Nỗi oan ức, nỗi khổ của phận làm người trước Công lý là cảm thức hố thẳm giữa nổ lực tìm đường cứu thoát và bến bờ của Chân lý
Con đường chấm dứt "khổ" bằng "diệt thân", nghĩa là chấm dứt cuộc sống làm người do tự ý muốn con người, đã được gợi lên nhiều lần như là phương thức tối hậu, nhưng liệu đây có phải là giải pháp tối hậu không?
-
Người cha đã đề nghị giải pháp nầy:
Liều mình ông đã gieo đầu tường vôi (câu 667).
-
-
Còn Kiều thì mỗi lần đau thương, là mỗi lần toan tự vẫn:
Phòng khi nước đã đến chân,
Dao nầy thì liệu với thân sau nầy (câu 800-801).
Sẵn dao tay áo, tức thì giở ra (câu 982).
Và "chết" như trốn nợ làm người không những không phải là giải pháp hữu hiệu vì nó chỉ là một giải pháp ứng dụng cho khung trời của nhân quả, có và không, trong trật tự của nhận thức đồ vật. Nhưng "nhân quả" theo nghĩa tượng trưng là mang nợ làm người, thì lại phải được trả bằng giá khác nữa: Âm vọng từ chân tính qua lời nói của Đạm Tiên trong giấc mơ phủ định con đường đó:
Rĩ rằng: Nhân qủa dở dang
Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao,
Số rằng nặng kiếp má đào,
Người dù muốn quyết, trời nào đã cho!
Hãy xin hết kiếp liễu bồ.
Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau" (câu 995-1000).
Và giải pháp còn lại là liều và buông xuôi:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu" (câu 2163-2164).
Nét độc đáo của Nguyễn Du, là ngoài tự mãn và buông xuôi vô vọng, còn thấy hé lộ chân trời của niềm tin và hy vọng. Ở đây, trong con đường lưu lạc của con người tại thế, có hai đối lực chi phối tạo nên cuộc chiến:
Một là âm vọng của niềm tin và hy vọng:
Sông Tiền Đường sẽ hò hẹn về sau.
Và mặt kia là buông xuôi, quên lãng hoặc thách thức:
Cũng liều.... mà xem....
Chung đụng của hai lực nầy đẫn đến câu hỏi quyết liệt mà M. Heidegger đã dùng đến kết thúc tác phẩm chính yếu của M. Heidegger, "Hữu thể và thời gian":
Có một con đường nào dẫn đưa thời gian nguyên sơ (có thể hiểu là nghiệp con người tại thế) vào nghĩa của hữu thể? Thời gian có phải tự mình khai mở ra như chân trời của hữu thể không? [1].
-
Cuộc phiêu lưu của Lịch sử và các nổ lực giải phóng
"Khổ" là nghiệp con người tại thế, nghiệp đó vô căn, nếu căn được hiểu là khung bền vững của nhận thức con người đã có được để mở ra với vũ trụ thiên nhiên, đặt thần thánh, con người trong khung nhận thức nầy. Khổ vô căn, khi căn tiền kiến rằng sự xa cách với Trời Xanh, với chân tính của con người có thể xoá bỏ do tự khả năng của thân phận con người tại thế, không khác gì khả năng đúc con bò vàng để tôn vinh đó là Thiên Chúa.
Tai nạn đến cho gia đình Kiều và cho Kiều là tượng trưng của một khắc khoải tư tưởng, như một cú sét bên tai làm con người đi vào cơn "khủng hoảng" hé lộ âm vọng của lời tra vấn về thân phận của mình tại thế. Tất Đạt Đa đã chứng nghiệm cơn khủng hoảng nầy khi bước chân ra khỏi thành, còn Abram trong sách Sáng Thế choáng váng trước âm vọng từ trời cao buộc mình lìa quê cũ để lên đường làm người lữ hành trên đất khách.
Thời gian-không gian riêng dành cho phận làm người là cuộc hành trình nơi xứ lạ, được gọi là lịch sử. Sử tính là cuộc chiến của Tài và Mệnh, của hai đối lực chân tính và mê lầm, nhưng hai đối lực nầy, chân và giả, không phải ở trên cùng một trật tự đối kháng của nhận thức sự vật.
Hegel đã từng chịu ảnh hưởng của Héraclite về cuộc chiến làm nên sức sống vũ trụ và con người. Nhưng nơi Héraclite, cuộc chiến đó một bên là Logos, nền tảng vô căn, vì Logos không phải ở trong chân trời của nhận thức các đối kháng trong thiên nhiên hay tâm lý con người, mà con người có thể khai thác; và bên kia là toàn bộ cái có-không làm nên thế giới thuộc khả năng con người tại thế. Hegel, là triết gia trong truyền thống siêu hình học Tây phương, đã hiểu cuộc chiến trong tư tưởng Héraclite như là sự xung dụng của hai yếu tố trái nghịch nhau trong cùng một trật tự, tiền kiến rằng bên trên cuộc chiến nầy chân tính đã mở tung ra như vòng tròn của Parménide làm nền vững chắc cho mọi vận hành bên trong. Vòng tròn đó đã trao cho con người như một sự hiển nhiên, một "a priori" tiên thiên hữu thể học không còn phải ưu tư hay bàn cãi nữa. Trong lịch sử văn học Tây phương, Hegel, là triết gia đã có công xướng xuất đề tài về lịch sử và vận hành của nó như một biện chứng giữa tinh thần và vật chất, không khác lối suy diễn thông thường về Kinh Dịch Trung Hoa về bản chất vũ trụ và cuộc sống con người như là sự kết hợp và xung dụng giữa hai thành tố âm-dưong (theo một lối hiểu kỳ lạ về âm-dương làm như văn hoá Trung Hoa và đặc biệt là tư tưởng Nho-Lão dừng lại trong nỗ lực khai phá nhận thức khoa học thiên nhiên, đồng hoá cõi người ta với thế giới cây cỏ!). Sử tính theo lối hiểu của Hégel là năng lực của Tài, có khả năng chuyền đổi Sử tính căn nguyên[2], tức là cuộc chiến Tài và Mệnh, thành những nố thắt gỡ trong khung trời mà nó tạo ra. Khả năng chuyển đổi đó được gọi là nghiệp chướng, Karma, có đầy năng lực nhưng là năng lực làm quên chân tính. Giả hay quên hàm ngụ thật và nhớ, cũng sử dụng các năng lực thật và nhớ nầy, nhưng quay ngược lại mối tương quan. Tương quan của thật và nhớ là nối kết Ai với ai, hàm ngụ "khổ" vì thân phận con người gắn liền với xa cách như phần trước đã trình bày. Tương quan của giả và quên là sự mở ra để lập tương quan nhưng đồng thời đánh mất tương quan thật. Phật gọi là khả năng biến "khổ" thành "dục", nghĩa là muốn dùng việc mở ra, nhưng đồng thời và trước đó muốn thu lại tất cả mọi sự trong một tổng hợp xây dựng nên cái Tôi đơn độc của mình. Kant gọi cái tôi tổng hợp nầy là Tôi tiên nghiệm, nghĩa là luôn mở ra để nhận thức, nhưng đồng thời tiên kiến sẽ lớn lên cái tôi đó qua các kiến thức thu thái được. Tinh thần trong tư tưởng của Hégel mở ra với vật chất qua các cuộc xung đột và tổng hợp, để kỳ cùng Tinh thần đó hoàn thành mình do mình và cho mình.
Sử tính căn nguyên hé lộ trong tư tưởng Nguyễn Du là cuộc chiến, một bên là toàn bộ mở ra của Tài hay lịch sử theo nghĩa Hegel, và bên kia là Mệnh một âm hưởng âm thầm của chân tính xa cách, nhưng rất gần, phủ định toàn bộ thế giới của chữ Tài.
- Tại nhà, Họ Chung, vì từ tâm đã đề xuất một giải pháp lo lót để tạm gỡ rối. Nhưng kết quả là đưa Kiều vào tay Mã Giám Sinh.
- Mưu trí giả dối của Sở Khanh làm cho Kiều tưởng đó hẳn là một con đường thoát, nhưng kết quả là tạo thêm duyên cớ để Kiều sa chân vào "làng chơi".
- Thúc Sinh, người yêu "hoa" đã tìm cách chuộc Kiều, nhưng đưa Kiều vào cảnh khổ nơi nhà Hoạn Thư.
- Nỗi lòng trắc ẩn của mụ Quản gia tại nhà Hoạn Thư cũng chỉ tạm an ủi Kiều trong chốc lát.
-
Ý Hoạn Thư muốn đưa Kiều vào Cửa Không, kinh kệ, xuất gia với tên Trạc Tuyền:
Đưa nàng đến trước Phật đường,
Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia... (câu 1919-1920).
Nhưng kinh kệ, hình thức tôn giáo bên ngoài không phải con đường giải thoát.
- Giác Duyên xuất lộ lần đầu "Chiêu ẩn am" cũng chỉ cho Kiều ẩn núp tị nạn một thời gian ngắn. Kiều không thoát nạn lần nầy, vì vướng phải mấy "chuông vàng, khánh bạc" Kiều mang theo trong người để chạy nạn. Một mặt nàng dựa vào tài vật bên ngoài để mong sống còn, mặt khác lòng nàng chưa thành, muốn qua con đường dối trá để tìm chân tính:
Lạ lùng, nàng hãy tìm đường nói quanh (câu 2042).
Nói cách khác, dầu có bàn tay cứu độ, con người còn ở trong vòng vi của "Tài" thì "không ai gỡ mối tơ mành cho xong". Và Kiều lại phải rơi vào tay Bạc Bà.
-
Từ Hải, họ tên đó, là hiện tượng của giải pháp phổ quát dựa trên sức lực của hành động con người:
Râu hùm, hàm én, mày ngài (đẹp)
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao (mạnh).
Đường đường một đấng anh hào (oai hùng),
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài (tài ba).
Đội trời, đạp đất, ở đời (tự do)
Giang hồ quen thói vẫy vùng (bao khắp vũ trụ)
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo (quyền uy trên con người), (câu 2167-2174)...
Nói tóm đây là hình ảnh tượng trưng của con người có tất cả mọi cái. Kiều tưởng chừng đây là con đường thoát, nhưng đến đây, chính nàng là nguyên nhân làm chết con người đó.
Khóc rằng trí dũng có thừa,
Bởi nghe lời thiếp, đến cơ hội nầy ! (câu 2529-2530).
Nói cách khác hình ảnh tượng trưng Từ Hải diễn tả nội dung rốt ráo của chữ Tài [3], con người đã vận dụng hết tâm lực để tìm cách thoát khỏi cái khổ của thân phận tại thế của mình. Cái chết của Từ Hải, trong ý nghĩa tượng trưng nầy, do chính Kiều có nghĩa rằng thế giới giả tạo trở lại với sự giả tạo của mình, tương tự như lối nói của sách Sáng thế trong Cựu ước:
Vì người là đất bụi
và người sẽ trở lại với bụi đất (St. 3,19).
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống chết một ngày với nhau
(ĐTTT câu 2529-2530)
Kỳ cùng cái chết của Tứ Hải gắn liền với con đường tự vẫn của Kiều trên sôngTiền Đường. Đến bước đường cùng và nhận thức được đó là đường cùng, bấy giờ thì chân trời của sông Tiền Đường mới xuất hiện.
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,
Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường.
Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
Nầy thôi hết kiếp đoạn trường là đây!
(câu 2619-2622).
"Lời thần mộng rõ ràng" khi bước đường trước mắt hết lối, bấy giờ tiếng của chân tính ẩn dấu được cảm nhận trọn nghĩa của nó, tiếng đó là "không phải", phủ định tất cả một cách rất rốt ráo; tất cả những dự phóng mở ra của Tài trong thế giới cái gì không phải là chân tính của con người: tất cả mọi sự vật, thần thánh, con người được Tài thiết định đều không ở trong chân tính của chúng.
Tự vẫn của Kiều trên sông Tiền Đường không ở trong khung cảnh của Tài, như bất cứ một giải pháp tự vẫn nào trước đây: của cha Kiều hay của chính Kiều. Cái chết lần nầy nằm trong một cảnh giới của ngôn ngữ tượng trưng, như câu nói của thánh Phanxicô thành Assisi: "Chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời" [4]. Cái chết của diệt "ngã" trong ngôn ngữ nhà Phật, có nghĩa là sự chiến thắng của Sự sống mới đưa con người từ khung trời đóng kín, thế giới của Karma, của chấp ngã, để các mối tương giao chân thật của cõi người ta được linh hoạt.
Chữ hữu tình trong thế tương tranh giữa hai đối lực khác nhau giữa Tài và Mệnh, nay là Giác duyên, một sự hiểu biết đến một cách bất ngờ, một cuộc gặp gỡ không phải trong khuôn khổ của tiền kiến do tự con người, nhưng đến từ chân tính ẩn dấu.
Giác Duyên ấy không phải đến giờ phút nầy mới xuất hiện; nhưng những lần trước, vì còn nặng lòng với chữ Tài mà Kiều không nhận ra, và sự cứu độ không thực hiện nơi nàng. Trong cơn lưu lạc, lời của Giác Duyên vẫn dội bên tài nàng, như lời chối từ cảnh an bình, vui tươi của thực tại, "nơi đây thuộc về tôi" [5], đồng thời nói "tiên tri" về một kỳ hội họp tương lai với sư Tam Hợp.
Gặp sư Tam hợp, vốn là tiên tri,
Báo cho hội họp chi kỳ (câu 2406-2407).
Tiên tri, tiền định (câu 2409) được nhắc đến đây lời hứa từ Giác Duyên hay niềm tin, sự trông đợi luôn ở trong con người như một dấu ấn, bất chấp sự lãng quên chân tính do năng lực của Tài. Tiên tri ở đây không có nghĩa bói toán, tiên đoán một sự kiện nào đó xảy ra trong tương lai của thời gian, không gian bên ngoài, liên quan đến nhận thức vận hành của thế giới sự vật. "Tiên tri" là lối nói như trực giác phát xuất từ "Đại-ký-ức" tức là sự nhắc nhở con người quay lại với chân tính của mình, lời nhắc nhở đó "tiền định" tức là có trước hoặc nói cách khác là từ chối tự căn những dự tính của Tài. Chữ tiên tri gợi lên hình ảnh những nhân vật trong Cựu ước của Do Thái giáo, thường chỉ được hiểu là tiên đoán một sự kiện xảy ra, nhưng ý nghĩa thực của nó là người được Thiên Chúa sai đến để nói Lời của Ngài, nhắc con người quay tìm lại chân tính của mình.
Và Giác Duyên tiên tri về Tam Hợp (vốn là tiên tri) gợi lại niềm tin và chờ đợi cái gì?
Tam hợp sẽ cho hay Kiều sẽ chết đi và được cứu vớt do Giác Duyên. Tam Hợp, nguyên tự nầy gợi lên chữ sum họp, hay tương giao gặp gỡ (hợp) và gặp gỡ ba (Tam = gặp Trời, gặp Người, gặp Đất); những tương giao mở ra làm nên chân tính con người. Nhưng các tương giao đó chỉ xuất lộ khi Tài chấm dứt với cái chết của Kiều theo nghĩa tượng trưng.
Lịch sử như chấm dứt trong lời nhắc nhở (hay lời tiên tri nầy). Nhưng đến bao giờ Kiều mới thực sự "chết" đi con người cũ trên sông Tiền Đường, vì còn tại thế thì Tài và Mệnh vẫn còn tương tranh? Ngày nào còn con người tại thế thì lịch sử vẫn còn, nhưng trên bình diện hữu thể học hay nói cách khác là từ nỗ lực vươn lên hướng về "Tâm", mỗi giây phút là một cuộc chiến chết đi - sống lại.
-
Chân trời của niềm hy vọng
Thời chung mãn
Đoạn-Trương Tân-Thanh dành một chương khá dài (từ câu 2737-3240) để nói đến tiến trình đoàn tụ của Kiều và các người thân trong gia đình, đặc biệt là gần gũi lại với Kim Trọng.
Lối trình bày nầy chúng ta cũng gặp trong Đạo-Đức-kinh hoặc trong những đoạn Thánh kinh Do Thái giáo gợi lên cảnh chung mãn của nhân loại:
Đi ra cái sống, đi vào cái chết...
Ai biết cái đạo nhiếp sinh đó
Đi đường không gặp thú dữ
Vào trận không bị đao thương
Tê không chỗ đâm
Cọp không chỗ vấu
Đao không chỗ phạm [6].
hoặc:
Kẻ sống sức mạnh của Đạo
Như con trẻ còn thơ
Đội tùy không cắn,
Thú dữ không ăn
Ác điểu không xớt. [7]
Vì tội lỗi xưa Ta sẽ quên và mặt ta không nhìn đến,
Vì Ta sẽ tạo một trời mới và một đất mới
Và người ta không còn nhớ đến quá khứ nữa,
Không để tâm đến nó nữa...
Chó sói và chiên con sẽ gặm cỏ chung
Sư tử sẽ ăn rơm như bò và rắn sẽ ăn đất bụi [8]
Ở phần đầu đoạn nầy tác giả Đoạn Trường Tân Thanh mở ra một chân trời mới:
Nạn xưa, trút sạch làu làu (câu 2737)
Trút sạch nạn xưa, khi chết đi toàn bộ con người cũ của Tài.
Ai có thể làm cho con người cũ của Kiều chết đi? Ai có thể ra tay cứu độ đưa nàng Kiều đó vào chân trời mới?
Ở đây Đoạn Trường Tân Thanh làm nổi bật hai yếu tố kết hợp với nhau để sự cứu độ được thực hiện.
Theo lời của Sư Tam Hợp giải thích thì:
Sư rằng: "Phúc hoạ đạo trời,
Cỗi nguồn, cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng tại ta.
Tu là cõi phúc tình là giây oan"
(câu 2655-2658).
Phúc, họa nghĩa là những sự kiện xảy ra khác nhau tùy cách đánh giá của con người là phúc hay hoạ, nhưng mọi sự xảy ra là việc của Trời.
Cỗi nguồn ở lòng người: chân tính dù ẩn dấu, được hay mất, lệ thuộc vào trách nhiệm con người có thể đón nhận như là một hồng ân hay từ khước: con đường tu hoặc có thể mãi sai lạc.
Câu tiếp cũng nói đến trách nhiệm con người. Câu nầy ở trong một trật tự khác với câu nói của Kim Trọng trước đây: "Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều". Kim Trọng nói theo nội dung cầu may dựa vào kinh nghiệm thường nghiệm, tiên kiến Trời là bộ máy mù quáng quay theo định luật nhân quả, còn nhân định là dự kiến phát xuất từ ý muốn con người. Ta sẽ chỉ thấy được sự khác biệt rõ hơn trong đoạn tiếp.
Tu theo nghĩa ở đây không phải đi vào chùa, mặc áo cà sa (Kiều đã thất bại trong việc tìm kiếm nầy), nhưng nghĩa thực của nó là gìn giữ chân tính của mình. Đó là trách nhiệm của con người, chứ không phải tu là tìm một giải pháp thoát nạn theo ý mình.
Vì thế con đường trở lại chân tính gọi là phúc. Và tình ở đây theo nghĩa là Tài, không phải là sức cảm nhận hay hướng về một ai trong chân tính của người đó.
Ở một đoạn khác, lời của bà Tam Hợp đạo cô, lại nói rõ hơn:
Thủa công đức ấy ai bằng?
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi (câu 2687-2688).
Trong cuộc chiến của Tài - Mệnh, Kiều chông chênh có khi như buông xuôi theo Tài, có lúc biết lắng nghe lời Mệnh. Nhưng trong hoàn cảnh tại thế, mức độ đó đã là một công đức, dù nhìn từ yêu sách tuyệt đối thì không có nghĩa gì. Hàm ngụ nơi đây như có lòng Từ Tâm của trời. Nhưng kỳ cùng câu cuối của Đạo cô Tam Hợp lại mở ra một phán quyết có tính cách dứt khoát phát xuất từ trực giác của niềm tin và hy vọng:
Duyên ta mà cũng phúc Trời chi không! (câu 2694).
Cứu độ là duyên đến cho ta và cũng phải hiểu là phúc từ Trời. Nhưng muốn phúc đó đến Giác Duyên phải ra tay thả bè; con người cần cả người khác tiếp tay để hoàn thành việc của Trời thực hiện cho mình:
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau
Tiền đường thả một bè lau rước người (câu 2691-2692).
Martin Heidegger trong tác phẩm chính "Hữu thể và thời gian", đã chấm dứt đoạn đường tư tưởng của mình nơi lời tra vấn sự hiện hữu hay không của con đường dẫn thân phận con người tại thế (hay thời gian nguyên thuỷ) đến nghĩa của hữu thể (hay Chân tính). Và tiếp đó, trong câu cuối tác phẩm nầy, lại mở ra một tâm thức khắc khoải có tính cách nền tảng, trường kỳ của tư tưởng: Thời gian nói chung có phải là chốn Chân tính mở ra cho con người hay không? Câu hỏi nầy không phải là sự nghi ngờ, dè dặt cần thiết, một tiến trình chuẩn bị để đi vào sự xác quyết không dè dặt về nền tảng của Chân tính trong khả năng của "tôi suy tư" làm khởi điểm mở ra vận hành nhận thức các sự vật trong hệ thống triết học Descartes, vị thầy của Thời đại tân kỳ đi kèm với các nền nhân bản đang phổ biến. Câu hỏi của Heidegger ở cuối tác phẩm của mình có thể ví như nỗi khắc khoải của Kiều khi Từ Hải đã chết do chính nàng: "Tôi khao khát chân tính, nhưng thân phận tại thế của tôi trong lịch sử đã đến cùng đường, có chăng con đường nào khác đưa thân phận tại thế nầy đến với chân tính?"
Đoạn-Trường Tân-thanh mở ra chân trời của niềm hy vọng: Chân trời đó không phải một cõi khác theo nghĩa của hiện hữu sự vật (ordre ontique), nhưng một cõi khác trong các mối tương quan làm nên chân tính con người (ordre ontologique). Cõi mới nầy là các mối tương quan tìm lại chân tính mình làm phát sinh một niềm vui mới. Cũng Kim Trọng, cũng Kiều, cũng bản đàn Kiều vổ, nhưng, Kim Trọng xưa xuất hiện với nhạc vàng và niềm vui không phát ra từ chân tính, nay chàng xuất hiện trong chân trời mới được nhìn từ Tâm của chàng:
Chàng rằng: Phổ ấy tay nào?
Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?
Tẻ vui bởi tại lòng nầy,
Hay là khổ tận, đến ngày cam lai? (câu 3207-3210).
Nên Thiên-đàng, Niết-bàn không phải nơi nào sau, trên hay dưới theo trật tự của sự vật, nhưng là tương quan chân thật giữa người với người, giữa người với Trời, giữa người với thế giới chung quanh, trong cuộc sống thường nhật của mình.
Nhưng tương quan chân thật đó mãi vẫn còn là cõi chung mãn của niềm hy vọng trước những nguy cơ của Tài và Mệnh đang tương tranh trong thân phận con người tại thế; và câu hỏi rốt ráo hàm ngụ ở đây là: Duyên nào nữa cho phép tôi vĩnh viễn chết đi con người cũ để vĩnh viễn cư ngụ trong nhà chân tính, quê thật của con người tôi?
[1] Martin Heidegger, Être et Temps, trad François Vezin, Ed Gallimard, Paris, 1986, tr. 506
[2] Theo lối nói của Heidegger là thời gian căn nguyên.
[3] Sự xuất hiện của một Hồ Tôn Hiến trong nguyên bản, cũng như trong Đoạn Trường Tân Thanh dấy lên nhiều lời phê bình khá gay gắt về giá trị liên tục của toàn câu truyện. Cả hai tác giả nêu lên hình ảnh bá đạo, giả hình của khung cảnh xã hội-chính trị: quan trên trí tá, vô tâm, quan dưới ngu si, hèn nhát...một mặt như phản ảnh nỗi chán chê của hai tác giả đối với xã hội đương thời; nhưng mặt khác cũng gợi lên khung cảnh văn hoá chết chìm, ngủ yên trong những hình thức hay cơ cấu xã hội bên ngoài. Phải chăng đây cũng là tâm thức của con người ngày nay đối với các cơ chế và quyền hành xã hội, tiêu biểu cho nét giả tạo của cõi nhân sinh? Nhưng có biện minh như thế nào, thì cốt lõi câu truyện xét về mặt nhất quán của chủ đề có thể chấm dứt phần lưu lạc của Kiều nơi cái chết của Từ Hải.
[5] Xem câu 2397-2416 cuộc đối thoại giữa Giác duyên và Kiều sau khi Kiều được báo về các mối oan nghiệt trước đó.
[6] Đạo Đức Kinh, chương 50.
[8] ISAIA, 65, 12; 16; 17; 25