Hàng năm vào khoảng tháng chạp là bọn trẻ ngoài làng náo nức trông chờ Tết đến, còn thú vui nữa là tham gia tát đìa. Nói tham gia chứ thật ra đây là công việc của người lớn, khá nặng nhọc tùy thuộc vào đìa to hay nhỏ. Do nhu cầu, có những đìa được cơi rộng ra chứa nước sử dụng đến cuối năm vẫn còn đầy. Dây mây, cốc kèn, bình bát... mọc ven bờ rũ bóng xuống mặt đìa che khuất từng cụm bọt cá. Đìa có lùm bụi um tùm như vậy thường nhiều cá do môi trường sống thích hợp cho việc sinh sản, tăng trưởng. Sau khi thu hoạch lúa vụ mùa, nước đồng cũng “rọt” dần, các loại cá theo bản năng tìm đường xuống đìa trú ẩn.
Thường người ta không tổ chức tát đìa trùng ngày với nhau như để có dịp họp mặt đầy đủ vui hơn. Việc tát nước bằng gàu cũng rất công phu, giở chà xong họ luân phiên từ lúc ba, bốn giờ sáng để đến hừng đông chuẩn bị bắt cá. Những thân hình lực lưỡng, cơ bắp chắc, khỏe, thuần thục dẻo dai trút từng gàu nước nặng trịch. Quanh đìa ngồi túm tụm người nhà với thùng, thau, rổ múc, nơm... bàn tán, phỏng đoán về lượng cá sắp bắt. Gió sớm lành lạnh, giọng ai đó rè rè mộc mạc ngân nga: “Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc... Gió nào độc bằng gió Gò Công”. Thiệt lạ! Ai cũng rao xứ này “gió độc”, vậy mà mấy ai chịu rời bỏ quê đâu? Có cùng cực bất đắc dĩ tha phương thì lòng lúc nào cũng canh cánh niềm thương nhớ.
Nước cạn dần, cá lớn lặn ngầm chỉ ục nhẹ, cá nhỏ nhốn nháo như bọn trẻ chộn rộn chỉ trỏ hét vang... kìa cá chúi, cá chúi, mặc cho người lớn rầy rà. Vài người lội xuống khơi nguồn nước, ngừng gàu để tát vét bằng thùng thiết. Họ đặt bọng hứng cá trắng, tép trứng nhảy xoi xói từng đàn. Mấy con chim vòng vọc, sáo đen, cò quắm... từ nãy giờ ríu rít chực chờ ở các ngọn tre cũng sà xuống dáo dác kiếm ăn. Không khí khẩn trương, tất bật cho tới lúc mặt trời lên cao chừng ngọn sào là cạn nước, thời điểm dàn ngang bắt cá.
Người bắt phải có kinh nghiệm mò sâu tay, không sót chỗ nào, nhất là nơi rậm rạp, bùn sâu lút. Tiếng reo hào hứng, trầm trồ khi có người hai tay đưa lên chú cá lóc đen bóng to cỡ bắp chân, thuộc dạng lưu niên “mọc râu”. Lại xuýt xoa theo dõi anh móc hang cá trê đến con thứ mười vẫn chưa hết ổ. Cá lóc, trê, rô, sặc, chạch... được chuyền tay từng thùng lên bờ liên tục. Mấy bà, mấy cô í ới gọi nhau phân loại, thay nước, đổ cá vào lu, mái. Đôi khi tóm được lươn, rùa, rắn nước, rắn ri... mấy ông sồn sồn thấm ý cười vang “mồi bén đó nghen!” Bọn trẻ len lén, thập thò đặt chân xuống mặt bùn để bắt vội vài con cá nhỏ ló cái miệng tròn vo thoi thóp. Cảm thấy vừa lòng với kết quả thu được, gia chủ vỗ tay bồm bộp ra hiệu chấm dứt buổi tát đìa.
Nồi cháo cá đã sôi ở góc vườn, mấy tấm đệm trải sẵn chờ những người tham gia tát đìa tắm rửa xong là vào cuộc nhậu. Cây nhà lá vườn, tự biên tự diễn ai mà chẳng thích. Những dĩa cá trắng, tép trứng xào sả ớt vun đầy như mời gọi. Những con cá lóc to kềnh vớt từ nồi cháo chín nứt da, thịt căng trắng muốt. Than củi hừng hực cời ra đặt vỉ nướng cá trê, cá chạch... khói bốc thơm lừng. Nước mắm gừng, nước mắm me, muối ớt chanh... bày ra để dùng riêng cho từng món ăn mới gọi là đúng sách. Rau vườn đủ loại, từ cải trời, bông súng, đọt xoài, đọt choại, sầu đâu, quế, húng dây... đơm đầy các mâm bên cạnh những chùm ớt hiểm bẻ nguyên cành gợi nhớ nếp sống gần gũi thiên nhiên, thuở cha ông khai phá...
Tát đìa ngoài nguồn thu nhập phụ gia đình, còn là nét riêng trong sinh hoạt cộng đồng ở vùng quê, góp phần thắt chặt thêm tình làng nghĩa xóm...