người quay lại với thân phận chân thực của mình.
Từ trực giác xa cách với Chân tính, con người nhận ra hữu hạn tính với năng lực riêng của nó. Nó từ chối thế giới an bình, ổn cố, tự nhiên - di nhiên cũ, cũng như cả sức tổng hợp để quán xuyến tất cả, vô biên giới của chữ Tài, để thấy sự cách biệt trong các mối tương giao: người với đất, người với người.
Chị em thơ thẩn dan tay ra về (câu 52).
Nao nao dòng nước uốn quanh
....
Sè sè nắm đất bên đường
Dàu dàu ngọn cỏ, nửa vàng nửa xanh (các câu 55, 57-58).
Nhưng chính cảm thức hữu hạn đó cũng cống hiến nhận thức tính cá biệt của mỗi vật, mỗi người, đặc biệt là mở ra chân trời của thế giới người mà chân tính của nó ẩn dấu đằng sau "hồng nhan", nghĩa là hình hài bên ngoài như một sinh vật trong thiên nhiên mà thôi.
Nguyễn Du đã dùng hình ảnh văn chương của một kẻ đã chết, (Đạm Tiên) lại là một phụ nữ, để gợi lên cái gì vượt lên khả năng của "dục vọng con mắt" hay khả năng nhận thức sự vật; Đạm Tiên ấy là tượng trưng cho Chân tính siêu việtcủa con người tại thế.
Khổ cứu độ
Khổ, đau, buồn là những từ ngữ được lặp đi lặp lại trong tiểu đoạn nầy. Vượt lên trên cảm giác có tính cách tâm lý được dùng như là những hình ảnh văn chương, Khổ là một lối nói cô động về cảm thức thân phận con người trần thế nhằm diễn tả sâu sắc, cắn vào da thịt hay toàn bộ cuộc sống. Cảm nhận được các tương quan mở ra như là những chiều kích kết dệt nên nhà của nhân tính, nhưng đồng thời cũng cảm nhận hữu hạn tính của phận mình; hữu hạn vì đang xa cách, đồng thời có thể mãi làm cho xa cách. Làm sao có thể đạp đổ cái khung hữu hạn tính gắn liền với phận mình! Một vòng quay phi lý và bế tắc! Đó là nội dung cô động của "khổ" trong truyện Kiều, trùng hợp với chữ "khổ" trong nhà Phật hay "khổ nạn" của Kitô giáo.
Vấn đề đặt ra ở đây là ý thức hay trực giác về khổ, tự nó có phải là phương thuốc rốt ráo để giải phóng con người một cách dứt khoát, tân tạo hay tái lập những tương quan Đất - Trời - Người chân thực hay không? Trước hết chữ Tự mình hàm ngụ rằng con người là một thực thể cô độc, hay "ngã chấp", vật thể không tương quan đó chỉ nằm trong ngôn ngữ của chữ Tài và thế giới của nó. Trực giác về chân trời của "cõi người ta" gắn liền với việc thiết định chân tính như những tương quan. Nên tự giải phóng, dù quan niệm như một cố gắng tìm tự do cá nhân, hay hạnh phúc tập thể, ngay cả cho toàn nhân loại, dựa trên chính việc làm "tự mình" của cá nhân hay tập thể như thế, đều mâu thuẫn với yêu sách của nội dung chữ khổ, mà con người cảm nhận và muốn thoát ra. Lịch sử nhân loại với những bước tiến về văn minh và kỹ thuật, cũng như những giải pháp canh tân xã hội đã chứng thực rằng hoàn cảnh sống của con người thoải mái và tiến bộ hơn. Nhưng trong bản văn nầy của Đoạn Trường Tân Thanh, tình trạng con người nhắc đến để thực hiện một mẫu mực xã hội tốt đẹp theo "ý mình", cảnh vực thiên đàng trần thế bên ngoài đó, một mặt, tự nó, không có gì làm cho con người vui hay buồn, vì chưa đi vào cảnh vực của lời tra vấn về chân tính như các mối tương quan. Mặt khác, nếu nó đi vào lời tra vấn của Chân tính, nghĩa là hàm ngụ sự đánh giá về sức cố gắng của con người để hoàn thành nhân tính mình như những tương quan, thì bất cứ hoàn cảnh nào xảy đến cũng gắn liền với câu chất vấn ngược lại của mệnh, và nỗi khổ bấy giờ lại xuất hiện: nỗi khổ nầy không tha cho kẻ giàu hay nguời nghèo, thông minh hay ngu dốt, lành mạnh hay bệnh tật, lạc hậu hay tân tiến...
Rằng hay thì thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào! (câu 489-490).
Còn ngậm đắng nuốt cay, vì không ai, không thời nào con người tự mình gỡ được cho mình thân phận làm người tại thế gắn liền với nỗi khổ nầy cả!
Nhưng điều làm ta ngạc nhiên là, trong Đọan Trường Tân Thanh, và ngay đoạn nầy, dường như có mở ra một ngưỡng cửa về sự giải thoát hay đúng hơn là duyên cứu độ. Và điểm nầy là dấu quan trọng nhất để nhận ra sự khác biệt căn cơ giữa các nền nhân bản thuyết, thường được hiểu và được phổ biến hiện nay khi nhắc đến chữ nầy, và lối tra vấn về Chân tính của con người tại thế trong tư tưởng của Nguyễn Du.
Sự giải thoát hay chính từ ngữ đó, cũng rất hiếm hoi trong ngôn ngữ truyền thống triết học Tây phương. Gần đây và chỉ rất gần đây, đặc biệt sau triết học của Hegel, triết gia đã dùng những hứng khởi từ Kitô giáo để đưa ý niệm nầy vào trong tư tưởng triết học, đồng thời chuyển đổi nội dung chữ cứu độ thành tự cứu thoát hay giải phóng. Phong trào nhân bản dấn thân tiếp theo Hegel và Karl Marx lại phổ biến rộng rãi ý tưởng đó trong sinh hoạt xã hội và chính trị.
Văn hoá Trung hoa, đặc biệt Khổng hay Lão, ngay cả các Kinh như Kinh Dịch, Kinh Thư mô tả rất rõ sự xa cách giữa Chí Thiện, Đạo với thực trạng của nhân sinh. Nhưng lạ thay để lấp trống khoảng cách nầy thì vấn đề nêu lên khá đơn giản:
Sách Trung Dung nói rằng:
Trên không oán trời, dưới không trách người. Nên người quân tử sống bình dị để theo Mệnh. Còn tiểu nhân làm liều để cầu may. [1]
Theo Mệnh và Mệnh là Thiên mệnh, một cái gì vượt trên sức con người, xem ra như chữ nói đến việc vươn tới, mà không lý đến việc có đạt được hay không.
Còn Đạo Đức kinh thì viết:
Đồng với Đạo, thì Đạo vui mà nhận
. . . . . . . .
Đồng với sự mất Đạo, thì mất Đạo cũng vui tiếp.. [2].
Cả hai Nho cũng như Lão có gợi lên sự xa cách do tự nơi hành vi của con người và lạc quan về con đường đi đến hoặc trở về với Đạo. Ít nhất nơi tư tưởng Trung hoa Nho - Lão đã bỏ sót bên lề thân phận Nữ Oa đội đá vá trời một cách tuyệt vọng!
Phần Nguyễn Du trong câu kết dùng lại rất nhiều những từ ngữ của nhà Nho như "trách Trời gần, trời xa, thiện căn, Tâm, Mệnh", nhưng qua câu truyện Kiều, với nội dung Mệnh gắn liền với khổ lại gần với tư tưởng bi kịch về thân phận con người của bi kịch Hy lạp, tư tưởng nhà Phật và Kitô giáo hơn.
Trong bi kịch Hy lạp, đặc biệt trong bản văn Oedipe làm vua của Sophocle, khổ gắn liền với thân phận làm người khi Oedipe thấy thế giới của tài trí đã cắt đứt tương quan với Cha Trời, đã buộc Mẹ Đất phải thắt cổ tự vẫn vì tội vô luân do con người mang lại. Con đường đi lui không còn, và tới cũng không tìm ra một sinh lộ nào. Khổ chỉ mở ra được Chân tính của thực tại con người tại thế như một bế tắc, hàm ngụ một lời kêu cầu. Nhưng dù sao nhận thức được chân tính của thân phận con nguời tại thế tại thế như một kẻ mù (Oedipe đâm mù hai mắt tượng trưng cho ý thức về sự giả ảo của Tài) và là một kẻ lưu lạc (Oedipe tự đày đi biệt xứ).
Nơi nhà Phật mà Nguyễn Du múc lấy nhiều hứng khởi, thì có hai nội dung chính về con đường giải thoát liên quan đến khổ. Nhận rõ thân phận con người tại thế là khổ cũng đã đồng nghĩa với giải thoát. Câu đó nghĩa là gì? Dục, Ngã, thế giới của Karma hay Tài có tương liên với nhau và cùng ở trong một trật tự, trật tự của mê lầm. Nhận thức được khổ hàm ngụ hai điều: ngộ hay gặp Chân tính không thể diễn tả, đồng thời là bước qua hay chết đi cảnh vực cũ trong đó là Dục và Ngã. Làm sao ngộ được Chân tính, nhà Phật dùng chữ Duyên, được Nguyễn Du lặp lại nguyên tự trong hình ảnh tượng trưng là Giác Duyên.. Một biến cố bất ngờ xảy đến, không do tự tính toán hay tài sức con người. Sự giải thoát như duyên đưa vượt qua một cảnh giới mới, nên còn gọi là cứu độ. Trong Kitô giáo, bất cứ trang nào của Thánh kinh cũng đều qui về nỗi khổ của con người và sự cứu độ của Thiên Chúa. Nhưng duyên trong nhà Phật ở đây lại là tình thương của Thiên Chúa hiện thân trong cơn đau khổ cùng tột của Con Ngài là Đức Kitô. Con Người Kitô đó đã thể hiện nỗi khổ là chết mình đi và được đưa vào bờ bến của sự sống lại.
Sức mạnh cứu độ trong Kitô giáo phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa, nhưng tình yêu đó cứu độ khi có sự chết đi để được đưa vào sự sống chân thật.[3]
Trong ý nghĩa của chữ khổ là nghiệp con người tại thế, Đạm Tiên là chân tính ẩn dấu sẽ lên tiếng mời gọi con người:
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển mới là chị em (câu 128-129).
Chữ hữu tình ở đoạn gặp Đạm Tiên nầy, hàm ngụ trong cảnh "khổ" như trên đã trình bày. Đạm Tiên tượng trưng cho lời ẩn kín vừa phủ nhận thế giới bên ngoài, vui, thiếu bóng con người, vừa giúp Kiều bước vào thế giới của "khổ" hướng kề chân tính. Tiềm năng trong tiếng đàn bạc mệnh nay linh hoạt, giúp Kiều nhận ra lời ẩn kín. Kiều như vượt qua một thế giới cũ đi vào cảnh vực bên kia, nên có câu: « Chớ nề u hiền ». Chính cái bất ngờ hầu như phi lý của câu truyện là gặp gỡ người từ cõi bên kia, mà tình theo nghiã nầy mới linh hoạt và mở ra được tương giao thật: Ta lại gặp ta.
Hẳn nhiên, theo nghĩa đen là Kiều gặp Đạm Tiên, nhưng hai chữ ta nầy còn mang nhiều âm hưởng nữa:
-
Tôi tìm lại được Chân tính của tôi
-
Tôi gặp được người khác, nhưng cùng nhân tính như tôi, từ đó có thể nhận ra và gọi người đối diện tôi là chị em - nên có chữ chúng ta.
Nhưng cũng như câu truyện Lạc Long Quân đã cho Âu Cơ đồng sàng để hoàn thành nhân tính siêu việt, ở đây câu truyện cũng nhuốm màu huyền thoại, gợi, lên một niềm tin hay hy vọng soi sáng cho những bước đường còn đầy nguy cơ của thân phận con người tại thế (còn gọi là cứu cánh tính của con người) vào thời chung mãn.
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong Tính Tình (câu 184) [4].
Câu tuyệt diệu
Trong đoạn trước, chữ hữu tình là sức mạnh phát ra từ Kiều, tương ứng với sức mạnh nơi Đạm Tiên. Tình đó cũng là Đức tức là sức mạnh của Đạo, nối con người với Đạo, và cũng nối kết con người lại với nhau. Sức mạnh đó tự nhiên, không phải theo nghĩa tự nhiên - siêu nhiên trong lối nói của tư tưởng truyền thống Tây phương, nhưng vốn gắn liền với thân phận con người trong tại thế (xem câu 3249 - Đã mang lấy nghiệp vào thân).
Ở trong đọan nầy hai chữ hữu tình lại là nằm trong một câu thơ làm nền giải thích thế giới của Kim Trọng trong tương quan Thuý Kiều. Hình ảnh người đã khuất và kẻ còn sống trước mặt gợi lên hai cảnh vực về sự xuất lộ ra của Chân tính và sự rút lui của Chân tính, theo lối diễn tả của Heidegger, hay cả của Đạo Đức Kinh. Sức mạnh nầy cũng là Đức của Đạo, một sức mạnh tự nhiên làm nên thân phận con người tại thế. Vì sức mạnh tự nhiên nầy, mà câu thơ kế tiếp nói rõ: "Đố ai gỡ rối tơ mành cho xong!". Nhưng toàn diện thân phận con người tại thế, hay Chân tính của nó trong phận tại thế không phải chỉ là sức mạnh nầy hay sức mạnh kia, nhưng là cuộc chiến giữa đôi bên. Pascal đã từng nhận xét: "Ai làm thiên thần, thì cũng làm con vật" nhằm gợi lên trực giác về cuộc chiến nầy.
Đoạn văn nầy (một đoạn văn tiêu biểu về tài năng văn chương của Nguyễn Du, và có thể nói là tinh hoa của cái đẹp trong ngôn ngữ và thi ca Việt Nam), thường được nghiên cứu với chủ đề "Mối tình Kim Trọng - Thuý Kiều" như một cuộc tình đôi lứa đi kèm với những tranh luận về vấn đề luân lý gia đình và xã hội.
Trong lối văn tượng trưng mà ưu tư chính là gợi lên thắc mắc về thân phận con người tại thế một cách rốt ráo, chúng ta thấy các nhà tư tưởng thường không có chủ tâm đi vào vấn đề luân lý, nhận thức khoa học, chẳng hạn như Kiều tự vẫn, đã đêm khuya lại quay trở lại tìm Kim Trọng (Đoạn Trường Tân Thanh), Lạc Long Quân dành vợ của Đế Lai (Họ Hồng Bàng), Công chúa Tiên Dung cãi lại lệnh cha và vua (Đầm Nhất Dạ), An Tiêm vô ơn, nghịch lại với vua (chuyện Dưa Hấu)...
Chủ đề cuộc chiến Tài - Mệnh vẫn là chủ đề của đoạn nầy, và hơn thế nữa chủ đề đó được nêu lên qua những tượng trưng phản ảnh những hoàn cảnh tinh tế nhất.
Chủ đề đó được diễn tả ở đây bằng sự tương phản trong những mẫu người, để đi đến một nhận định có tính cách hệ thống rất cô động:
Người mà đến thế thì thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi
(= nói đến Đạm Tiên)
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
(= Kim Trọng)
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
(= Kinh nghiệm về cuộc chiến nội tâm)
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong Tính Tình (179-184).
(Phát biểu về chân tính con người tại thế)
Nếu có thể nói đến hệ thống tư tưởng của Nguyễn Du, sáu câu thơ nầy là bản tóm lược.
Dùng lại chữ của Nguyễn Du, ta thấy tinh hoa của Đoạn Trường Tân Thanh là sự tra vấn về "Tính-Tình" qua kinh nghiệm của cuộc chiến Tài - Mệnh tạo nên trăm mối nơi Tâm con người.
Lão Tử gọi Đạo và Đức, sách Trung Dung gọi là Tính và Đạo, còn Nguyễn Du gọi Tính và Tình. Cũng một nội dung ấy, nhưng kinh nghiệm và cách diễn tả khác nhau tạo thành những truyền thống văn hoá khác nhau. Cũng có thể gượng ứng dụng ngôn ngữ triết học truyền thống Tây phương để nói Tính là Hữu thể (l'Être) và Tình là sự xuất lộ của Tính trong trần thế (L'Existence). Gượng nói vì đây là hai cách thế để diễn đạt chân tính về con người, nhưng cũng chỉ là chân tính của con người ấy. Nhưng điểm gay cấn ở chỗ nầy, mà một cách nào đó Nguyễn Du cho đấy là tuyệt diệu, ngôn ngữ tôn giáo gọi là kỳ bí, mầu nhiệm, đó là: Tại sao trong thân phận con người tại thế, Tình lại có thể xa Tính, mặc dù tại thế là sự xuất hiện của Tính qua sức mạnh của nó là Tình? Tại sao có sự xa cách nầy để có cuộc chiến giữa Tài và Mệnh và có con đường cứu độ? "Có thể" đó là căn của "khổ". Nguyễn Du cũng như các truyền thống văn hoá nhân loại cổ xưa không dùng chữ có thể là tự do theo nghĩa làm theo điều mình muốn, như quan niệm tự do trong thời Tân kỳ. Nhưng có thể nầy được diễn tả rõ rệt trong mỗi đoạn của tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh là có thể gắn liền với cuộc chiến và khổ. Trong sách Sáng-thế của Thánh kinh Do Thái và Kitô giáo, mạc khải Thiên Chúa ẩn kín đi đôi với sự mạc khải về thân phận con người có thể lầm lạc, và khổ:
Ta sẽ đổ dồn những khổ đau trong những lúc sanh đẻ, trong khổ đau ngươi sẽ sanh con cái" (St. 3,17).
Ngươi sẽ bươi đất để sinh sống trong những khổ đau suốt chuỗi ngày của đời người..." (St. 3,17).
Trán đổ mồ hôi, ngươi mới có bánh để ăn cho đến khi trở về lại bụi đất...(St. 3,19).
"Khổ tuyệt diệu" vì "khổ" mở ra tư tưởng về tương quan Tính và Tình như một sức mạnh cứu thoát, kỳ cùng là "hồn" làm nên thảm kịch tin và hy vọng đưa Đoạn Trường Tân Thanh vào danh sách những tác phẩm văn hoá điển hình của lịch sử nhân loại.
Vì Tình là sự xuất lộ của Tính, vừa mở ra cho con người lại vừa che dấu hay rút lui; nên con người hoàn thành nhân tính của mình trong cuộc chiến nầy.
Tư tưởng tra vấn chân tính của con người, vì thế, chỉ có thể được thực hiện trong tư thế nầy của Tính, nói cách khác là phải đi vào nội dung của Tình và sức năng động của nó. Nên Nguyễn Du không bàn cãi "một cách vu vơ" về Tính mà tra vấn về Tính bằng cách diễn đạt kinh nghiệm "ngổn ngang trăm mối của "Tình".
[1] Trung Dung, chương 30: Thượng bất oán Thiên, hạ bất vưu nhân. Cố quân tử cư dị sỹ ư mệnh, tiểu nhân hành hiểm dĩ kiêu hạnh
[3] Đến đây có một vấn đề nêu ra. Tư tưởng vì được đồng hoá với triết học, mà triết học đó phải xây dựng trên nền tảng siêu hình học của Hy lạp; tiền kiến đó không những chi phối thế giới Tây phương, kể cả tư tưởng thần học Kitô giáo, mà còn ảnh hưởng trên nền văn hoá của thế giới hiện nay. Tư tưởng xét trong khung nhỏ hẹp nầy như không hề lưu ý hay biết đến một lối tra vấn nào khác về chân tính, xuyên qua việc tra vấn trong thân phận tại thế của con người. Nên tư tưởng tự đóng khung trong thế giới nhận thức về sự vật mà nguời ta luôn gán cho là một sự suy tư theo lý trí tự nhiên. Chữ tự nhiên hàm hồ nầy đã được nêu lên trong các cuộc tranh cãi ở sách Mạnh Tử. Ta nêu lên câu hỏi:
Tự nhiên dựa vào cái gì? Hay dựa vào khả tính siêu việt của con người hay của những ai? Trực giác về siêu việt tính của con người thuộc về tự nhiên của trật tự nào? Trực giác về hữu hạn tính của con người có phải là tự nhiên không?
Qua phần diễn tả của Nguyễn Du trong phần nầy, hai phần tự nhiên nêu trên đều gắn liền với con người: Con người có thể lạc lầm đi vào thế giới của Tài, và con người có thể lắng nghe được âm vang của Mệnh, dù ở đây âm vang đó còn dội lên như một sự phủ nhận. Dấu tích âm vang nầy còn tìm thấy trong các ngôn ngữ của nhiều dân tộc khác nhau: Vô hạn, vô cùng, siêu việt...
Việc phân chia tư tưởng ở phần tự nhiên gồm nhận thức thường nghiệm, triết học và khoa học..., còn những tra vấn về siêu việt tính, sự cứu độ là thuần túy mặc khải tôn giáo, hàm ngụ như không phải thuộc khuôn viên của lý trí tự nhiên, vô tình đẩy ra bên lề những nhà tư tưởng nhà văn hoá lớn của nhân loại như Phanxicô Assisi, Pascal, Dostoievski..., kể cả các thánh hiền Đông phương. Và hơn thế nữa tách rời những ưu tư tôn giáo ra khỏi lãnh vực của văn hoá nói chung. Nếu tư tưởng triết học được đóng khung trong lối đặt vấn đề của siêu hình học Tây phương, thì đúng như lời Dương Quảng Hàm đã nhận xét, Nguyễn Du không phải là một triết nhân và cũng không phải là nhà tư tưởng. Nhưng nếu tư tưởng là sự tra vấn về chân tính của thân phận con người tại thế, thì đã đến lúc xét lại việc sử dụng từ ngữ tự nhiên nầy.
[4] Trong đoạn văn mô tả cuộc gặp gỡ Kim Trọng - Kiều cho đến lúc Kiều gặp nạn, nghĩa là từ câu 133 đến 568, các nhà phê bình văn học, đặc biệt là Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, đã ghép cảnh gặp gỡ lần đầu giữa hai người trong dịp ngày hội Đạp Thanh vào đoạn chúng ta vừa phân tích, có lẽ đã dựa vào khung không gian liên tục của câu truyện (từ câu 133-243). Trên bình diện tư tưởng, lối xếp thành chương, đoạn như thế cũng rất có ý nghĩa: nó gợi lên sự xung đột giữa hai tương quan hay hai trật tự khác nhau của sự gặp gỡ: một với Đạm Tiên, tượng trưng cho con người trong chiều sâu ẩn kín, và một với Kim Trọng như hình hài con người trước mắt.
Nhưng nếu chúng ta đọc hết cả đọan văn nầy, chúng ta cũng thấy tiểu đọan đó cũng được dùng để diễn tả trọng tâm chủ đề đặt ra là cuộc va chạm Tài - Mệnh được nêu lên trong khung cảnh của mối tình Kim Trọng - Kiều.
Nói tóm lại tiểu đọan nầy là gạch nối giữa hai đoạn, nhưng trong mục tiêu truy cứu nội dung tư tưởng Đọan-trường Tân-thanh, chúng tôi đã chọn lối xếp đặt lại bố cục câu truyện, để dễ đi vào sự nhất quán của tư tưởng nêu lên trong chủ đề.