JỚI-THIỆU Das Klagelied der Odaliske - CUNG-OÁN NGÂM-KHÚC CỦA ÔN-NHƯ HẦU NGUYỄN JA-THIỀU - Bản Đức-ngữ của Deusche Übersetzung von
CUNG-OÁN NGÂM-KHÚC, CỦA ÔN-NHƯ HẦU, NGUYỄN JA-THIỀU
Sưu-tập của, NGUYỄN QUỲNH, New York City 1979
LỜI MỞ ĐẦU
Cuốn sách nhỏ này chứa đựng thi-fẩm cổ-điển Việtnam lần đầu tiên được zịch ra Đức-ngữ.
Bản-zịch này zĩ-nhiên còn thiếu-sót nhưng hoài bão của nó là hiến cho độc-jả người Đức một fần nào những nét hấp-zẫn xa-lạ, những tư-tưởng độc-đáo và những vẻ đẹp tuyệt-vời của thi-fẩm vừa nói. Hi-vọng sự cố-gắng này sẽ khiến cho các thức-jả trong những miền nói tiếng Đức chú-í tới nền thi-ca Việtnam và thúc đẩy họ tiến tới những công-trình khảo-cứu có tính-cách khoa-học về nền văn-hóa Việtnam.
Cuốn sách này ra đời zo bởi tình-iêu của zịch-jả đối với đất nước này, nơi zịch-jả đã gi-nhận được trong năm năm trời tính hiếu-khách của người bản-xứ. Và zo đó cuốn sách này cũng là một cách ziễn-tả lòng tri-ân của zịch-jả vậy,
HUBERT HOHL
Saigon, Tháng 10, 1967.
VORWORT
Das vorliegende Büchlein bietet zum ersten Mal klassische vietnamesiche Dichtung in deutscher Übersetzung. Diese weiss sich unvollkommen, versucht aber dennoch dem deutschen Leser etwas von dem fremden Reiz, von der fernen Gedankenwelt und dem fremden Charme dieser Dichtung zu vermitteln. Sie hofft, im deuschen Sprachraum die Aufmerksamtkeit auf die Dichtung Vietnams zu lenken und so zu wissenschaft lichen Arbeiten über die Kultur Vietnams anzuregen.
Das Buchlein entsprang aus der Liebe des Übersetzers zu dem Land, in dem er während fünf Jahren die Gastfreundschaft erfahren durfte. So möchte es auch Ausdruck seines Dankes sein.
HUBERT HOHL
Saigon, im Oktober 1967
CUNG-OÁN NGÂM-KHÚC
DAS KLAGELIED DER ODALISKE
89. Quyền họa-fúc trời jành mất cả,
Chút tiện-ngi chẳng trả fần ai.
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ-mờ nhân-ảnh như người đi đêm.
Die Vollmacht,
glüklich oder ungüklich zu machen,
liegt-vollständig-beim Himmel;
dem Menschen bleibt
kleine Freiheit mehr
zu Handeln
Wie ein Kreisel,
der in den nächtlichen Himmel geworfen wird,
wandert der Mensch,
tastend
durch die Nacht seines Lebens.
93. Hình mộc-thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm-ngư ủ vũ e fong.
Tiêu-điều nhân-sự đã xong,
Sơn-hà cũng hoãn, côn-trùng cũng hư.
Pflanzen und Gestein
unterliegen dem Alter und der Zeit,
auch die Vögel und Fische
fürchten die Stürme.
So
ergeht es auch den Menschen,
nichtig sind sie,
nichtig sind auch die Insekten,
Flüsse, Berge.
97. Cầu thệ-thủy ngồi trơ cổ-độ,
Quán thu-fong đứng rũ tà-huy.
Fong-trần đến cả sơn-khê,
Tang-thương đến cả hoa kia cỏ này.
Über dem fliessenden Wasser
steht nur noch eine alte Brücke;
eine verlassene Herberge, *
vom Herbstwind gepeitscht,
steht erstarrt in der Melancholie des Abends.
Weder Berge noch Flüsse
entgehen diesem Schicksal,
die Vergänglichkeit erreicht alle,
das Gras und die Blumen.
101. Tuồng hoản-hóa đã bày ra đấy,
Kiếp fù-sinh trông thấy mà đau!
Trăm năm còn có jì đâu,
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì!
Bilder
mit Illusionen ziehen
vor unseren Augen vorbei.
Dieses oberflächliche Leben
mit all seinem Kummer
verzehrt uns.
So sagt,
Was wird auf Erden bleiben
von unseren hundert Jahren?
Ein Grabhügel,
den vielleicht grünendes Gras bedeckt.
105. Đường tục-lụy zường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo-đẳng trần-zuyên?
Cái gương nhân-sự chiền-chiền,
Liệu thân này với cơ-thiền fải nao.
Die Welt
und ihre Bindungen
sind voll Bitterkeit.
Wie soll ich mich
da an die irdischen Leidenschaften klammern?
109. Thà mượn thú tiêu-zao cửa Fật
Mối thất-tình quyết zứt cho xong.
Đa-mang chi nữa đèo bòng?
Vui jì thế-sự mà mong nhân-tình!
Ist es angesichts
dieser menschlichen Dramen
nicht besser,
mich dem religiösen Leben zu weihen
und die vollkommene Ruhe auf auf der Schwelle
von Buddhas Tempel zu suchen,
entschlossen ,
die Bande der sieben Leidenschaften
zu rerreissen?
Was nützt es,
mich mit ähnlichen Lasten zu beladen,
und, da dieses Leben nichts Angenehmes mehr bringt,
in menschlishen Bindunggen und Wünschen zu verharren?
113. Lấy jó mát trăng-thanh kết-ngĩa,
Mượn hoa-đèn đuốc-tuệ làm zuyên.
Thoát-trần một gót tiên-thiên,
Cài thân ngoại-vật là tiên trong đời.
Den kühlen Wind
und das Möndlicht zu Gefährten haben,
in der Nähe der heiligen Blume Buddhas
und im Licht
der Flamme seiner Weisheit verweilen,
dieser Welt
und all ihren Dingen entrinnen
und entsagen,
das bedeutet hier unten:
glücklich und heilig zu sein.
117. Í cũng rắp ra ngoài đào-chú,
Quyết lộn vòng fu-fụ cho cam!
Ai ngờ trời chẳng cho làm,
Quyết đem zây thắm mà jam bông đào.
Ich wollt’ mich
freihalten vom Gesetz der Zeugung und Schöpfung,
mein Entschluss war
die Ehe zu meiden.
Aber,
ohne den Willen des Himmels
dacht’ und rechnete ich.
Er hatte beschlossen,
die Pfirsichblüte mir dem roten Faden
den Ehe zu binden.
121. Hẳn túc-trái làm sao đó tá?
Hay tiền-nhân hậu-qủa xưa kia?
Hay thiên-cung có điều jì?
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi?
Kein Zweifel:
ich begleiche eine alte Schuid.
Diese Frucht der Gegenwart
wuchs hervor
aus einem Keim von früher.
Oder,
muss ich für eine Sünde,
begangen im Himmelspalast,
wie ein gefallener Engel
auf dieser Erde sühnen?
125. Kìa điểu-thú là loài vạn-vật,
Zẫu vô-tri cũng bắt đèo-bòng.
Có âm-zương có vợ-chồng,
Zẫu từ thiên-địa cũng vòng fu-thê.
Vögel und Tiere,
all die Tausend Geschöpte zahlen,
nur wissen sie es nicht,
ihren Tribut.
Männliches und Weibliches
Sind das Prinzip
des Ursprungs und der Ordnung.
Sie bestimmen
die Vereinigung von Mann und Frau.
Auch der Himmel und die Erde
unterliegen diesem Gesetz.
129. Đường tác-hợp trời kia zun-rủi,
Lọt làm sao cho khỏi nhân-tình?
Thôi thôi, ngảnh mặt làm thinh,
Thử xem con Tạo jeo mình nơi nao.
Gottlichem Wirken und Wollen
entstammt
das Eins – Sein der Geschlechter?
Können wir
uns da den Gefühlen entziehen?
Genug!
Ich wende mich schweigend ab.
Ich warte,
ich will sehen,
wohin der Schöpfer mich stösst.
133. Tay nguyệt-lão khờ sao có một!
Bỗng tơ-tình vướng gót cung-fi
Có đêm hôm ấy, đêm jì?
Bóng zương lồng bóng đồ-mi trập-trùng.
Was er denn ungeschickt,
dieser Mondgreis,
als er mich mit dem roten Faden der Liebe
zur Odalisks machte?
Was geschah denn
in jener Nacht, schwer von Erinnerungen,
da der Schatten der Sonne
die Kamelie berührte
und sie
mit unendlichter Zärtlichkeit
erweckte?
137. Chồi thược-zược mơ-mòng thụy-vũ
Đóa hải-đường thức ngủ xuân-tiêu.
Cành xuân hoa chúm-chím chào,
Jó đông thôi đã cợt đào gẹo mai.
Diesen Augenblick
voll süssen Traumes
habe ich im Geheimen ersehn
wie eine Pfingstrosenknospe
die nach guttem Regen dürstet;
wie die Blüte der Eberesche
fast entschlumment unter dem Zauber
der kostbaren Frühlingsnacht.
Lächeln lag
auf den Liebesspiel
von Ost-Wind und Pfirsichblüte
zuschauten.
141. Xiêm ngê nọ tả-tơi trước jó,
Áo vũ kia lấp-ló trong tăng.
Sinh-ca mấy khúc vang lừng,
Cái thân Tây-tử lên chừng điện Tô.
Die regenbogenfarbigen Kleider
flattern jetzt in der Luft,
und die Tanzkleider aus Federn
erscheinen und verschwinden
im Mondlicht
beim Klang der Melodien,
die der Flötensang erwidert.
Ich verglich
mein Glück mit dem von Tây-thi,
wie sie die Balustrade
des Palastes von Cô-tô hinaufstieg.
145. Đệm hồng-thuý thơm-tho mùi xạ,
Bóng bội-hoàn lấp-ló trăng thanh.
Mây-mưa mấy jọt chung-tình,
Đình trầm hương khóa một cành mẫu-đơn.
Daunen aus dem Gefieder von Seeschwalben
vertrömten Moschus-Duft.
Mein Halsschmuck
aus Perlen
funkelte im Mondschéin.
Brennende Liebe
enzündete in mir das Begehren.
Eingeschlossen lebte ich
im Sandelholz-Palast,
ehrfurchtsvoll gehütet
wie die Königin der Blumen.
149. Tiếng thánh-thót cung-đàn thúy-zịch,
Jọng nỉ-non ngọn địch đan-trì.
Càng đàn, càng địch, càng mê,
Càng gay-gắt điệu, càng tê-tái lòng.
Die süsse Musik meines Zimmers
vermischte sich
mit den klagenden Tönen der Flöte
vor der rosenfarbenen Markise.
Je länger
Dieses Konzert währte,
und so mehr betäubte es mich;
der Rytmus des Verlangens
rührte mein trauriges Herz.
153. Mày-ngài lẫn mặt-rồng lồ-lộ,
Sắp song-song đôi nố nhân-zuyên.
Hoa thơm muôn đội ơn trên,
Cam công mang tiếng thuyền-quên với đời.
Meine Wimpern,
fein wie die Haare des Seidenspinners,
streichelten
das majestätische Gesicht des Drachen.
So wurden
wir zwei
ein uns gehörendes Paar,
Als ausersehene Blume,
Herr,
schulde und danke ich Euch,
Majestät,
dieses unermessessliche Glück.
Euren Lohn und Dank
erhielt ich
für meine Jugend und Schönheit.
157. Trên chín-bệ mặt trời gang tấc,
Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu.
Fải zuyên hương-lửa cùng nhau,
Xe zê lọ rắc lá zâu mới vào.
Oben, auf der neunten Stufe,
war ich
ganz nahe beim König,
dem ich morgen und abends
allein dienen durfte.
Ich brauchte
die Ziegenbocke, die den königlichen Wagen zogen,
nicht anzulocken mit hingestreuten
Blattern vom Maulbeerbaum,
denn wir waren
durch die ernsthafte Ehe
gut vereint.
December 18, 2011
(còn tiếp)
(fortzetzung folgt)