Hai mươi năm cánh lục bình nhung nhớ
Nhớ dòng sông con nước vẫn chờ mong
Tôi đợi mãi một bóng người xa thẳm
Chiều mênh mang chìm vào cõi xa xăm
(Chiều Cuối Năm)
Năm 2002, tôi quyết định trở về thăm gia đình sau mười hai năm xa quê hương. Chuyến bay 24 tiếng đồng hồ từ Hoa Kỳ về Sài Gòn và cuối cùng tôi đã trở về quê nhà. Dù tôi đã thấm mệt, nhưng tôi không thích ngủ. Không khí náo nức của ngày Tết cuốn hút bước chân tôi. Thế là tôi leo lên xe cùng chị tôi đi chợ Hoa Xuân.
Mỗi năm, khi đến ngày Tết Nguyên Đáng là chợ Hoa Xuân bắt đầu nhóm họp. Những người trồng hoa ở miệt vườn quanh thị xã Thủ Dầu Một, Lái Thiêu, Búng, Sài Gòn, Thủ Đức, Biên Hoà và những chiếc ghe miền Tây chở kiểng, và hoa lên chợ Thủ bán. Chợ Hoa Xuân Thủ Dầu Một tuy nhỏ nhưng cũng rộn rịp và có nhiều loại hoa khác nhau được bày bán dọc theo bờ sông Bạch Đằng. Dạo chợ Hoa Xuân, cũng là một thú vui của tôi khi còn sống tại Việt Nam. Tôi đếm lịch Ta mới biết chỉ còn một tuần nửa là đến ngày Tết Nguyên Đán. Và đêm nào tôi cũng đi lang thang ra chợ Thủ để xem chợ Tết. Đêm ẩm ướt và giá lạnh. Cái rét hiếm thấy vào những ngày cuối năm ở miền đông Nam Bộ. Cảnh vật, con người đã đổi thay. Những ngày giáp Tết làm sao mà ngủ được. Lúc nào chị Ba tôi làm biếng lái xe thì chị gọi Minh, bạn tôi lái xe van đến chở chúng tôi đi chợ Tết. Chợ rộn ràng, tập nập suốt ngày đêm. Tôi đi qua những gian hàng bánh mức, trái cây, dưa hấu chất đầy chợ…Nhưng nơi tôi thích đến nhất là chợ Hoa Xuân kéo dài từ ngã ba đường Bạch Đằng đến tận cuối chợ cá. Những ngày cuối xuân, ngày cũng như đêm, nơi đây đông đúc và nhộn nhịp. Hoa đủ loại được bày bán la liệt: Cúc mâm sôi với những cánh hoa nhỏ từng chùm đan kín, xoè rộng đủ màu, đủ sắc. Hoa cúc vàng thì to như bàn tay óng ả, yếu điệu. Hoa sứ có màu hồng đài các, hoa thược dược, hoa phong lan tím trang đài, u ẩn, hoa huệ trắng thơm ngát…Tôi thích hàng bông thọ nở vàng rực và tỏa mùi hương thôn dã làm tôi ngây ngất. Tôi không hiểu vì sao tôi không thể gọi là hoa thọ mà chỉ thích gọi là bông thọ vì vẻ đơn sơ, mộc mạc của nó. Nhưng bông thọ tượng trưng cho sự tôn kính, thanh cao mà những bà mẹ quê thường mua về cúng ông bà, hay trang trí trên bàn thờ tổ tiên trong ngày giỗ, hay Tết. Dù xa quê hương đã hai mươi năm, tôi vẫn nhớ bông thọ và mùi thơm riêng biệt của nó. Đặc biệt là các chậu hoa mai thì được những bàn tay nhà nghề của nghệ nhân uốn cong và cắt tỉa theo nhiều hình thái khác nhau rất đẹp mắt. Các chậu hoa mai được trồng trong các chậu sành có nhiều hoa vân và giá rất đắc. Chỉ có người giàu mới dám mua về để chưng bày. Mọi người nhộn nhịp đi xem hoa, mua hoa và ngã giá. Tiếng xe chạy, tiếng người mua kẻ bán, tiếng cười nói xôn xao khắp nơi. Không khí ngày Tết thật rộn ràng, ấm áp vui vui.
Con đường Bạch Đằng bây giờ thay đổi nhiều quá. Dọc theo bờ sông đã trồng nhiều cây dừa và kiểng, có những chiếc ghế đá để ngồi hóng mát. Bạn tôi thèm cà phê nên anh đến cái quán cà phê bên đường ngồi uống. Minh nói chúng tôi đi chừng nào muốn về thì cho anh biết. Chị ba tôi thích đi chọn bánh mứt, trái cây, và rau. Còn tôi đi một vòng chợ rồi thích ngồi nghĩ chân bên một chiếc ghế đá trống và nhìn sang chiếc cầu bên kia thành Công Binh. Chiếc cầu xa xa, đen thẩm như một sợi dây thừng dài vắt qua mặt nước dưới ánh đèn đêm khi mờ, khi tỏ. Một thời khói lửa xa xưa, nó đã trở thành mục tiêu của nhà văn quân đội, kiêm đặc công Chu Lai đặt mìn đánh sập. Mấy chục năm, nó hư hỏng và người dân hai bên bờ sông muốn thăm nhau phải đi bằng những chuyến đò đưa khách sang sông. Bến đò nằm ngay chợ cá, gần nhà thủy tạ. Khi tôi trở về, chiếc cầu đã được xây lại cho tử tế, nên tôi mới có dịp sang bên kia sông để ăn cá nướng trui. Trên con đường nầy, sát bờ sông có trường Mỹ Thuật. Bên kia đường đối diện cây đa là HVHNT tỉnh Bình Dương. Cây đa lá xanh rì, tàng xoè rộng che bóng mát cho người qua lại. Và cây đa cũng xõa những sợi dây dài như tóc của người con gái độ tuổi tròn trăng.
Nơi đây, bạn bè tôi thường tụ họp tán dóc và nói những chuyện trời trăng mây nước trong lúc bụng đói meo, cơm áo, gạo tiền vẫn còn oằn nặng trên đôi vai, nỗi khắc khổ hiện rõ trên khuôn mặt từng người. Nói đến đây, tôi nhớ đến nhà thơ Trần Bình Dương, người bạn tài hoa của tôi đã vĩnh viễn rời bỏ kiếp con tầm nhả tơ để mang mơ ước viễn vu về cõi thiên thai. Có thể nơi xa xăm, bồng bềnh sương khói mong lung, anh đang ngồi làm thơ, viết văn, và kể cho những người bạn mới quen về cuộc đời khổ hạnh, về những năm tháng gian truân của một kiếp người. Tài sản của anh là con chữ, là những bài thơ, những bài văn bán đi chẳng ai mua. Châu ơi! Giờ đây, dù anh có đi về đâu trong khoảng không gian vô hình nào đó, thì những nếp nhăn và nỗi lo lắng vẫn luôn ẩn hiện trong đôi mắt anh. Làm sao tôi có thể quên cái dáng còm cõi của anh trên chiếc xe đạp có giàn ngang cũ mèm rong ruỗi trên những con đường chợ Thủ. Rồi những ngày tháng anh lang thang để hồn thơ bay cao trên dòng sông lộng gió. Thông thường, người ta nhớ về những người có địa vị, danh vọng, giàu sang hay quyền thế, còn tôi lại nhớ những người bạn nghèo. Sự đổi ngôi của cuộc đời nầy đâu có gì lạ! Và có ai biết được ngày mai mình sẽ là ai? Và khi mình xuôi tay nhắm mắt, mình sẽ để lại cho xã hội những gì?
Tôi ngồi trên chiếc ghế đá lạnh lẽo và nhìn nhà hàng nổi trên con tàu trước mặt. Đèn sáng choang, tiếng nhạc, tiếng ồn ào cười nói vang vọng trên sóng nước. Những chiếc ghe từ miền Tây lên đây bán cá mắm linh, mắm lóc, nếp, gạo cho những nhà buôn trong chợ cá đậu kín hết bờ sông. Những người dân quê tôi vẫn lam lũ, nhọc nhằn. Họ bán thân xác trên những mảnh ruộng vườn cằn cỗi hay bơi xuồng dọc ngang trên những chiếc đò xuôi dòng sông lên chợ Thủ. Cái bến đò chợ Thủ là nơi hò hẹn của những mối tình trai gái, là nơi người dân quê tôi từ bên nầy hay bên kia sông đón đò đưa họ sang thăm nhau, buôn bán, trao đổi hàng hoá. Bến đò đã trở thành nơi quen thuộc hàng trăm năm nay và vẫn tập nập tàu bè qua lại.
Trước 1975, hạm đội Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà đóng quân tại đây. Đối diện là ngọn đồi cao trồng nhiều cây xanh là dinh Tỉnh Trưởng. Những con tàu sắt ngày đêm tuần tra trên sông làm mặt nước gợn sóng. Bên kia sông là những mảnh vườn cây trái tiếp nối với cánh rừng dầy đặc. Dọc theo bờ sông Bạch Đằng còn có nhà thủy tạ xây hình vuông với chiếc cầu bằng sắt bắt ra sông. Khi còn bé tôi và bạn bè thường đạp xe hoặc đi bộ ra đây chơi. Chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế đá sơn màu vôi trắng đặt dưới chân một giàn hoa giấy màu đỏ, màu hồng. Đối diện là dinh tỉnh Trưởng, dinh thự nầy xây từ thời Pháp thuộc. Những cây dầu cao lớn, lá xanh rì quanh năm lao xao trong gió và tung xuống mặt đường những cánh hoa dầu xoay tít. Dòng sông ngày đó, nước trong xanh như gương vào những ngày nước biển tràn về. Ngồi trên bờ, tôi có thể nhìn thấy đáy sông, cát, đá và những viên cuội trắng phau. Tôi có thể nhìn thấy những con cá cơm, cá liềm kiềm, nho nhỏ tung tăng bơi lội. Nơi đây, tôi đã có những ngày hẹn hò với bạn bè, với những người thân yêu. Chúng tôi ngồi hàng giờ bên nhau, dưới ánh trăng, nhìn trăng rơi trên mặt nước lung linh, huyền ảo. Nơi đây đã chôn sâu những kỷ niệm từ thuở ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành. Dòng sông nầy đã một thời gợi cho tôi bao mơ mộng, nhung nhớ, tiếc thương. Nhưng dòng nước kia cũng đã song hành với thời gian và trôi đi không bao giờ trở lại bến sông xưa.
Bạn bè tôi thường hỏi vì sao gọi chợ Bình Dương là Thủ Dầu Một? Theo tài liệu của Bách khoa toàn thư – Wikipedia, thì Bình Dương là một trong 22 tỉnh của Nam Phần được chính quyền Việt Nam Cộng hòa thiết lập theo Sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956. Tỉnh lỵ là Phú Cường. Vào ngày 30/8/1957, Tỉnh Bình Dương bao gồm 5 quận, 10 tổng, 60 xã.
Bình Dương là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một xưa kia được thành lập vào tháng 12 năm 1899 từ Sở Tham Biện Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh Biên Hòa. Tháng 10 năm 1956 chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể tỉnh Thủ Dầu Một để thành lập các tỉnh Bình Dương, và một phần tỉnh Bình Long.
Năm 1974 dân số tỉnh Bình Dương là 260.008 người.
Thủ Dầu Một là thị xã tỉnh lỵ tỉnh Bình Dương, cách trung tâm Quận 1, Sài Gòn khoảng 31 km về phía bắc. Thủ Dầu Một có diện tích 11.881 ha, gồm 11 phường: Phú Cường, Phú Thọ, Chánh Nghĩa, Hiệp Thành, Phú Hòa, Phú Lợi, Phú Mỹ, Phú Tân, Hòa Phú, Định Hòa, Hiệp An, và 3 xã: Tương Bình Hiệp, Chánh Mỹ, Tân An.
Địa danh Thủ Dầu Một có từ bao giờ? Câu hỏi nầy vẫn còn nhiều người tò mò muốn biết.
Theo nhà soạn từ điển Lê Văn Đức, nhà ngữ học Lê Ngọc Trụ, ở phần địa danh (trang 260) trong “Việt Nam từ điển” (Sài gòn TB 1970) có nguồn gốc từ tiếng Campuchia. Ông cho rằng tên Thủ Dầu Một do âm Việt đọc tiếng Cao Miên “Thun Doán Bôth” có nghĩa là gò có đỉnh cao nhất vì lỵ sở Thủ Dầu Một ở trên ngọn đồi ven sông Sài gòn.
Các tác giả khác nghĩ Thủ Dầu Một là một cụm từ tiếng Việt được hình thành từ sự kết hợp giữa hai thành tố: “Thủ” là từ Hán - Việt có nghĩa là “giữ”vì nơi đây có đồn binh để canh giữ, kiểm soát; “Dầu Một” là tên đất, được cấu tạo theo cách: “Tên một loài thảo mộc. Theo truyền khẩu vì đồn binh canh giữ tại huyện lỵ Bình An nằm trên ngọn đồi có cây dầu lớn quen gọi là “cây dầu một” nên tên gọi THỦ DẦU MỘT ra đời.
Học giả Vương Hồng Sển trong từ điển “Tiếng nói miền Nam” xuất bản năm 1997 (trang 645) cho rằng người Campuchia gọi tên Thủ Dầu Một là “Chhocutal MucyDoem” (Chhocutal: gỗ dầu; Mucy: một; Doem: cây) có nghĩa là “cây dầu một”. Người Hoa cũng dùng tên “Thổ Long Mộc” (cây rồng đất: có thể hiểu đây là cây dầu rái hay dầu lông có chứa chất nhựa rất dễ cháy gọi là “mãnh hỏa du”, để chỉ vùng đất Thủ Dầu Một. Trong hồi ký viết về vùng đất Thủ Dầu Một (xuất bản tại Paris 1863), đại úy L.C Grammont, một viên sĩ quan Pháp đánh chiếm và quân quản Thủ Dầu Một trong thời gian 1861-1862), cũng hiểu “thủ” là “giữ”; “dầu một” là một loại cây nên đã dùng cụm từ Pháp để chuyển nghĩa tên Thủ Dầu Một “garde - un arbre” (garde: giữ, un arbre: một cây).
Riêng chữ “thủ” còn có người hiểu theo nghĩa là “đầu”, đứng đầu như trong các từ kép “thủ sở”, “thủ phủ” là nơi đặt trụ sở một đơn vị hành chính. Trong “Kỷ yếu Thủ Dầu Một - Bình Dương 300 năm hình thành...” (xuất bản năm 1998), nhà nghiên cứu địa bạ Nguyễn Đình Đầu giải thích địa danh Thủ Dầu Một: “Trong địa phận làng này xưa có thủ sở gần cây dầu lớn nhất...” (trang 49) (ngưng trích).
Nếu nói về cây dầu thì Bình Dương trước đây có rất nhiều cây dầu. Ngay ngã Sáu nhìn lên dốc con Cò, ngày nay loại cây này vẫn còn khá nhiều trên khu đồi UBND Tỉnh ủy Bình Dương. Chắc rằng tên Thủ Dầu Một, bắt nguồn từ tên loài cây này mà ra.
Thị xã Thủ Dầu Một nằm bên tả ngạn sông Sài Gòn. Phía Đông giáp các huyện Tân Uyên và Thuận An, phía Tây giáp thành phố Sài Gòn, Nam giáp huyện Thuận An, Bắc giáp huyện Bến Cát và Tân Uyên.
Sông Sài Gòn dài 256 km, chảy dọc trên địa phận thành phố khoảng 80km, có lưu lượng trung bình khoảng 54 m³/s, bề rộng tại thành phố 225m đến 370 m, độ sâu nhiều nơi 20m, diện tích lưu vực trên 5.000 km². Sông Sài Gòn bắt nguồn từ lưu vực cao nguyên Hớn Quảng, tỉnh Bình Phước chảy qua địa phận tỉnh Bình Dương, Sài Gòn, rồi đổ vào sông Đồng Nai ở mũi Đèn Đỏ, thuộc huyện Nhà Bè gọi là sông Nhà Bè với dòng hợp lưu của hai sông Đồng Nai và Sài Gòn.
Vì chảy qua nhiều vùng nên sông mang nhiều tên khác nhau: Từ đầu nguồn đến gần chợ Thủ Dầu Một, Bình Dương, gọi là sông Ngã Cái.
Đoạn từ chợ Thủ Dầu Một đến cư xá Thanh Đa Sài Gòn gọi là sông Thủ Khúc (ngưng trích).
Có một thời gian, chính quyền đã đổi tên Bình Dương là tỉnh Sông Bé. Nhưng đâu có ai thích cái tên nầy. Cuối cùng thì cũng phải đổi lại là tỉnh Bình Dương. Cũng như Sài Gòn. Cái tên đã có trên 300 năm. Dù cho có ai muốn nó mất đi cũng không thể được vì tên gọi của nó đã ăn sâu trong tim óc của nhiều thế hệ nối tiếp.
Rời chợ Hoa Xuân, tôi đến ngồi với Minh. Anh hỏi tôi có đói không. Tôi gật đầu. Chị ba tôi mua quá nhiều đồ ăn và hoa nên Minh phải lái xe đưa chị về. Còn tôi cảm thấy đói bụng. Tôi muốn tìm cái gì đó để ăn. Minh đưa tôi đến quán bánh xèo Sài gòn nằm dọc trên con đường Bạch Đằng gần bờ sông. Minh hỏi “Bạn có nhớ nơi nầy là không?” Tôi lắc đầu. Minh cười nói “Bên kia đường là nhà của bạn đó. Ngày xưa tôi thường đến đây thăm bạn. Con sông nhỏ chảy qua đây là nhà hàng nầy.” Tôi nhìn quanh và nhận ra chốn cũ. Tôi còn nhớ như in chi nhánh con sông nhỏ chảy, nước sông dâng cao và bầy vịt con tôi nuôi mỗi mùa hè bơi lội tung tăng trong đám lục bình. Tôi còn nhớ con vịt mái lông trắng như tuyết đã ấp trứng trong cái ổ tôi lót dưới giàn mướp. Mỗi ngày nó đẻ trứng rồi ấp trứng. Tôi rình xem những chú vịt con có bộ lông tơ vàng óng, với đôi mắt to đen, cái mỏ nhỏ xíu xinh xắn nở ra từ cái trứng đã bóc võ như một kỳ quan lạ lùng của thiên nhiên làm tôi khoái chí cười vang. Tôi nâng niu từng chú vịt bé bỏng, mình còn đầy nhớt nhao, ướt nhẹp rồi đem chúng đi sưởi ấm trong cái ổ rơm. Hàng ngày, sau khi đi học về tôi tha hồ chơi đùa với chúng. Mùa hè, tôi đi hái rong, hái bèo, và lục bình thả trên trong chiếc lưới mắt cáo trên sông để cho chúng bơi lội, bì bỏm tìm mồi. Rồi chúng lớn lên, Má tôi phải năn nỉ tôi đem đi làm thịt khi có khách quý đến nhà. Tôi cứ nằm lăn ra đất khóc hu hu…Tôi nuôi con gì là thương con vật đó như người. Sau nầy tôi lớn lên, gia đình bắt đầu kháng kiệt, tôi mới biết rằng gà vịt nuôi trong nhà không phải để làm kiểng. Tôi kể cho Minh nghe chuyện ngày tôi còn bé và kỷ niệm ngây thơ về dòng sông. Minh cười và nói: “Dòng sông nầy đang cạn dần, lòng sông chứa đầy rác mà người ta thay nhau đem ném xuống sông. Nước sông bị ô nhiễm nặng. Bạn không còn dám bơi lội như xưa nữa đâu. Bao nhiêu năm nay rồi tôi nhìn dòng nước đen và ô nhiễm mà buồn trong bụng. Tôi gật đầu đồng tình: “Hồi nảy tôi thấy nước lớn nên thích ngồi trên ghế đá nhìn ra sông. Gió lùa hơi nước xông lên mũi mùi hôi thối. Tôi hơi ngạc nhiên vì tưởng mùi bùn. Nhưng không, nước đang lên. Anh nói đúng dòng sông đang ô nhiễm nặng…chị tôi và các cháu nói rằng họ không dám thò chân xuống nước, nói chi tới chuyện bơi lội như ngày chúng tôi còn bé.”
Mấy hôm sau, nhà thơ Trần Bình Dương, chị Xuyến và nhà thơ Nguyễn Công Dinh cũng mời chúng tôi đi ăn bánh xèo Sài Gòn. Năm 2008, tôi trở về Thủ Dầu Một lần thứ hai, nhạc sĩ Võ Đông Điền và chị Mai cũng mời chị em tôi đi ăn trong cái nhà hàng nầy. Chị Ba tôi chỉ tay sang bên đường nói: “Hồi đó nhà tôi ở đây đó”. Hình như không ai để ý lời chị tôi nói vì không ai biết được rằng gia đình tôi đã sống nơi đó. Cái nhà hàng nầy đã dựng lên trên một nhánh nhỏ của con sông đã bị san lấp bằng phẳng chẳng còn để lại một vết tích nào. Nhìn sang con đường đối diện là căn nhà cũ của tôi. Người ta đã dựng lên những căn chòi bằng cỏ tranh và buôn bán những tấm phên lợp vách bằng lá dừa đan lại. Cỏ tranh, lá dừa khô vương vãi khắp nơi trong sân trước, sân sau. Nhánh sông cũng đã bị san lấp bằng phẳng và dùng cho việc kinh doanh, buôn bán. Tôi hỏi thăm bà chủ quán về những người quen cũ, nhưng bà hầu như không biết ai. Những người hàng xóm thân quen đã từ từ rời bỏ nơi nầy ra đi. Họ đi đâu và về đâu nào ai biết. Cũng như gia đình tôi đã mất hết gia sản và phải dọn về một dãy phố chật hẹp mà xung quanh thiếu vắng tình người. Giờ đây, gần hai mươi năm xa quê hương, tôi trở lại nhìn cảnh cũ nhớ người xưa. Căn nhà tuổi ấu thơ sao hoang phế, tiêu điều. Khu vườn nho nhỏ, có bụi mía lau, hoa dâm bụt, hoa nhài, hàng chuối sứ, cây ổi, cây dừa, cây mận, cây mít…đã biến mất từ lâu. Người chủ mới đã xây một bức tường kiên cố bao quanh. Giàn hoa giấy đỏ, tím lay lay trong gió mà thuở bé tôi thường nghịch ngợm hái phơi khô kết thành những vòng hoa nhỏ để chơi đã không còn để lại một dấu vết. Người xưa đã khuất bóng và bể dâu cuộc đời đã đưa họ trôi dạt về đâu? Khuôn mặt những người bạn ấu thơ như còn quanh quẩn đâu đây trong trí nhớ của tôi. Nhưng âm thanh, giọng nói, tiếng cười và hình bóng họ chỉ còn là dĩ dãng. Thời gian đã xoá sạch vết tích cũ. Tôi tự hỏi “vì sao tâm trí con người ghi lại làm chi những kỷ niệm mốc meo để lòng trĩu nặng nỗi buồn?” Tôi hỏi tôi hay hỏi ai đó, những người tham dự vào dòng chảy của cuộc đời ngắn ngủi nầy, sao lại nghĩ ra chi cuộc chiến tranh tương tàn, để thế hệ tôi bị chia ly vì ý thức hệ? Và giờ đây dù chiến tranh đã khép lại từ lâu, những con người có trái tim và bộ óc nhỏ như hột mít vẫn nuôi dưỡng lòng thù hận, ghét bỏ nhau? Lủ trẻ thế hệ chúng tôi vẫn chưa tìm ra được tình tự dân tộc để mơ ước ngày trở về sống yên bình trên quê hương thân yêu.
Đã nhiều năm tháng trôi qua, tôi mãi đi tìm những trái tim chân thành, biết ghét và yêu đúng nghĩa đã thật sự khó khăn. Từng bước chân tôi đi qua trong suốt những năm tháng của tuổi hoa niên và trưởng thành là nhìn thấy ly tán, đau buồn và nghiệt ngã nhiều hơn hạnh phúc và bình an. Tôi cũng nghiệm ra rằng mỗi người Việt Nam trên quê hương tôi niềm đau và nỗi buồn lặn sâu vào tâm hồn của họ.
Ba ngày Tết rồi cũng đi qua. Đường phố trở nên vắng lặng. Sau những ngày chuẩn bị tống cựu, nghinh tân, mua sắm, chuẩn bị cho ba ngày Tết, mọi người lại bắt đầu cho ngày Rằm Tháng Giêng cũng nhộn nhịp không kém. Chị Ba tôi và các cháu muốn tôi ở lại ăn Rằm Tháng Giêng, xem múa lân và viếng thăm chùa bà Thiên Hậu. Nhưng tôi không có thời gian. Tôi đã chuẩn bị hành trang trở lại Hoa Kỳ. Đêm cuối cùng tôi không ngủ. Tôi lại ra bờ sông ngồi nhìn con nước trôi xuôi. Đi tìm một ghế đá trống lúc nầy thật khó khăn. Tất cả các ghế đá đều kín người. Người ta yêu con sông nầy và thích ra đây đổi gió, tâm sự. Nhưng không ai để ý đến cái chết âm thầm của một dòng sông.
Lòng tôi xao xuyến khi biết rằng ngày mai mình lại ra đi. Tôi đã mang dòng sông và đám lục bình có màu hoa tím nhạt nhoà, chập chờn trên sóng nước vào những câu chuyện kể, những áng văn thơ và trong cả những giấc mơ. Tôi ao ước dòng sông sẽ xanh trong như ngày xưa để tôi được một lần trở lại trầm mình trong dòng nước mát, được bơi lội như ngày còn thơ bé, được uống một ngụm nước trong lành và nằm nghe dòng sông hát những lời tình tự dưới trăng.
Đêm nay, ngồi viết những dòng tâm sự cho người chợ Thủ, như nhớ như thương một tình nhân đã chia ly. Tôi thì thầm một mình “Hãy ngủ đi sông ơi! Ngày mai đời đôi ngã. Hồn tôi sao buốt giá. Thương quê nhà thiết tha.”./.
Chú thích: Tài liệu Bách Khoa Toàn Thư-Wikipedia online có ghi chép nhiều chi tiết quan trọng về tỉnh Bình Dương.