Tomas Transtromer thuộc dòng dõi thuyền trưởng nhiều năm hoạt động ở Quần đảo Stockholm nên rất thoải mái với cuộc sống ở hải đảo. Nét mặt gầy, xương xẩu, nhanh nhẹn, giản dị làm tôi liên tưởng đến một trong những khuôn mặt của Hans Christian Andersen hay của Kierkegaard trong những ngày còn trẻ. Ông có tài thiên phú rất kỳ lạ trong cách dùng hình ảnh – hình ảnh trong thơ ông xuất hiện thật tự nhiên dễ dàng như không đòi hỏi tác giả phải cố gắng chút nào. Những hình ảnh này trồi lên như nước dâng ở những nơi vắng vẻ, trong đầm lầy, hay trong rừng thông sâu thăm thẳm.
Thi ca Thụy Điển có khuynh hướng rất lý trí, dễ mở ngõ cho phong trào thời thượng. Transtromer, chỉ đơn giản bằng việc xuất bản thơ của ông, đã dẫn đầu một phong trào thi ca đi theo hướng ngược lại, thi ca của im lặng và chiều sâu.
Một trong những vẻ đẹp trong thơ ông là khoảng không gian chúng ta cảm nhận được trong các bài thơ. Tôi nghĩ, lý do là bốn hay năm hình ảnh chính xuất hiện trong mỗi bài thơ của ông đã đến từ nhiều nguồn gốc hoàn toàn khác biệt nhau trong tâm lý. Thơ của ông tương tự một loại nhà ga, nơi các chuyến xe hỏa đến từ nhiều nơi rất xa xôi chỉ dừng lại ở nhà ga trong chốc lát. Một chuyến xe hỏa có thể vẫn còn chút tuyết của nước Nga đọng dưới gầm xe hỏa và một chuyến khác có thể có vài đóa hoa vùng Địa Trung Hải vẫn còn tươi mát trong các ngăn chứa hành lý trên toa, và bụi khói của Ruhr# trên nóc toa xe hỏa.
Thơ của Transtromer đầy vẻ huyền bí bởi vì cái khoảng cách mà những hình ảnh trong thơ ông đã mang đến. Mallarmé tin rằng thi ca nên có nét huyền bí, và thúc giục các thi sĩ nên cởi bỏ những sợi dây trói buộc thơ vào những liên hệ của chúng trong cõi thật. Transtromer vẫn giữ sợi dây nối liền với diễn tiến trên thế giới, tuy thế thơ của ông vẫn mang vẻ huyền bí và gây kinh ngạc không bao giờ phai mờ, ngay cả khi đã được đọc nhiều lần.
Rilke dạy rằng thi sĩ nên là “loài ong của những thứ vô hình.” Nuôi mật ong cho những thứ vô hình có nghĩa là nhà thơ nên giữ vị trí gần gũi với lịch sử của loài người nhưng cũng nên hướng về tâm linh cũng như những điều mà mắt người ta không thể nhìn thấy. Transtromer ngờ rằng là một nghệ sĩ ông chỉ là phương tiện giúp cho “Ký ức” được thoát ra và đến với thế giới. Ngay khi ông mới mười bảy tuổi ông đã nhận biết rằng người chết “muốn chân dung của họ được vẽ lại.” Điều này không thể thực hiện được nếu không giảng hòa với những lý luận tranh biện đã có. Ông muốn nói về những vấn đề tâm linh, nhưng ông không muốn làm nhà giảng đạo. Nếu lời lẽ có thể giết chết Thiên Chúa Giáo ở Thụy Điển, có lẽ nó cũng có thể giết chết thi ca. Trong “From an African Diary (Từ Nhật Ký của một người châu Phi),” ông miêu tả chuyện leo lên chiếc xuồng con được đẽo từ khúc gỗ:
“Chiếc xuồng con rất xệu xạo, ngay cả khi bạn ngồi nhón gót. Một tư thế cân bằng. Nếu bạn có trái tim nằm ở bên trái bạn phải hơi nghiêng người về bên phải, không được chứa gì trong túi, không được quơ mạnh cánh tay, xin bạn, bỏ tất cả lời lẽ hùng biện lại sau lưng. Chính xác: hùng biện không thể có mặt ở đây. Chiếc xuồng trượt ra trôi trên mặt nước.”
Trong “The Scattered Congregation (Giáo Đoàn tản mác),” Transtromer nói:
Nicodemus kẻ mộng du đang đi trên đường
đến Địa Chỉ. Ai là người có Địa Chỉ?
Không biết. Nhưng đó là nơi chúng ta sẽ đến.
Tomas Transtromer sinh ra ở Stockholm ngày 15 tháng Tư năm 1931. Bố mẹ ông ly dị khi ông mới lên ba; ông và bà mẹ sống trong t căn hộ ở khu lao động của Stockholm. Ông tả căn hộ trong bài thơ có tên là “The bookcase (Kệ sách)”
Đầu thập niên năm mươi là khoảng thời gian trang trọng, cả nơi đây và ở Thụy Điển, và Transtromer bắt đầu viết những bài thơ nghiêm chỉnh, trang trọng, một số thơ mang thể loại iambs (hai âm tiết, một ngắn một dài) và một số mang thể loại Alcaic (mười bốn câu, mỗi câu có bốn bộ). Tập thơ đầu tiên, 17 Bài thơ, xuất bản năm 1954, sáng ngời với những chi tiết thời Baroque rất lạ, và tuy chỉ có một số ít bài thơ người ta chú ý đến sức mạnh của tập thơ ngay lập tức.
Ông hành nghề tâm lý gia trong trại tù dành cho thiếu niên ở Linkoping, cho đến năm 1965, ông cùng Monica, vợ ông, Paula và Emma, hai cô con gái, dời về Vasteras, một thành phố nhỏ chừng 40 dặm về hướng Tây của Stockholm. Ông tiếp tục hành nghề tâm lý gia, lần này cho một tổ chức lao động do chính quyền tài trợ. Ông giúp thiếu niên hư hỏng tái gia nhập xã hội, giúp những người tàn tật chọn nghề thích hợp với khả năng, ông tư vấn những người phạm pháp đang được tại ngoại và những người đang được chữa trị bệnh nghiện ma túy.
Thơ của Tomas Transtromer sáng rực rỡ, thi ca chân thật dù đến một nơi có ngôn ngữ khác biệt vẫn có thể phát huy. Thơ của ông đã được chuyển ngữ ra rất nhiều ngôn ngữ của châu Âu và châu Á; vào thời điểm này con số là ba mươi tám.
Lời khen ngợi thơ của ông đã đều đặn gia tăng ở châu Âu lẫn Hoa Kỳ. Ông được trao tặng hầu hết tất cả các giải thưởng quan trọng về thơ ở châu Âu trong đó có giải Petrarch ở Đức, giải Bonnier dành cho thơ, giải Pilot năm 1988, giải Nordic Council năm 1990, giải Nordic của Hoàng Gia Thụy Điển năm 1991, và giải Horst Bieneck năm 1992.
Thành phố Vasteras gần đây có một buổi lễ chính thức tổ chức trong tòa lâu đài cổ để tiễn đưa Tomas và Monica về ở Stockholm. Một ban hợp ca hát tặng ông, và quà tiễn đưa chất cao một mét rưỡi chung quanh ghế ông ngồi.
Hôm nay, đôi vợ chồng sống trong một căn hộ ở Stockholm nhìn ra hải cảng, gần khu nhà cũ nơi Tomas đã trải qua thời thơ ấu.
Bài giới thiệu thơ của Tomas Transtromer của Robert Bly và chùm thơ của Tomas Transtromer do Robert Bly dịch ra tiếng Anh, Nguyễn thị Hải Hà trích và phỏng dịch từ quyển The Winged Energy of Delight: Selected Translations (tạm dịch Niềm Vui Cất Cánh: Tuyển Dịch Thơ của nhiều tác giả).
Morning Bird Songs
I wake up my car;
pollen covers the windshield.
I put my dark glasses on.
The bird songs all turn dark.
Meanwhile someone is buying a paper
at the railroad station
not far from a big freight car
reddened all over with rust.
It shimmers in the sun
The whole universe is full
A cool corridor cuts through the spring warmth;
a man comes hurrying past
describing how someone right up in the main office
has been telling lies about him.
Through a backdoor in the landscape
the magpie arrives,
black and white, bird of the death-goddess.
A black bird flies back and forth
until the whole scene becomes a charcoal drawing,
except for the white clothes on the line:
a Palestine choir.
The whole universe is full!
Fantastic to feel how my poem is growing
while I myself am shrinking.
It’s getting bigger, it’s taking my place,
it’s pressing against me.
It has shoved me out of the nest.
The poem is finished.
Bài chim ca buổi sáng
Tôi đánh thức chiếc xe;
phấn hoa phủ đầy kính,
Tôi mang kính đen vào
Những bài chim ca trở nên đen tối.
Cùng lúc ấy có người mua tờ báo
ở nhà ga xe hỏa
không xa chiếc xe lửa chở hàng to lớn
bị nhuộm đỏ toàn thân màu sắt rỉ
sáng lung linh dưới ánh mặt trời
Cả vũ trụ tràn đầy
Một luồn gió lạnh cắt ngang cái ấm của mùa xuân
Một người vội vã đi qua
kể một người ở trong văn phòng
đã đặt điều dối trá về anh ta.
Xuyên qua cửa sau trong phong cảnh này
người thổi sáo magpie đến
đen và trắng, con chim của nữ tử thần
Con chim đen bay tới bay lui
cho đến khi toàn cảnh trở thành bức tranh vẽ bằng than
ngoại trừ quần áo màu trắng đang phơi trên dây:
Ban hợp ca người Palestine
Cả vũ trụ tràn đầy
Sung sướng cảm thấy bài thơ của tôi đang lớn lên
Trong khi chính bản thân tôi đang bé lại
Bài thơ lớn lên, nó chiếm chỗ tôi
Nó đè lên tôi
Nó xô tôi ra khỏi tổ ấm
Bài thơ chấm dứt
April and Silence
Spring lies abandoned.
A ditch the color of dark violet
moves alongside me
giving no images back.
The only thing that shines
are some yellow flowers
I am carried inside
my own shadow like a violin
in its black case.
The only thing I want to say
hovers just out of reach
like the family silver
at the pawnbroker’s
Tháng Tư và Sự Im Lặng
Mùa xuân bị bỏ quên
cái mương màu tím thẫm
chảy bên cạnh tôi
không phản chiếu hình ảnh
Chỉ một thứ chiếu sáng
là vài đóa hoa vàng
Tôi mang trong lòng
cái bóng của tôi như chiếc vĩ cầm
nằm trong hộp chứa đàn màu đen
Chỉ một điều tôi muốn nói
bay chờn vờn ngoài tầm tay
như những món gia bảo bằng bạc
nằm trong tiệm cầm đồ
The Scattered Congregation
1
We got ready and showed our home.
The visitor thought: you live well.
The slum must be inside you.
2
Inside the church, pillars and vaulting
White as plaster, like the cast
Around the broken arm of faith.
3
Inside the church there’s a begging bowl
That slowly lifts from the floor
And floats along the pews.
4
But the church bells have gone underground.
They’re hanging in the sewage pipes.
Whenever we take a step, they ring.
5
Nicodemus the sleepwalker is on his way
to the Address. Who’s got the Address?
Don’t know. But that’s where we’re going.
Giáo Đoàn Tản Mác
1
Chúng tôi chuẩn bị và cho xem nhà
Người khách nghĩ: các bạn sống sung túc.
Khu ổ chuột phải ở trong lòng các bạn
2
Bên trong giáo đường, những cột to và vòm cung
Trắng như thạch cao, như bó bột
Chung quanh cánh tay của niềm tin bị gãy
3
Bên trong giáo đường có một cái chén xin tiền
Chậm rãi nâng lên từ nền nhà
Và trôi nổi dọc theo những cái ghế quỳ
4
Nhưng tiếng chuông giáo đường đã chìm vào lòng đất
Chúng treo lủng lẳng trong những ống cống
Khi chúng tôi cất bước, chúng rung lên
6
Nicodemus kẻ mộng du đang đi trên đường
đến Địa Chỉ. Ai là người có Địa Chỉ?
Không biết. Nhưng đó là nơi chúng ta sẽ đến.