Chương IV
Yếu tính của tư tưởng
qua tác phẩm
Đoạn-Trường Tân-Thanh
Hình thức diễn tả của tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh vay mượn lối văn chương tiểu thuyết. Phương thức dùng một câu truyện có tính cách tượng trưng xuyên qua các hình ảnh cụ thể trong cuộc sống của một cá nhân nhằm gợi lên những nội dung tư tưởng về thân phận con người nói chung, không phải là một sáng kiến độc đáo của Nguyễn Du; trong kho tàng văn hoá nhân loại, nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng hướng dẫn nếp sống con người cũng sử dụng hình thức diễn đạt nầy: Chẳng hạn các bản kịch của Sophocle, Eschyle; các bản văn Cựu ước như sách Sáng thế, sách Job; kịch bản Faust của Goethe; Tây Du ký của văn chương Trung Hoa; các tác phẩm tiểu thuyết cũa Dostoievski; quyển I của Lĩnh Nam Chích Quái...Nhưng trong hình thức diễn tả nầy, Nguyễn Du có được đặc sắc riêng là dùng phần dẫn nhập của Đoạn-Trường Tân-Thanh để minh nhiên nêu lên rõ chủ đề suy tư, và sắp đặt lại thành một hệ thống, dù rất cô động, trong phần tổng luận. Điểm đặc sắc nầy xích gần tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh với lối trình bày tư tưởng của các tác phẩm văn hoá ứng dụng lối văn chương hệ thống hoá có tính cách trừu tượng hơn, như Trung Dung, Đạo Đức kinh hoặc các luận văn triết học Tây phương.
Nhưng điểm quan trọng không phải ở trong lối hình thức văn chương, dù rằng nỗ lực nầy của Nguyễn Du là một công trình xuất sắc trong tiến trình văn học Việt Nam.
Điểm quan trọng mà chúng ta đã phân tích rõ trong phần dẫn nhập, là điểm khởi phát thiết định đâu là khung trời của tư tưởng. Nói cách khác điều gì đáng gọi là tư tưởng hay yếu tính của tư tưởng là gì?
Tư tưởng bao giờ cũng là câu tra vấn cho đến cùng để có được câu trả lời về nền tảng tối hậu. Nhưng tra vấn về việc gì? Nếu lấy hình ảnh của một vụ án, chúng ta có thể đặt câu hỏi: có gì oan ức cần phải xử cho ra lẽ, nội dung nào cần được nêu lên để tra vấn?
Truyền thống triết học cho rằng nội dung thiết yếu của vụ án là thắc mắc về nền tảng thiết định bản chất của mọi sự hiện hữu. Mệnh đề nầy thoạt tiên xem ra như đã đạt được đến mức rốt ráo. Kỳ thực, đằng sau khởi điểm "thắc mắc" nầy còn có những vấn nạn nguyên sơ hơn nữa chưa từng được xác minh, mà truyền thống triết học nầy xem như đương nhiên, thường được gọi theo ngôn ngữ chuyên môn là tiên thiên (a priori), nghĩa là vốn đã như thế. Trong những vấn nạn đó, theo sách Job phải lưu ý đến lời chất vấn nầy của công lý, đó là vấn đề thân trạng của chủ thể đặt câu hỏi. Sách Job viết:
Ta sẽ chất vấn ngươi và ngươi cho ta hay.
Ngươi đã ở đâu khi ta đã dựng nên trái đất?
Hãy nói đi, nếu sự hiểu biết của ngươi minh bạch"[1].
Nỗi khắc khoải về thân trạng nầy là thắc mắc nguyên sơ của bi kịch Hy lạp, đặc biệt trong các kịch bản của Sopocle (xem Oedipe vua), cũng như các tác giả truyện Bánh dày, Bánh chưng trong Lĩnh Nam Chích Quái. Lang Liệu hoang mang về thân trạng của mình trước ý định của cha. Lang Liệu đã nghe nhưng không hiểu. Trong sách Sáng Thế ký của Cựu ước, Adam và Evà đã hái trái hiểu biết để phân định tốt xấu, tráo đổi thân trạng của mình làm thân trạng của Giavê Thiên Chúa, nên đã sai lạc.
Ta sẽ thấy Triết học Tây phương khi nêu lên thắc mắc về nền tảng đã tiền kiến rằng câu hỏi nầy phát xuất do tự khả năng mình, theo ý mình. Trên bình diện hữu thể học, mọi sự như đã ở trong quyền lực của con người, từ nguồn gốc câu hỏi, sự kiện nêu lên câu hỏi (mọi sự hữu) và nền tảng của nó, đều đã được thiết định. Bước nhảy vọt ra khỏi thân trạng của mình như thế cũng là bước khởi đầu hay bình minh của tư tưởng triết học truyền thống.
Thực vậy, trước khi xác định nền tảng cho lối suy tư triết học nầy, trong Bài Ca Hữu Thể Parménide đã diễn tả bước nhảy vọt kỳ lạ trên đây một cách khá chi tiết. Trong giấc mơ, Thần thánh đã đưa con người lên trời xanh vượt qua ngưỡng cửa phân chia Đêm-Ngày để sống trong cõi hiểu biết đầy ánh sáng của Hữu thể. Trong cõi đó mọi sự đều ở trong chân lý, vì "Bất luận ta bắt đầu từ đâu, vì ta sẽ trở lại nơi đây" [2]. Từ nay tư tưởng sẽ dựa trên nền tảng duy nhất có tính cách căn cơ về thân trạng nầy: "Hữu thể không phân chia, vì toàn thể hữu thể đồng nhất với chính mình" [3]. Do đó có thể nói Hữu thể là Hữu thể, và Vô thể là Vô thể; và tư tưởng thuộc về hữu thể nầy nên "tư tưởng và đối vật của tư tưởng trùng hợp nhau" [4].
Rồi tác giả còn nói thêm, đó là Định mệnh đã trói buộc như thế.
Có gì khác giữa bài ca hữu thể nầy và bi kịch Hy lạp đặc biệt trong bản kịch "Oedipe vua" của Sophocle? Sophocle gợi ý rằng sự hiểu biết ngày là ngày, đêm là đêm của Oedipe hàm ngụ sự quên lãng một tương quan thiết yếu, nên đã tạo ra tình trạng cô độc của Oedipe. Oedipe đã giết cha mình là Laios, dành thân trạng của cha để ăn nằm với chính mẹ mình mà không hay. Bi kịch chính là nỗi oan của lạc lầm gắn với kiếp con người tại thế. Nên tư tưởng gắn liền với thảm kịch không khởi đầu từ sự hiểu biết ngày là ngày đêm là đêm; nhưng là nỗi khắc khoải khi nghe được tiếng gọi từ Đại-ký-ức thức tỉnh con người về thân phận lầm lạc mình đang sống, đồng thời cảm nhận tình trạng bất cập về mối tương giao với người cha Laios, mà mình đã giết mất rồi.
Ngược lại, điểm khởi phát của Triết học Truyền thống đã tiên liệu sự đồng nhất tính giữa Laios và Oedipe. Đây là hình ảnh để nói lên nguyên tắc đồng nhất hay tác động đồng nhất hoá. Nguyên tắc đồng nhất ấy hàm ngụ một sự vững chắc cô đơn của Hữu thể bất động tự đủ cho mình, đồng thời cũng hàm ngụ sự đồng nhất giữa tư tưởng và vật thể mình muốn biết. Ứng dụng nguyên tắc nầy vào sự trôi chảy của thời gian, người ta sẽ có tính hữu lý hay tất định của nguyên tắc nhân quả. Như thế Nguyên tắc đồng nhất được xem là nền tảng bất khả kháng và hiển nhiên đi trước cả câu hỏi về nền tảng của mọi sự hữu. Thắc mắc về nền tảng ở đây xuất lộ như là một thắc mắc giả tạo, qua lối đặt câu hỏi: Cái gì? Tuy đấy là một câu hỏi, nhưng đã hàm ngụ một câu trả lời, hay nói cách khác buộc câu trả lời phải nằm trong chính cái nền mình đã có sẵn trước trong tay. Tại sao như thế? Vì cái gì trong câu hỏi nầy phải được hiểu vừa là cái nền chung, lại vừa đồng hoá với khả năng con người nêu câu hỏi.
Nói cách khác "Cái gì" xuất lộ ra trong sinh hoạt con người vừa như một câu hỏi và đồng thời cũng tiên liệu được câu trả lời. Nói theo Parménide, tự nó, hữu thể dù ở đâu đâu đi nữa, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng không thể phân chia, nhưng đồng nhất với mình, tự đủ cho mình. Nên từ nền tảng nầy mọi câu hỏi có thể đều được phát biểu như nhau: Thiên Chúa là gì? Con người là gì? Cha tôi là gì? Củ khoai là gì? Kỳ cùng tôi là gì?
Hữu thể học nầy chi phối vận mệnh của lối đặt vấn đề tư tưởng của truyền thống triết học Tây phương, từ Aristote cho đến nay.
Người ta thường nhắc đến Nietzsche như kẻ thù của tư tưởng truyền thống triết học, vì đặt ngược lại vấn đề, không phải Hữu mà là Vô là nền tảng của Thiên nhiên và cuộc sống con người. Nhưng Vô của Nietzsche trong hư vô chủ nghĩa của ông lại đã nằm trong khung Hữu-Vô nầy.
Ông đã táo bạo nêu lên khả năng nói ngược lại: Hữu là Vô là Vô là Hữu, nhưng Vô hay Hữu của Nietzsche cũng tiền kiến tiêu chuẩn đặt vấn đề của Parménide. Nietzsche mặc dù đã quay lại truy cứu thời bi kịch Hy lạp, nhưng không vượt qua được tiền kiến hữu thể học của triết học truyền thống. Ông đã tìm ra nơi bi kịch, căn cơ Vô làm nền cho tư tưởng. Nhưng "Vô" của Nietzsche, cũng như Hữu của Parménide đều là tính đồng nhất giữa khả năng con người và chân tính hay vô chân tính. Nietzsche chưa nhận ra cái khác về cách đặt vấn đề tư tưởng nơi bi kịch, ông chỉ nêu lên cái ngược lại trong khung trời Đêm-Ngày, Hữu-Vô của Oedipe lúc chưa tỉnh ngộ hoặc trong sự đối nghịch Hữu-Vô của Parménide. Heidegger nhấn mạnh rằng hư vô chủ nghĩa tự căn không phải nằm trong lối nói ngược lại với Hữu của hữu thể học truyền thống, nhưng hư vô chủ nghĩa là vận mệnh chung của toàn bộ hữu thể học, bao gồm việc nhấn mạnh Hữu hoặc Vô của nó:
Hư vô chủ nghĩa đúng hơn, nếu được suy nghĩ trong yếu tính của nó, là vận hành nền tảng của Lịch sử Tây phương" [5].
Nói cách khác chữ "ai" gắn liền với cõi người ta chưa hề bao giờ được nêu lên thành câu hỏi.
Hư-vô phát xuất từ bước trật chân căn bản về thân trạng của câu thắc mắc về tư tưởng, do hành vi đồng-nhất-hoá đi trước nó như nghiệp chướng của thân phận con người tại thế. Đồng-nhất-hoá là một lối nói của nhà Phật về chữ Karma tạo ngã-chấp. Sách Sáng thế dùng hiện tượng bàn tay hái trái cây hiểu biết để đồng nhất hoá mình với Thiên Chúa. Từ lúc ấy mọi sự hiện hữu đều là cái gì, kể cả con người và Thượng đế.
Hư vô không phải là không thực hiện được cái gì trong viễn tượng của hữu thể học truyền thống. Lịch sử chứng minh con người đã dùng kiến thức của mình để hiểu biết nhiều chuyện, làm được những điều mình ước muốn một cách hữu hiệu. Con người đã từng nối dài cuộc sống, rút ngắn lại thời gian xa cách bằng các phát minh kỹ thuật giao thông, xoá bỏ ngăn cách không gian bằng kỷ thuật truyền thông điện tử...nhưng tất cả không giải thích được tại sao giữa ngày hội Đạp Thanh, muôn người chen chúc, Kiều lại không thấy bóng dáng một ai để tương giao; và tại sao gần đến như vợ chồng, cùng giường mà xa cách vì khác mộng!
Gioan, một trong những nhà chép Kinh Thánh Tân ước đã nói về hư vô như sau:
"Họ đã ra đi, lên thuyền; đêm đó, họ đã không bắt được gì" [6].
Họ không bắt được gì, vì toàn bộ nỗ lực của họ nằm ở trong khung của đêm đó. Toàn bộ có-không được Parménide cho là đã sáng tỏ trong cảnh ngày hoàn toàn khai mở: Người-Trời- Đất đã được đồng nhất hoá. Nhưng ngày đó là đêm cho chân tính, vì chân tính không là cái gì tự đứng một mình, dù là Trời, người hay Đất - Mà chân tính là tương quan, là sự sống đặc loại của con người.
Trở lại với lối đặt vấn đề tư tưởng của Đoạn Trường Tân Thanh.
Thắc mắc nguyên ủy nêu lên trong phần dẫn nhập phát xuất không phải là ưu tư về sự hiểu biết bản chất của một cái gì; nhưng từ đầu, khung của tư tưởng là "cõi người ta" của ai và những ai. Chữ ai gói gọn chân tính con người tại thế ngỡ ngàng về thân trạng mình, được đặt thành vấn nạn trong mối xung khắc tài-mệnh dấy lên trong mình, làm con người đau khổ, nhưng không biết do từ đâu đến. Con người đã nghe lời chất vấn gián tiếp qua Mệnh để thấy được rằng quê thật hay chân tính của mình là một tương quan; nhưng thực trạng của thân phận tại thế của mình lại chìm vào "ngày của Tài", mà toàn bộ không có đường mở ra. Con đường duy nhất mở ra không phải do tự nơi Tài, vốn là ngã chấp luôn cố thủ đóng kín mình lại trong giấc mơ đầy an bình của riêng mình. Nhưng Mệnh là lời quấy rầy đến từ Chân tính, phủ định toàn bộ hư vô nơi Tài. Sự xung khắc khởi đầu cho thắc mắc về Chân tính, hay còn gọi là khởi đầu của tư tưởng, không liên quan gì đến xung khắc có-không, tinh thần-vật chất theo biện chứng pháp của Hegel - là xung khắc giữa hai đối cực trong khuôn khổ của Tài. Xung khắc Tài-Mệnh là cuộc vật lộn giữa nghiệp chướng đồng-nhất-hoá do ý chí quyền lực của ngã cô đơn, và chân tính thúc bách một sự mở ra để có tương quan; giữa trật tự của các cái gì và cõi người ta.
Nếu nền móng cho tư tưởng triết học truyền thống là nguyên tắc đồng nhất, hay đúng hơn là hành vi đồng nhất hoá (indentification), thì trong thân phận con người tại thế tư tưởng chỉ xuất hiện khi có lời chất vấn của chân tính, ta có thể nói là âm vọng của Đại-ký-ức, đến với con người, làm con người thấy hụt chân, hay thiếu vắng tương quan làm nền cho thân trạng của mình. Cảm thức thiếu vắng nầy, về phía con người, là điều kiện tiên quyết của tư tưởng. Cảm thức thiếu nền lại là nền cho tư tưởng. Ngôn ngữ tôn giáo gọi là lòng khiêm hạ, hay tinh thần nghèo (tâm hư = lòng trống rỗng).
"Phúc cho những kẻ nghèo trong thần trí" [7].Tư tưởng phát xuất từ cảm thức thiếu vắng, hàm ngụ niềm tin hay hy vọng Thời Chung Mãn trong đó Trời-Người sẽ nối kết. Bao lâu thân phận con người còn tại thế, chân tính của nó gắn liền với hữu hạn tính của "Thời tại thế nầy", được cảm nhận như cơn khát hay khổ căn nguyên làm sức mạnh đẩy con người vươn tới Thời Chung Mãn, vươn mãi lên đến tương giao Thái Hoà. Tương quan Trời-Người trong chánh nghiệp của con người có thân là khổ cứu độ, vọng lên từ "lòng ta", lòng của bất cứ ai là người.
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.
Thiện căn là Chân tính, và nay là Phúc thật cho những ai lìa quê an bình giả tạo của Tài, để làm người lữ hành trên bước đường đầy thách đố của Đạo Tâm.
Nhưng, Duyên nào đây sẽ đưa người lữ hành trên bước đường lưu lạc, xa quê đến bến bờ thời chung mãn?
[5] Xem M. Heidegger, Chemins qui ne mènent nulle part-Gallimard, Paris, 1980, tr. 263.