Trước năm 1975 tôi chưa hề gặp Trần Kiêu Bạt, chỉ biết tên nhau qua thơ văn đăng rải rác trên các tạp chí văn nghệ tại Sàigòn. Bạn quân cảnh Cần Thơ, tôi lính trận đóng quân ở tiền đồn heo hút quận Tánh Linh, Bình Tuy, giáp ranh tỉnh Lâm Đồng. Năm 1972, nhà xuất bản Khai Phá của nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm ấn hành tập thơ Vườn Dĩ Vãng của tôi, có giới thiệu in thơ của Trần Kiêu Bạt. Chờ mãi không thấy, có lẽ bạn tôi đang bận coi tù ở Côn Đảo, cách xa đất liền nên không tiện liên lạc để xúc tiến công việc như dự định.
Cuối tháng 10 năm 1993 gia đình tôi qua Mỹ theo diện H.O. Hà Thúc Sinh đưa TKB đến thăm tôi. Đó lần đầu tiên tôi và Bạt gặp mặt nhau. Nhà hai bạn gần này nhau, cách một con đường ở thành phố Alhambra, nhà tôi thì ở El Monte thuộc quận Los Angeles cách nhau 15 phút lái xe. Từ đó cứ mỗi cuối tuần, nửa tháng hoặc có tiệc vui 3 gia đình bọn tôi họp mặt, bạn bè con cái vui vẻ càng ngày càng thắt chặt thêm tình thân. Khề khà bên ly rượu 3 đứa tôi bàn chuyện thế sự, nhắc chuyện quê nhà, chuyện bạn bè người mất người còn, kẻ lưu lạc xứ người. Những lúc như vậy Phạm Nhã Dự, Trần Phù Thế ở các tiểu bang khác xa tận miền Đông Hoa Kỳ cũng thường gọi điện thoại góp chuyện.
Trần Kiêu Bạt ngâm thơ rất hay, giọng sang sảng cuốn hút người nghe. Khi ngà ngà say yêu cầu mãi anh mới ngâm vài bài thơ đắc ý của bạn. Hành Phương Nam, một tuyệt tác của nhà thơ Nguyễn Bính được bạn ngâm nhiều nhất:
...Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Mà ta với người buồn vậy thay
Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say
Lời thề buổi ấy cầu Tư mã
Mà áo khinh cừu không ai may...
“Mà ta với người buồn vậy thay”. Bạn vừa ngâm vừa nghẹn ngào rơi nước mắt, ngâm xong uống cạn ly bia, ôm đầu gục mặt khóc. Nỗi lòng của bạn, của tôi, của những người tị nạn sống trên đất tạm dung này đều như nhau. Nỗi buồn mất nước. Niềm đau của cả một dân tộc. “Vui là vui gượng kẻo mà”. Vui chỉ thoáng qua còn buồn thì vạn cổ. “Lời thề buổi ấy cầu Tư mã” Biết đâu...sẽ có một ngày...
TKB tính bộc trực, hào sảng, phóng khoáng, dám sống chết với bạn bè. Hà Thúc Sinh thì bệnh hoạn triền miên vì hậu quả của những trận đòn thù trong các trại tù cộng sản. hai khớp xương háng mục rệu được tháp lại bằng hai thanh inox. Anh em văn nghệ tặng anh biệt hiệu là “trung tâm y tế toàn khoa”. Mỗi lần trái gió trở trời, bệnh nặng hay nhẹ, HTS ới lên một tiếng là TKB đến cạo gió, đấm lưng, bóp tay chân... Vợ tôi vốn ốm yếu, nhỏ con, cân nặng chưa đầy 80 pound, qua Mỹ mấy ngày đã lao vào may vá, làm mỗi ngày trên 14 giờ, có khi còn thức trắng đêm. Một vài lần bị xỉu ngay trên bàn máy may. Nhà không có ai, các con đi học, tôi lo sợ cuống cuồng gần như tuyệt vọng, chính TKB đã chạy đến chở vợ tôi đi nhà thương cấp cứu.
Không những chỉ với gia đình tôi, gia đình HTS mà với tất cả mọi người, quen thân hay sơ, nếu cần bạn tôi có mặt ngay, giúp đở tận tình, kể cả tiền bạc. Bạn thường tâm sự với tôi: “mình qua Mỹ trắng tay, nay thêm một lần trắng tay nữa thì có sao đâu”. Con người của TKB là như thế. Tấm lòng nhân hậu của bạn tôi thể hiện qua sự chí thành, chí tình với tha nhân. Cung cách sống ấy khó có ai bì được. HTS thường giục chúng tôi in thơ. TKB ậm ừ cho qua chuyện. Làm sao in thơ được hở bạn hiền? Tôi tù cộng sản 9 năm, ra tù trốn trình diện, sống chui rúc bửa đói bửa no, tìm đường vượt biên. Thân tàn sức kiệt, lo chuyện cơm áo chưa xong thì đầu óc đâu nghĩ đến văn chương chữ nghĩa.. Tôi có làm một số bài thơ, học thuộc và dấu trong đầu. Thơ Tù. Thơ Đời. Thơ cho vợ con, bè bạn. Thơ cho tôi nhìn lại tôi, nghiền ngẫm về người, về đời, về một thời khốn nhục đã qua:
Đã lâu rồi ba không làm thơ nữa
bởi vì ba không nhìn thấy ba đâu
là chiếc bóng bên trời hiu quạnh
ba dật dờ như xác lá nổi trôi
Trong cuộc sống ba không là gì cả
trong gia đình ba là kẻ mộng du
nhìn bốn phía thấy mặt trời mọc khắp
nhưng mặt trời đâu phải của riêng ba
Con đừng hỏi tại sao ba im lặng
có điều gì đáng để nói đâu con
ba đã uống đắng cay trong men rượu
giết đời ba và giết cả đời con
Tình thân, sự gắn bó giữa 3 gia đình tưởng không thể rời xa. Vậy mà sau đó HTS bỏ Cali qua Charlotte với Vũ Uyên Giang, TKB sang Arizona. Mỗi lần ra đi đều có tiệc tiển đưa. Tửu lượng TKB vào hạng cừ khôi, bạn chấp tôi một bạn hai chai bia, HTS thì nhấp nháp cầm chừng. Tivi mới mua. Tủ lạnh mới mua. Sopha mới mua...hai bạn năn nỉ giao cho tôi giữ dùm gọi là để nhớ nhau. Làm sao tôi có thể nhận được? Gần 40 năm thân nhau như anh em ruột thịt, vừa là bạn văn nghệ vừa là tình chiến hữu, tôi nghèo, bạn nghèo, song chúng ta bao giờ cũng bảo vệ cho đến hơi thở cuối cùng danh dự của người lính, khí tiết của kẻ sĩ; dù bị hành hạ, tra tấn trong ngục tù CS hoặc bị nhận chìm dưới đáy địa ngục CS.
Xa nhau chúng tôi vẫn thường xuyên nhận được tin nhau. Một hôm, vào khoảng 4 giờ sáng điện thoại reo vang, bên kia đầu giây Phạm Nhã Dự báo tin động trời:”Trần Kiêu Bạt chết rồi mày biết không, mày có biết không?”. Tôi không tin ở tai mình, hỏi gặng: ”mày nói gì, nói lớn lên, TKB làm sao, làm sao?”. Đúng rồi, bạn tôi, nhà thơ tốt bụng ấy đã chết năm 2005 trong một tai nạn xe cộ vào lúc nửa đêm. Tôi chết điếng người, tự nhiên mệt muốn tắt thở.
HTS lúc đó bệnh nặng, tôi xe cộ không có, lại quá gấp rút nên không có mặt tiễn bạn đến nơi an nghỉ cuối cùng, đành phải gởi vòng hoa phúng điếu.
Năm sau, vợ chồng tôi đi Arizona mang chút quà mừng 2 cháu Đường Thi, Đường Vân ra trường, thắp nén hương, đọc bài thơ khóc TKB và đặt bài thơ trên bàn thờ bạn cùng bài thơ của Trần Phù Thế.
Hơn 3 năm nay, kể từ ngày bạn xa người đời, hình ảnh bạn vẫn còn ẩn hiện trong tâm trí tôi và sẽ còn mãi mãi... Tấm lòng nhân hậu của bạn. Cách thế sống của bạn. Tôi không tin là bạn đã vĩnh viễn ra đi mà bạn đang rong chơi một nơi nào đó an nhiên và thơ mộng hơn: Cõi Riêng Trần Kiêu Bạt.
Trần Văn Sơn – CA. cuối tháng 12/2008
Khóc Trần Kiêu Bạt
Tin dữ đến bất ngờ
lòng ta đau như cắt
ba năm không gặp mặt
khoảnh khắc bạn xa đời
ba năm không gặp mặt
giờ đã thành thiên thu
Xưa đóng quân Võ Đắt
bạn quân cảnh Cần Thơ
lính tiền đồn đánh giặc
biết nhau qua văn thơ
trai giữa thời loạn lạc
sống chết có ai ngờ
Quê người bạn phất phơ
mười năm còn ngơ ngác
việc đến cứ bảo chờ
lần khân đầu đã bạc
cánh buồm xưa rách nát
không ủ gió tương lai*
Khóc bạn giọt lệ khô
nghẹn ngào câu tử biệt
con dại, vợ bơ vơ
giữa ta bà sinh diệt
Có. Không. Bạn trở về
cõi riêng Trần Kiêu Bạt
TVS – El Monte, CA. 2005
* thơ Trần Kiêu Bạt.
THƠ TRẦN KIÊU BẠT (trích)
Đêm ở Gia định thành
đêm cận Tết Ất Mão trên Nghinh Phong Các của Hà Thúc Sinh: 2/75
gác vắng đêm nay trời trở lạnh
chiếu chăn không ấm được lòng trai
đàn ai trong gió nghe buồn quá
nghe tựa hồ như tiếng thở dài
bạn hiền muốn gọi không đành gọi
độc ẩm như người chiến quốc xưa
cờ đời dang dở đau nghìn kiếp
mộng lớn tan rồi chuyện gió mưa
người xưa sống giữa thời dâu bể
chí lớn hai tay muốn vá trời
hỡi ơi, ta cũng đời dâu bể
sao lòng những tưởng chuyện rong chơi
tự do hề – ngày nay có khác
người xưa đất rộng dưới chân đi
ta nay hề đi không hết bước
quẩn quanh quanh quẩn một góc hè
người xưa hề, giận đi làm loạn
kiếm chém cho tan cái bất bằng (*)
ta nay hề, giận ngồi bó gối
ngó ngày ngó tháng ngó năm tan
cất giọng ngâm tràn câu khí khái
mềm môi không dứt, ý hoang mang
nghìn khuya rồi chỉ mình ta thức
đối ảnh đêm trường một bóng trăng
(* )ý thơ cổ
Những hồn tan nát kia ơi
hãy nhớ rằng ta vẫn sống
có phải đêm nay đông đủ cả
bạn ta những kẻ biết làm thơ
sống thời cô quạnh như đêm tối
mỗi ngày lụn chết một cơn mơ
có phải đêm nay không hẹn trước
vô tình sương gió dạt về đây
những cánh bướm xưa giờ đã rách
không còn giữ được gió tương lai
có phải lở rồi bao mong ước
bạn ta hồn lạnh bấy lâu nay
bạn ta tan nát vì chinh chiến
sống chết cầm như chuyện rũi may
có phải thương thân mà muốn khóc
hỡi ơi đầu bạc tuổi ba mươi
ngày bụi điểm mồ hôi chí lớn
đêm nghe máu nhỏ lịm đời vui
thì hãy cùng nhau mà uống rượu
tưởng người thất chí mùa thu xưa
dù sao hãy nhớ ta còn sống
sá gì dâu bể nắng cùng mưa
giang hồ như lá trong giòng lũ
thì hãy vui lên buổi gặp này
nhớ chăng hảo hán ngàn năm trước
tung chén cười run hơi rượu cay
sương xuống ngoài kia dù có lạnh
bạn ta hãy uống tàn canh thôi
tữu phá thành sầu ai đó nhỉ
hẳn giết bao nhiêu nỗi ngậm ngùi
2/75
Phải người là mộng tình tôi
gặp người trong buổi tà dương
áo bay loáng thoáng mùi hương đã gần
giọng tôi thưa rất ngập ngừng
hỏi rằng có phải mùa xuân đang về
gặp người như thể cơn mê
xuống tôi hồn quạnh bốn bề tịch liêu
lẫn trong sắc chút yêu kiều
ngoài khoe dáng nữ trong chiều thanh tân
gặp người chẳng ngại làm thân
nhìn trong đôi mắt ngỡ gần từ lâu
hồn tôi lâu lắm còn sầu
có thương xin gởi chút màu nhớ nhau.
Trên đường về nhà Đỗ Kim Hương
dường như trong bóng chiều rơi
có bay một chút gọi mời từ lâu
chân vui những bước rạt rào
nhà em đã hiện dưới màu tà huy
Tàn cuộc
Chưa tới ba mươi mà đã chín
cả hồn lẫn xác tự hôm nao
khuya nay chút gió về run lá
lá rụng âm thầm một kiếp đau
15/1/75
Người đi là chết cả hồn tôi
gởi theo chút gió làm thương nhớ
người về đầu bãi cuối sông kia
vai nghiêng cho rớt vành trăng lạnh
là chết hồn tôi buổi cách chia
buồn cứ gượng vui mà muốn khóc
mỗi người nay đã mỗi đời riêng
còn đây, yêu dấu bao nhiêu đó
cũng đủ đời tôi đến lặng chìm
ra đi cầm chắc là tan hết
tháng ngày chất chứa tháng ngày đau
quanh đây hương phấn xưa nhiều lắm
mà thấy dường như đã nhạt màu
không đành như thể là vô vọng
lòng người đâu biết được buồn vui
tình yêu sót lại đời tôi đó
dẫu đến tàn hơi cũng ngậm ngùi
dẫu cho mai mốt hay hơn nữa
thuyền về xin đậu bến đò quen
hồn tôi áo trắng kia còn mới
là để chờ mang kích thước em.
ngày giã từ Cần Thơ
hôm đi, không gặp được người
ở nơi đưa tiễn mình tôi rất buồn
khi người về tới bến sông
thuyền tôi đã lướt trên giòng viễn du
hồn khuya phơi ướt sương mù
chờ người đau lắm kể từ hoàng hôn
thôi người ở lại sớm hôm
đường xưa ngọn cỏ như là dáng tôi.
TKB
Tên thật: Lê Tấn Nhứt
sinh năm 1948
Mất năm 2005 tại Hoa Kỳ vì một tai nạn xe cộ.
Trước năm 1975: Quân nhân binh chủng Quân Cảnh, phục
vụ tại Phú Quốc và Cần Thơ.
Được xem là một trong số nhà thơ trẻ thuộc thế hệ chiến
tranh của miền đồng bằng Cửu Long được nhiều người mến
chuộng và bạn bè thương mến vì tính rất hào sảng của anh.
TRẦN VĂN SƠN